Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạn...

Tài liệu Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động từ thực tiễn tỉnh bình dương

.PDF
86
298
137

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TĂNG VĂN HOÀNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TUNG HÌNH SƯ Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TĂNG VĂN HOÀNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sư Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH Hà Nội, năm 2019 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH ................................................. 8 1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. ...... 8 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. .......................................................................................... 19 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG ……………29 2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong xét xử vụ án về các tội xâm phạm sức khỏe của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. ..................................................................................................................... 29 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶCTỔN HẠI VỀ SỨC HỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH……………………………49 3.1. Yêu cầu................................................................................................. 49 3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. ............................................. 56 KẾT LUẬN………………………………………………………………...75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS :Bộ luật hình sự BLTTHS :Bộ luật tố tụng hình sự GS. TS :Giáo sư Tiến sĩ TAND :Toà án nhân dân TANDTC :Toà án nhân dân tối cao XHCN :Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Con người là vốn quý nhất của xã hội, chính vì vậy, quyền con người nói chung, tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người nói riêng được pháp luật của tất cả quốc gia, trong đó có Việt Nam ghi nhận và bảo vệ. Hiến pháp năm 2013 của nước ta tại Điều 20 có quy định: “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phận thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự nhân phẩm”. Tháng 12 năm 2013 Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước quốc tế về chống tra tấn năm 1984 thể hiện quyết tâm của Việt Nam, đảm bảo cho mọi người được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Để cụ thể hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người tại Chương XIV, trong đó nhóm các tội xâm phạm tính mạng của con người gồm 13 tội danh được quy định tại các điều từ Điều 123 đến Điều 133 và các Điều 148,149 BLHS; nhóm các tội xâm phạm sức khỏe của con người gồm 7 tội danh được quy định tại các các điều từ Điều 134 đến Điều 140 BLHS; nhóm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người gồm 14 tội danh được quy định tại các điều từ Điều 141 đến Điều 147 và các điều từ Điều 150 đến Điều 156 BLHS. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổ hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 135 BLHS năm 2015. So với Điều 105 BLHS năm 1999 về nội dung cấu thành tội phạm thì về cơ bản không có gì thay đổi. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này cho đến nay vẫn tiếp tục gặp không ít khó khăn, vướng mắc. 1 Bình Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Bộ và trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều khu công nghiệp lớn. Bên cạnh những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, thì Bình Dương cũng là một trong những địa bàn phức tạp về an ninh trật tự nói chung, về tình hình tội phạm nói riêng, trong đó có tình hình các tội xâm phạm sức khỏe. Mặc dù, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự của tỉnh Bình Dương, nhất là tòa án nhân dân đã nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình trong việc điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm sức khỏe của người khác, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, đồng thời không làm oan người vô tội, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sưc khỏe nhất là tội cố ý gây thương tích hoặc gây hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định, cần phải khắc phục. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật thực định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nười khác và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dương nhằm làm phong phú thêm những vấn đề lý luận, làm rõ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong thực hiện áp dụng qua đó kiến nghị những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của bộ luật hình sự năm 2015 về tội phạm này là một đòi hỏi cấp bách. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người nói chung, về nhóm tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người nói riêng. 2 - Ở cấp độ giáo trình: có giáo trình Luật hình sự Việt Nam – phần các tội phạm do GS.TS Vô Khánh Vinh chủ biên được nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 2014. Trong giáo trình này có đề cập đến những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng tinh thần bị kích động mạnh. Ngoài giáo trình này, còn có các giáo trình luật hình sự Việt Nam – phân các tội phạm của các cơ sở đào tạo ngành luật khác như khoa Luật – Đại học Quốc Gia; Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.v.v. cũng đề cập đến tội phạm này ở khía cạnh lý luận và quy định của luật thực định. - Ở cấp độ bình luận khoa học BLHS, có cuốn Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm) quyển 1, do GS.TS Nguyễn Ngọc Hóa chủ biên, được nhà xuất bản tư pháp phát hành năm 2018, trong đó có bình luận tội cố ý gây thương tích gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do tinh thần bị kích động mạnh. - Ở cấp độ luận án, luận văn thạc sĩ: có nhiều luận án, luận văn thạc sĩ đề cập đến tội phạm này, điển hình là luận án Tiến sĩ: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe từ thực tiễn tỉnh Hải Dương”, trong đó có đề cập đến vấn đề trách nhiệm hình sự đồi với các tội xâm phạm sức khỏe nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người người khác do tinh thần bị kích động mạnh. - Ở cấp độ các bài báo cáo khoa học: có rất nhiều các bài báo khoa học liên quan đến chủ đề này đã được công bố tại các tạp chí chuyên ngành, điển hình là bài: “Bàn về một số quy định của BLHS năm 2015 về các tội xâm phạm sức khỏe” của tác giả Nguyễn Huy Tài – Tạp chí Kiểm sát số 4 – 2018; 3 bài: “Một số ý kiến về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015” của tác giả Phan Minh Tuyên, Tạp chí Tòa án nhân dân số 12 (Kỳ II tháng 6/2018); bài: “Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015 và những giải pháp đảm bảo áp dụng” của tác giả Nguyễn Duy Hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân số 24 (Kỳ II tháng 12/2016); bài: “Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” của tác giả Vũ Thị Tố Nga, Tạp chí Kiểm sát số 7/2016; bài: “Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 125 BLHS năm 2015” của tác giả Đặng Thu Hiền, Tạp chí Nghề luật số tháng 5/2016.v.v. Như vậy, mặc dù có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở các cấp độ khác nhau. Song do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của các công trình đó thấy rằng, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh từ thực tiễn ở một địa bàn cụ thể là tỉnh Bình Dương. Qua đây có thể xác định nội dung của luận văn không trùng với các công trình khoa học đã được công bố về chủ đề này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dương, luận văn hướng tới việc thiết lập các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS về tội phạm này. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Phân tích, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan. - Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người khác, chỉ ra những bất cập, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. - Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy địn của BLHS và tội cố ý gây thương tíc hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, chỉ ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân. - Đưa ra các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái bị kích động mạnh. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự và tội cố ý thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái bị kích động mạnh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu. Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành Luật hình sự về: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 5 người khác trong trạng thái bị kích động mạnh” từ thực tiễn áp dụng các quy định đó tại tỉnh Bình Dương trong thời gian 2014 – 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 5.1. Phương pháp luận. Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng đồng bộ, kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây để làm rõ những vấn đề thuộc nội dung luận án như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. 6.1. Ý nghĩa lý luận. Luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm những vấn đề lý luận chuyên ngành (luật hình sự) về một tội phạm cụ thể: 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS 2015 về tội phạm này đảm bảo đúng pháp luật. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hình sự. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 6 Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại tỉnh Bình Dương. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH 1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 1.1.1. Khái niệm. Dựa trên khái niệm về tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành và quy định của Điều 135 Bộ luật này, về mặt lý luận có thể hiểu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh một cách đầy đủ là “hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định trong BLHS Điều 135 do người có năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người”. Từ khái niệm này cho thấy, là một trong những tội phạm do BLHS quy định, do vậy có những dấu hiệu chung của tội phạm, đồng thời cũng có những dấu hiệu giống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS. Tuy nhiên, đây là một trường hợp cố ý thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, vì thế cũng có những dấu hiệu pháp lý khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS. 8 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này. 1.1.2.1. Các dấu hiệu định tội. Các dấu hiệu định tội của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản quy định tại Điều 135 BLHS. Đây là mô hình pháp lý để định tội. Căn cứ vào quy định của Pháp luật hình sự Việt Nam, tội phạm này có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản sau đây: - Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đã làm cho người phạm tội lâm vào tình trạng tinh thần bị kích động mạnh. Hành vi khách quan của tội phạm này chỉ có thể được thực hiện bằng hành động cụ thể như: đâm, chém, đấm, đá.v.v… Như vậy, hành vi khách quan của tội phạm này có hai loại: hành vi gây thương tích và hành vi gây tổn hại về sức khỏe. Hai hành vi này về cơ bản là giống nhau về phương tính thực hiện hành vi, nhưng khác nhau ở hậu quả của hành vi. - Dấu hiệu hậu quả của tội phạm: Hậu quả của tội phạm này là hậu quả thương tích (hậu quả của hành vi gây thương tích) hoặc hậu quả tổn hại về sức khỏe (hậu quả của hành vi gây tổn hại về sức khỏe của người khác). Đối với hành vi gây thương tích thì hậu quả do hành vi gây ra phải để lại những thương tích trên cơ thể của người bị hại, còn đối với hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì không để lại thương tích mà chỉ có thể làm giảm đáng kể tình trạng sức khỏe của người bị hại. Theo quy định của pháp luật thì người có hành vi gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong trường 9 hợp hành vi của họ đã gây ra hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên, tỷ lệ tổn thương về cơ thể này được BLHS quy định là dấu hiệu bắt buộc để định tội. - Dấu hiệu chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ 16 tuổi trở lên nhưng phải là người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân. Theo quy định của Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phám TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS thì: “Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình” [36, tr.2. Theo hướng dẫn này, thì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái tâm lý căng thẳng, ức chế thần kinh, làm cho người ở trong trạng thái này không còn nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức mà điều khiển hành vi tức là chưa đến mức ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 21 BLHS. Nguyên nhân gây ra trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở người phạm tội phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của chính nạn nhân. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng ở đây có thể cấu thành tội phạm, có thể chưa hoặc không cấu thành tội phạm mà chỉ là những vi phạm pháp luật khác. Song dù là trong trường hợp nào thì hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải ở mức độ nghiêm trọng. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể chỉ là một hành vi cụ thể, tức thời dẫn tới trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là chuỗi những hành vi cụ thể khác nhau diễn ra 10 lặp đi lặp lại trong một thời gian dài và liên tục tác động đến tinh thần của người phạm tội làm cho họ bị dồn nén về tâm lý đến cao độ và lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể đối với bản thân người phạm tội hoặc có thể đối với người thân thích của người phạm tội. Ngoài ra theo Nghị quyết 04/HĐTPTANDTC ngày 28-29/11/1986 đã hướng dẫn và áp dụng một số quy định các tội phạm của Bộ luật Hình sự về trạng thái tinh thần bị kích động và hành vi trái pháp luật nghiêm trọng Giết người trong tình trạng bị kích động mạnh - do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó. Đây là khung hình phạt giảm nhẹ (khoản 3). - Tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó tuy làm cho người phạm tội bị kích động mạnh, nhưng nói chung chưa đến mức là phạm tội. Nếu hành vi trái pháp luật đó trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội hoặc của xã 11 hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại gây chết người có thể được xem là trường hợp phòng vệ chính đáng (theo Điều 13) hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (theo Điều 102). Trong trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh và được xử lý theo Điều 101, khoản 3. Thí dụ: hai anh em đồng hao ở chung nhà bố mẹ vợ, người anh thường xuyên làm nhục thô bạo và trắng trợn vu khống người em, đến thời điểm nào đó lại lăng nhục người em nên người anh bị em giết. - Dấu hiệu lỗi của chủ thể: Lỗi của người phạm tội này có thể là cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng chủ yếu là cố ý gián tiếp. Trường hợp cố ý trực tiếp phạm tội này là trường hợp người phạm tội nhận thức được (tuy chưa đầy đủ) tính chất mức độ của hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân, thấy được hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe ở mức độ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên, nhưng vẫn mong muốn gây ra hậu quả này cho nạn nhân. Còn trường hợp cố ý gián tiếp phạm tội này là trường hợp người phạm tội nhận thức được tinh chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, thấy được hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe ở mức độ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Khi xác định lỗi của người phạm tội này cần lưu ý: mức độ lỗi của chủ thể là hạn chế, bởi họ thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng khả năng nhận thức và điều khiển hành vi đều hạn chế, mặt khác tình trạng đó lại do chính nạn nhân gây ra. 12 1.1.2.2. Các dấu hiệu định khung hình phạt. Ngoài những dấu hiệu định tội nêu trên, đối với tội phạm này, nhà làm luật còn quy định một số tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng, cụ thể là: - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% trở lên. Đây là những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, nhưng bắt buộc tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người phải từ 31% trở lên, nếu chỉ có một nạn nhân có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên thì không thuộc trường hợp tăng nặng này. - Gây thương tích hoặc gây tổn hạn cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cho sức khỏe từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người. Đây là trường hợp nạn nhân có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên. Còn trường hợp dẫn đến chết người là trường hợp nạn nhân chết do bị gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe và lỗi của người phạm tội đối với hậu quả chết người là lỗi vô ý (có thể vô ý vì quá tự tin, có thể vô ý do cẩu thả). Như vậy đối với trường hợp này, giữa hành vi gây thương tích, hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe với hậu quả chết người phải có mỗi quan hệ nhân quả với nhau. Trên đây là những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, điển hình của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Những dấu hiệu pháp lý này là căn cứ pháp lý để đối chiếu với những tình tiết thực tế của vụ án khi định tội danh cũng như khi xác định khung hình phạt cần áp dụng. 13 1.1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số tội phạm khác có liên quan. 1.1.3.1. Phân biệt với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015. Nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của hai tội phạm này cho thấy giữa chúng có những điểm khác nhau cơ bản sau đây: - Một là, trạng thái tinh thần của người phạm tội: + Ở tội quy định tại Điều 134 BLHS trạng thái tinh thần của người phạm tội khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không được BLHS quy định là dấu hiệu bắt buộc để định tội. + Còn ở tội quy định tại Điều 135 BLHS thì “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” của người phạm tội khi thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân được BLHS quy định là dấu hiệu bắt buộc để định tội. - Hai là, nạn nhân của tội phạm. Nếu nạn nhân của tội quy định tại Điều 134 BLHS là bất kỳ ai thì nạn nhân của tội quy định tại Điều 135 BLHS bắt buộc phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. - Ba là, Mức độ hậu quả gây ra (tỷ lệ tổn thương về cơ thể). + Nếu ở tội quy định tại Điều 134 BLHS thì tỷ lệ tổn thương về cơ thể của nạn nhân chỉ từ 11% trở lên là xử lý hình sự. + Còn ở tội quy định tại Điều 135 BLHS thì tỷ lệ tổn thương về cơ thể của nạn nhân phải từ 31% trở lên mới xử lý hình sự. 14 1.1.3.2. Phân biệt với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự năm. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh so với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS) có một số điểm giống nhau ở chỗ: - Trạng thái tinh thần của người phạm tội lúc thực hiện hành vi phạm tội là bị kích động mạnh bởi hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. - Nạn nhân của cả 2 tội phạm này phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội và hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải là nguyên nhân làm cho người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần. - Lỗi của người thực hiện hai tội này đều là lỗi cố ý. Tuy nhiên, hai tội này vẫn có sự khác nhau nhất định, cụ thể là: - Khách thể của tội cố ý giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tính mạng con người; còn khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chủ yếu là sức khỏe con người. - Hậu quả của giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hậu quả chết người; còn hậu quả của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên. - Lỗi, mục đích của người phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là cố ý tước đi tính mạng của nạn nhân, do vậy khi thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân, người phạm tội thấy trước 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan