Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp ...

Tài liệu Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn quận 6 thành phố hồ chí minh

.PDF
90
275
91

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG MỘNG TRI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG MỘNG TRI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các nội dung và trích dẫn trong luận văn này là trung thực và chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố. Tác giả luận văn Dương Mộng Tri MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ......................................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặt trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................................................7 1.2. Các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ......................................................................255 1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự ......................27 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................................................ 33 2.1. Thực tiễn định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...........................................................................................33 2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .....................................48 Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................... 57 3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .................................................................57 3.2. Hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................699 3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh ...711 3.4. Nâng cao năng lực của người áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong ngành Tòa án tại Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................733 3.5. Các biện pháp khác ............................................................................................74 KẾT LUẬN............................................................................................................. 788 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử QĐHP Quyết định hình phạt TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TNHS Trách nhiệm hình sự TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp dẫn đến chết người với tội giết người trong trường hợp tội phạm hoàn thành ..................................................................................................29 Bảng 1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội giết người trong trường hợp phạm tội chưa đạt ..........................31 Bảng 2.1. Số liệu tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017 ...35 Bảng 2.2. Số liệu về loại hình phạt, mức hình phạt, số bị cáo bị xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2013 đến năm 2017 ...................................................................................................................49 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội con người là vốn quý nhất, là một thực thể quyết định sự hình thành và phát triển xã hội, vì lẽ đó con người luôn được xã hội bảo vệ, cụ thể là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được xã hội ghi nhận và pháp luật bảo vệ một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ. Nguyên tắc này đã được xã hội ghi nhận trong các bản Hiến pháp qua các thời kỳ và một lần nữa nó được Hiến pháp năm 2013 kế thừa và ghi nhận:“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [23, tr.6]. Nguyên tắc này cũng được pháp luật bảo vệ và được quy định cụ thể trong BLHS năm 2015:“Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” [21, tr.5]. Quận 6 TPHCM với vị trí địa lý nằm về phía tây nam thành phố, phía bắc giáp với quận Tân Phú và Quận 11, Phía đông giáp với Quận 5, Phía nam giáp với Quận 8, Phía tây giáp với quận Bình Tân. Là cửa ngõ giao thương và vận chuyển hàng hóa với các tỉnh miền đông, miền tây nam bộ và các tỉnh thành khác trong cả nước. Quận 6 có khu vực Chợ Lớn là nơi tập trung bán buôn và phân phối tất cả các mặt hàng cho các chợ trong và ngoài thành phố, đặc biệt là chợ đầu mối Bình Tây là một trong những trung tâm bán buôn lớn nhất của cả nước. Bên cạnh đó, Quận 6 có nhiều nhà máy sản xuất, chế biến hàng tiêu dùng và đặc biệt là các cơ sở sản xuất kinh doanh mang tính cá thể, hộ gia đình, tiểu thủ công nghiệp. Thế mạnh của Quận 6 là sản xuất, thương mại, trong đó chủ yếu là bán buôn và thực hiện trao đổi các sản phẩm hàng hóa với tất các tỉnh thành trong cả nước. Trong những năm gần đây, Chính quyền Quận 6 đã thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo 1 hướng “Thương mại - Dịch vụ - Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp” qua đó tạo sự chuyển biến rõ nét, tích cực trong phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Quận 6 có tổng diện tích là 7,19 km2, chiếm 0,35% tổng diện tích tự nhiên của toàn thành phố. Dân số hiện nay của Quận 6 là khoảng hơn 260.000 người, bao gồm người Kinh chiếm khoảng 73%, người Hoa chiếm khoảng 26% còn lại là người Chăm, người Khơ - me, người Tày, người Nùng. Với những điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi đó đã tạo nền tảng thúc đẩy nền kinh tế Quận 6 phát triển rất nhanh chóng và ổn định. Hiện nay dân số cơ học của Quận 6 tăng lên rất nhanh với phần đông là dân nhập cư ở các tỉnh khác đến định cư, làm ăn và sinh sống, tạo nên mật độ dân số cao, dân số trẻ và đa số là thành phần lao động phổ thông. Trong số đó vẫn còn không ít người không có việc làm hoặc có việc nhưng không có tính ổn định, hiện tượng tăng dân số cơ học cùng với sự không ổn định trong cuộc sống cũng như trong công việc của người dân tại địa phương là nguyên nhân và là nguồn cho tội phạm phát triển, đặc biệt là tội phạm về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người thì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là một trong những tội có xu hướng gia tăng về quy mô, tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, dẫn đến tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp, gây nên nhiều khó khăn cho công tác quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước. BLHS năm 2015 đã ghi nhận và quy định rất cụ thể về tội danh này tại Điều 134. Tuy nhiên, trong thực tế việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để xử lý đúng người, đúng tội đối với loại tội phạm này vẫn còn nhiều vấn đề nhận thức khác nhau, nhiều văn bản hướng dẫn để giải quyết vướng mắc về một số tình tiết vẫn chưa có sự thống nhất, có nhiều trường hợp nhận định không đúng tội danh hoặc bỏ sót tội phạm làm ảnh hưởng đến công tác điều tra, truy tố, xét xử. Cụ thể như một số hồ sơ vụ án không thể đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định vì phải chờ có kết quả giám định tỷ lệ tổn thương; Điều kiện để vụ án được khởi tố là phải thực hiện theo yêu cầu người bị hại, nên thường phát sinh nhiều vấn đề phức tạp như người phạm 2 tội cố tình thương lượng, mua chuộc hoặc thậm chí đe dọa làm cho người bị hại không dám yêu cầu khởi tố hoặc không thể thực hiện giám định thương tật. Do đó việc lựa chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn nghiên cứu là rất cần thiết và hết sức cấp bách nhằm bảo đảm thực hiện tốt trong việc áp dụng pháp luật hình sự và nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo sự ổn định về trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế trên địa bàn Quận 6 TPHCM. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Theo khảo sát của tác giả, vấn đề về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và có rất nhiều công trình khoa học lớn, điển hình như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), GS.TS. Võ Khánh Vinh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học (phần các tội phạm), các tác giả khác như TS. Trần Văn Luyện, PGS.TS. Phùng Thế Vắc, ThS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Mai Bộ, ThS. Nguyễn Sỹ Đại, ThS. Phạm Thanh Bình cũng đã có những công trình bình luận khoa học về phần các tội phạm trong BLHS. Bên cạnh đó còn có các bài luận văn nghiên cứu về tội phạm này với góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm như tác giả Võ Ngọc Đường, Lê Văn Quang, Đinh Hoài Thu, vấn đề này cũng được phản ảnh nhiều với nhiều hình thức thông qua các bài viết được đăng trên các tạp chí, tập san về pháp luật. Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm rõ được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của tội danh này dưới nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu về pháp luật hình sự vẫn chưa có công trình nghiên cứu đặt trưng nào nghiên cứu về áp dụng pháp luật cũng như đưa ra những hạn chế, bất cập về thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 6 TPHCM. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn, về vấn đề áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 6 TPHCM. Từ đó làm cơ sở để đưa ra các kiến nghị và giải pháp giúp hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm nói trên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung và các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đồng thời phân biệt những đặt điểm khác nhau giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội danh khác. Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về thực trạng trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự, đồng thời rút ra những kết quả đạt được, những bất cập, hạn chế, nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 6 TPHCM. Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và công tác phòng chống tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM từ năm 2013 đến năm 2017. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung và nghiên cứu tình hình thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự đối 4 với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài này là dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của học thuyết tư tưởng triết học Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng các phương pháp tổng hợp gồm các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội cũng như của khoa học pháp lý như phương pháp lịch sử, phân tích, thống kê, so sánh, lấy ý kiến chuyên gia. Dựa trên các số liệu thực tiễn trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn này có ý nghĩa quan trọng là làm rõ những vấn đề về lý luận và đánh giá thực trạng áp dung pháp luật hình sự trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đồng thời tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nhằm đưa ra những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả, góp phần hoàn thiện lý luận về tội phạm và về việc áp dụng pháp luật đối với tội danh đó. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thực tiễn là góp phần làm sáng tỏ hơn nữa các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nâng cao hiệu quả về việc áp dụng pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM, góp phần trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, luận văn này còn có thể sử dụng 5 làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức và có thể sử dụng cho công việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung luận văn được sắp xếp ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo, được chia thành ba chương chính sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chương 2: Thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặt trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Khái niệm tội phạm luôn là vấn đề trung tâm của pháp luật hình sự. Trong lịch sử khoa học pháp lý hình sự có nhiều quan điểm về khái niệm tội phạm, việc đưa ra khái niệm này cho phép nhận biết hành vi nào là tội phạm, hành vi nào không phải là tội phạm. Ở các nước Châu Âu, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự chỉ quan tâm và nhấn mạnh đến tính hình thức của tội phạm, cụ thể họ cho rằng “Tội phạm được hiểu là các hành vi do luật hình quy định” hoặc là “Tội phạm là hành vi bị luật hình sự cấm hoặc là hành vi bị đạo luật hình sự trừng trị” (BLHS Pháp năm 1810) hoặc là “Tội phạm là hành vi do luật hình sự cấm bằng nguy cơ xử phạt” (BLHS Thụy Sĩ năm 1937) [35, tr.45], như vậy các yếu tố luật hình sự quy định, luật hình sự cấm, luật hình sự trừng trị là đặc điểm đặc trưng của tội phạm. Khái niệm tội phạm được các nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra với nhiều quan điểm khác nhau, như có quan điểm định nghĩa về khái niệm “Tội phạm là sự vi phạm trật tự các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ” [9, tr.105], song cũng có quan điểm về khái niệm tội phạm là “hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt” [8, tr.253]. Nhưng nhìn chung đều xác định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự; tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện; thực hiện hành vi phạm tội có lỗi vô ý hoặc cố ý; tội phạm xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Trong BLHS năm 2015 đã kế thừa quan điểm về tội phạm của BLHS năm 1999 và đưa ra khái niệm “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp 7 nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [21, tr.11]. Tuy nhiên có sự khác biệt là trong BLHS năm 2015 đã xác định rõ vấn đề tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà theo quy định của bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Quan điểm về tội phạm mà BLHS năm 2015 quy định có thể xem là một khái niệm mang tính cơ bản và tính thực tiễn, tập trung cao nhất thể hiện quan điểm của nhà nước về chính sách hình sự, về tội phạm và là nền tảng của luật hình sự. Khái niệm này có các dấu hiệu đặt trưng cơ bản giúp nhận định và phân biệt những hành vi nào là tội phạm với những hành vi không phải là tội phạm, thể hiện qua tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính chịu hình phạt của tội phạm. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định trong BLHS là một loại tội phạm cụ thể. Về khái niệm của loại tội phạm này có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu đưa ra, như là:“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe” [19, tr.126] hoặc cũng có quan điểm cho rằng:“Tội cố ý gây thương tích là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương, xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khoẻ của con người. Hành vi cố ý gây thương tích bị coi là tội phạm, tội phạm đó được quy định tại Bộ luật hình sự” [11, tr.44]. Nhìn chung, khái niệm về tội danh này được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận nhất đó là:“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác, gây thiệt hại cho sức khỏe dưới dạng thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các trường hợp luật định” [34, tr.96], khái niệm này đã thể hiện rõ những đặc điểm đặc trưng cơ bản của loại tội phạm này như sau: 8 Tính nguy hiểm cho xã hội: là đặc điểm cơ bản và quan trọng quyết định các đặc điểm khác của tội phạm, là tiêu chí để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. đặc điểm đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người phạm tội thực hiện hành vi trái pháp luật tác động đến thân thể của nạn nhân làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ, những hành vi như: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc... làm cho cơ thể nạn nhân bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe với một tỉ lệ nhất định. Hình thức hành vi của tội phạm này giống với hành vi của tội phạm giết người, nhưng có hậu quả và tính chất mức độ nguy hiểm ít hơn, do đó chỉ làm cho nạn nhân bị tổn thương cơ thể gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và không dẫn đến cái chết cho nạn nhân. Tính trái pháp luật hình sự: Tính trái pháp luật hình sự của tội phạm nghĩa là tội phạm về mặt hình thức phải được quy định trong BLHS. Tính trái pháp luật hình sự có cơ sở pháp lý từ một quy định mang tính nguyên tắc, đó là “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì mới phải chịu hình phạt” [21, tr.6]. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thể hiện là người phạm tội thực hiện những hành vi tác động đến thân thể nạn nhân, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhân và những hành vi này bị luật hình sự nghiêm cấm và được quy định trong BLHS. Tính có lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của mình và là hậu quả của hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý, thể hiện sự phủ nhận các yêu cầu của xã hội. Người bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu hành vi đó là kết quả của sự lựa chọn và quyết định của một người với một trình độ nhận thức nhất định đó là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được BLHS quy định đối với người thực hiện tội phạm thường là thể hiện lỗi là cố ý, nói một cách khác là người phạm tội luôn biết được việc mình làm và nhận thức rõ việc thực hiện hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể người khác sẽ gây ra thương tích hoặc tổn hại cho cơ thể nạn nhân và người phạm tội mong muốn thực hiện hành vi đó. Ý định của người phạm tội là muốn gây 9 ra tổn thương cho nạn nhân hoặc gây ra hậu quả là nạn nhân sẽ bị thương tích và tổn hại đến sức khỏe sau khi thực hiện hành vi. Hành vi này được thực hiện với hình thức lỗi cố ý và là dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm này. Tính chịu hình phạt: Là đặc điểm cơ bản của tội phạm vì không thể tách hình phạt ra khỏi tội phạm, tội phạm là cơ sở để áp dụng hình phạt, đối với mọi hành vi phạm tội thì bao giờ cũng qui định loại hình phạt và mức hình phạt đối với loại tội phạm đó. Tuy nhiên có trường hợp người phạm tội không phải chịu hình phạt, đó là trường hợp người phạm tội có tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn chấp hành hình phạt. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trong BLHS có quy định các mức hình phạt đối với người phạm tội là: cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân. Các đặc điểm đặc trưng trên là cơ sở để phân biệt tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Hiện nay, vấn đề về các dấu hiệu, đặc điểm của tội phạm vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về nhận thức, một số nhà nghiên cứu cho rằng ngoài các dấu hiệu đặc điểm của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi, tính chịu hình phạt cũng còn có dấu hiệu đặc điểm nữa là hành vi phạm tội phải do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện được quy định trong BLHS. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được BLHS quy định là một tội phạm cụ thể nhưng khi xem xét về khía cạnh thực hiện hành vi phạm tội đã thể hiện rõ ràng có hai yếu tố xác định hành vi phạm tội này đó là hành vi gây thương tích cho người khác và hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Hành vi gây thương tích cho người khác là hành vi của người phạm tội thực hiện trái pháp luật tác động lên cơ thể người khác, gây ra cho cơ thể họ những thương tích hoặc làm cho nạn nhân mất đi một hay nhiều bộ phận cơ thể gây ra những tỷ lệ thương tích nhất định. Việc thực hiện hành vi tác động này của người phạm tội có thể thực hiện trực tiếp bằng tay, chân hoặc sử dụng các công cụ phương tiện hỗ trợ như: dao, súng, gậy, mã tấu… Hành vi gây tổn hại cho sức khỏe 10 của người khác là hành vi của người phạm tội thực hiện trái pháp luật tác động lên cơ thể người khác làm cho sức khỏe của họ bị yếu đi và gây tổn hại đến các chức năng, bộ phận trong cơ thể con người không còn nguyên vẹn so với lúc ban đầu. Hành vi tác động này người phạm tội có thể sử dụng bằng nhiều cách khác nhau và dùng nhiều thủ đoạn khác nhau không để lại dấu vết như: bỏ thuốc độc vào thức ăn, dùng hóa chất độc hại, dùng axit… Bên cạnh đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải cần có yếu tố bắt buộc là phải có hậu quả xảy ra tức là trên cơ thể nạn nhân bắt buộc phải có thương tích hoặc có tổn hại đến sức khỏe với tỷ lệ phần trăm nhất định và phải được xác định bằng cách giám định pháp y của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Do đó yếu tố có hậu quả xảy ra là yếu tố cơ bản và là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này. 1.1.2. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Cấu thành tội phạm là mô hình pháp lý của một tội phạm được quy định trong BLHS, nó là tổng hợp những dấu hiệu chung và phản ánh được tính chất đặc trưng cho mỗi loại tội phạm cụ thể. Mỗi loại tội phạm đều có những dấu hiệu phản ánh được bản chất nguy hiểm cho xã hội với những nét điển hình đặc trưng riêng. Cấu thành tội phạm của mỗi loại tội phạm cụ thể luôn có cùng cấu trúc chung gồm bốn yếu tố cấu thành: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Các yếu tố này phản ánh chính xác bản chất của một tội phạm cụ thể, nó làm rõ đặc điểm pháp lý của tội phạm đó. Mỗi yếu tố cấu thành của tội phạm đều có mặt quan trọng của nó và có ý nghĩa nhất định trong việc xác định tội phạm, vì thế nếu thiếu một trong những yếu tố đó thì một hành vi không thể bị coi là tội phạm. Các yếu tố này không tồn tại một cách độc lập mà nó có sự liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan của tội phạm, giữa những biểu hiện bên trong và biểu hiện bên ngoài của tội phạm, đồng thời nó phản ánh mức độ tính chất và mức độ nguy hiểm cho mỗi loại của tội phạm. 11 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được BLHS quy định là một loại tội phạm cụ thể, do đó trong tội phạm này có đầy đủ các yếu tố cấu thành đó là khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. 1.1.2.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Khách thể của tội phạm “là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [35, tr.64]. Bất kỳ quan hệ xã hội nào trong các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại đều được hợp thành ba bộ phận: Chủ thể quan hệ xã hội là con người với tư cách là thực thể tự nhiên và thực thể xã hội; Nội dung của quan hệ xã hội là các hoạt động bình thường khi tham gia vào các quan hệ xã hội của các chủ thể thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhất định; Đối tượng vật chất của quan hệ xã hội là các sự vật hoặc các lợi ích vật chất mà thông qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại. Các bộ phận hợp thành này chính là đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm“là một bộ phận của khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội là khách thể được bảo vệ của luật hình sự” [35, tr.85] Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đó là các quyền được tôn trọng, được bảo vệ sức khỏe của con người và được pháp luật bảo hộ. Đối tượng tác động của tội phạm này là thân thể và sức khỏe của những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ, đó chính là những con người đang sống, đang tồn tại trong thế giới hiện thực khách quan với tư cách vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội tồn tại trong xã hội 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Mặt khách quan của tội phạm“là những thể hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những biểu hiện bên ngoài khác luật hình sự” [35, tr.64]. 12 Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của người phạm tội diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, với các dấu hiệu đặc trưng là: Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; Các điều kiện để thực hiện tội phạm của người phạm tội như thời gian, phương tiện, địa điểm, công cụ phạm tội hoàn cảnh phạm tội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đó là các hành vi có khả năng gây nên những thương tích và gây ra những tổn thương cho cơ thể dẫn đến làm tổn hại cho sức khỏe của con người. Những hành vi này có thể là hành động hoặc là không hành động, có thể được thực hiện những với công cụ, phương tiện phạm tội khác nhau hoặc có thể thông qua một chủ thể khác nhằm đạt được mục đích mong muốn. Hành vi khách quan của tội phạm này có các đặc điểm sau: + Hành vi khách quan của tội phạm này có tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội này được thể hiện là những hành vi phải gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho người khác, đó là những hành vi như đâm, chém, đánh, đập, cho uống thốc độc, hóa chất, tạt axit…Những hành vi này khi tác động vào thân thể con người sẽ tạo ra những thương tích hoặc gây ra những tổn thương cho một hoặc một số bộ phận trên cơ thể hoặc gây ra những tổn hại trong cơ thể như làm suy yếu hoặc làm giảm hoặc mất đi hoàn toàn các chức năng của một hay một số cơ quan nào đó trong cơ thể con người, làm ảnh hưởng đến khả năng hoạt động trong lao động, sinh hoạt cũng như ảnh hưởng đến khả năng về nhận thức trong suy nghĩ, học tập, sáng tạo của nạn nhân. + Hành vi khách quan của tội phạm này là hoạt động có ý thức và có ý chí. Hành vi khách quan này được tội phạm kiểm soát bằng ý thức và điều khiển bằng ý chí, đó là hành vi có chủ ý và là hành vi cố ý. Người phạm tội bằng ý chí và suy nghĩ của mình nhất quyết thực hiện cho được mong muốn là gây ra những thương 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan