VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THU TRANG
TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN
VÙNG VEN BIỂN BẠC LIÊU
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ “Tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng
ngành:
hóathân
họcdưới sự hướng dẫn của
ven biển Bạc Liêu” là côngChuyên
trình nghiên
cứuVăn
của bản
Mãvà
số:TS. Trần62
31 Nam.
06 40Các số liệu, kết quả trình
PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương
Văn
bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ luận án
cùng cấp nào trước
đây.
LUẬN
ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội, ngày 9 tháng 4 năm 2017
Nghiên cứu sinh
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương
Trương Thu Trang
2. TS. Trần Văn Nam
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận án tiến sĩ “Tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân
vùng ven biển Bạc Liêu”, Nghiên cứu sinh đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ
tận tình của tập thể hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương và TS.
Trần Văn Nam. Do vậy lời cảm ơn đầu tiên Nghiên cứu sinh xin phép được gửi
đến PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương và TS. Trần Văn Nam, xin chân thành cảm
ơn Thầy, Cô đã hướng dẫn cho Nghiên cứu sinh về phương pháp nghiên cứu,
chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu, để Nghiên cứu sinh có thể độc lập nghiên cứu,
sau khi tốt nghiệp có thể tự đứng trên đôi chân của mình.
Trong quá trình học tập tại Khoa Văn hóa học – Học viện Khoa học Xã
hội, Nghiên cứu sinh đã được Quý Thầy, Cô truyền đạt nhiều kiến thức, kinh
nghiệm quý báu, Nghiên cứu sinh xin phép được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Quý
Thầy, Cô trong Khoa, cùng Quý Thầy, Cô đã tham gia giảng dạy Nghiên cứu
sinh.
Đồng thời, Nghiên cứu sinh cũng xin được bày tỏ lòng tri ân đối với Quý
Thầy, Cô; Quý anh, chị làm việc tại các Phòng, Ban có liên quan, đã tạo điều
kiện vô cùng thuận lợi để Nghiên cứu sinh hoàn thành các thủ tục hành chính
trong quá trình học tập.
Trân trọng kính chào!
Hà Nội, ngày 9 tháng 4 năm 2017
Nghiên cứu sinh
Trương Thu Trang
MỤC LỤC
Mở đầu ........................................................................................................................... 4
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn nghiên
cứu .................................................................................................................................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................ 7
1.2. Cơ sở lý luận ......................................................................................................... 17
1.2.1. Khái niệm công cụ .............................................................................................. 17
1.2.2. Cơ sở lý thuyết .................................................................................................... 21
1.3. Địa bàn nghiên cứu .............................................................................................. 31
1.3.1. Tên gọi Bạc Liêu ................................................................................................. 31
1.3.2. Lịch sử hình thành Bạc Liêu và vùng ven biển Bạc Liêu ................................... 36
1.3.3. Các tộc người vùng ven biển Bạc Liêu ............................................................... 42
Chương 2: Nhận diện tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Bạc
Liêu ............................................................................................................................... 51
2.1. Khái quát chung về tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Bạc
Liêu ............................................................................................................................... 51
2.2. Một số tôn giáo, tín ngưỡng tiêu biểu ................................................................. 57
2.2.1. Quán Âm Nam Hải.............................................................................................. 57
2.2.2. Thiên Hậu Thánh Mẫu ........................................................................................ 71
2.2.3. Thờ Cá Ông ......................................................................................................... 76
2.2.4. Cúng Thần Biển .................................................................................................. 78
Chương 3: Đặc điểm và chức năng của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển
Bạc Liêu ........................................................................................................................ 85
3.1. Đặc điểm của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu ............................ 85
3.1.1. Thể hiện tính trọng Mẫu và nữ thần vùng biển ................................................... 85
3.1.2. Thể hiện triết lý âm dương .................................................................................. 89
3.1.3. Thể hiện sự tôn vinh văn hóa truyền thống của dân tộc ..................................... 91
3.2.Chức năng của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu .......................... 95
3.2.1. Sự bảo trợ thiêng liêng và huyền bí .................................................................... 95
3.2.2. Hòa hợp tộc người và kết nối cộng đồng .......................................................... 101
3.2.3. Khẳng định và bảo tồn bản sắc tộc người ......................................................... 103
3.2.4. Điều chỉnh hành vi và bồi dưỡng tình cảm đạo đức ......................................... 106
3.2.5. Du lịch tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu trong đời sống đương
đại ................................................................................................................................ 109
Chương 4: Giao lưu và tiếp biến văn hóa qua tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven
biển Bạc Liêu ............................................................................................................. 114
4.1. Những biểu hiện giao lưu và tiếp biến văn hóa qua tôn giáo, tín ngưỡng
vùng ven biển Bạc Liêu ............................................................................................. 115
4.1.1. Truyện tích về nguồn gốc tôn giáo, tín ngưỡng ................................................ 115
4.1.2. Các hình thức phối thờ ...................................................................................... 118
4.1.3. Nghi lễ và lễ hội ................................................................................................ 120
4.2. Những nhân tố tác động đến giao lưu và tiếp biến văn hóa qua tôn giáo,
tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu ......................................................................... 127
4.3. Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu và một số
vấn đề đặt ra .............................................................................................................. 129
4.3.1. Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu ......................... 129
4.3.2. Một số vấn đề đặt ra .......................................................................................... 133
Kết luận ...................................................................................................................... 140
Danh mục công trình công bố của tác giả ............................................................... 143
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................... 144
Phụ lục ........................................................................................................................ 155
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi loài người xuất hiện, thì những hình thức tôn giáo, tín ngưỡng,
luôn là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống con người, là nhu cầu tinh thần
của nhân dân. Tôn giáo, tín ngưỡng phản ánh nếp cảm, nếp nghĩ của con người
trước vũ trụ khôn cùng; phản ánh nỗi sợ hãi và lòng ước mong về một cuộc sống tốt
đời đẹp đạo. Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng vì vậy có thể giúp chúng ta hiểu sâu
sắc hơn tầm tư duy, nhận thức, quan niệm của con người về thế giới xung quanh.
Nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tôn giáo, tín ngưỡng vùng
biển đảo nói riêng từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Thực
tế cuộc sống đã chứng minh, khi đời sống càng nhiều bất an, may rủi khôn lường,
nhất là đời sống của ngư dân và cư dân ven biển, thì các hoạt động cầu cúng càng
diễn ra dày đặc hơn. Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân và ngư dân biển
đảo giúp lý giải nhiều chiều cạnh trong thực tế cuộc sống của họ.
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải vùng đồng bằng sông Cửu Long, sở
hữu đường bờ biển dài 56km, qua các huyện thị: Thành phố Bạc Liêu, Hòa Bình,
Đông Hải; và vùng lãnh hải rộng hơn 20.000km2.
Đây là tỉnh có thành phố ven biển.Vùng ven biển chính là vùng đất đầu tiên
mà những cư dân khi đến nơi này khai phá đã chọn để định cư. Đến nay, vùng ven
biển Bạc Liêu, nhất là thành phố Bạc Liêu – thành phố cách biển chỉ 8km, là nơi tập
trung hầu hết các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội sôi động nhất tỉnh. Các hoạt
động tôn giáo, tín ngưỡng ven biển cũng nổi trội nhất, được nhiều người dân trong
và ngoài tỉnh quan tâm nhất.
Trong quá trình sinh sống tại đây, chúng tôi nhận thấy rằng một số tôn giáo,
tín ngưỡng vùng ven biển càng lúc càng thu hút khách phương xa về đây chiêm bái,
cầu cúng. Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây, số lượng khách tham gia các hoạt
động tôn giáo, tín ngưỡng ven biển càng lúc càng gia tăng rất nhanh. Hiện tượng đó
để lại trong chúng tôi nhiều câu hỏi.
1
Thứ nhất, vì sao có sự gia tăng đáng kể về số lượng người đến đây tín
ngưỡng? Đời sống người dân nhiều bất an nên họ phải đến đây cầu an, giải nạn, hay
do đời sống kinh tế tốt hơn nên họ có nhu cầu du lịch tâm linh?
Thứ hai, vì sao một số tôn giáo, tín ngưỡng vốn là tôn giáo, tín ngưỡng vùng
biển và ven biển, như tín ngưỡng Quán Âm Nam Hải, giờ đây lại trở thành tôn giáo,
tín ngưỡng chung cho tất cả người dân trong và ngoài tỉnh? Người dân đã không chỉ
thờ cúng Mẹ Nam Hải với mục đích phò trợ cho ngư dân ngoài khơi, mà đã xem
đấy là vị Đức Phật có khả năng cứu rỗi cho tất cả mọi chúng sinh, nên không chỉ
trong dịp lễ hội, mà cả trong những ngày thường vẫn có đông đảo người dân đến
đây thực hành tôn giáo, tín ngưỡng. Nguyên do của sự biến đổi, quá trình biến đổi,
và sự biến đổi ấy làm nên đặc trưng gì cho tôn giáo, tín ngưỡng ven biển nơi đây?
Thứ ba, vùng này tín ngưỡng thờ Mẫu và Nữ thần rất nổi trội; các lễ hội, vía
bà ở đây như lễ hội Quán Âm Nam Hải, vía Bà Thiên Hậu, vía Bà Chúa Xứ, vía
Vạn Ban Ngũ Hành, vía Bà Thủy, phần lớn đều chọn 23 tháng 3 âm lịch hàng năm,
mà đây vốn là ngày sinh của Bà Thiên Hậu – một vị nữ thần vốn của người Hoa.
Vùng ven biển Bạc Liêu có sự cộng cư lâu đời của ba dân tộc: Kinh – Khmer –
Hoa. Qua quá trình mở mang bờ cõi, suốt mấy trăm năm nay họ đã chịu ảnh hưởng
tôn giáo, tín ngưỡng của nhau. Vậy sự nổi trội của nhân vật Bà Thiên Hậu có thể
giải thích ra sao từ góc độ do giao lưu tiếp biến văn hóa?
Với tất cả những câu hỏi trên, luận án chọn đề tài “Tôn giáo, tín ngưỡng của
cư dân vùng ven biển Bạc Liêu” nhằm khám phá vị trí, vai trò, chức năng, tầm quan
trọng của những thực hành tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống văn hóa và đời sống
tâm linh của người dân ở đây; đồng thời tìm hiểu các biểu hiện giao lưu tiếp biến
văn hóa qua tôn giáo, tín ngưỡng, từ đó góp phần nhận diện đặc trưng văn hóa biển
Bạc Liêu nói riêng, cả nước nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án “Tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng ven
biển Bạc Liêu” là từ việc nhận diện và lý giải các hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng
nơi đây, tìm hiểu các sắc thái văn hóa tộc người và những chiều cạnh khác nhau
trong cuộc sống mưu sinh của con người nơi vùng đất mới, góp thêm một nghiên
2
cứu trường hợp cho sự khám phá vai trò của tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống
văn hóa của cư dân ven biển.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên luận án đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Nhận diện khái quát về tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu.
- Phân tích đặc điểm, vai trò và nhất là các chức năng của tôn giáo, tín
ngưỡng nơi đây trong đời sống cư dân và ngư dân ven biển.
- Tìm hiểu những biểu hiện giao lưu và tiếp biến văn hóa qua các thực hành
tôn giáo, tín ngưỡng ven biển Bạc Liêu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các truyền thuyết, lễ hội, di tích và các thực hành
liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân và ngư dân ven biển Bạc Liêu, đặc
biệt tập trung vào các tôn giáo, tín ngưỡng có ảnh hưởng nhiều như: Quán Âm Nam
Hải, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Thờ Cúng Cá Ông và Thần Biển.
- Khách thể nghiên cứu: Cư dân vùng ven biển Bạc Liêu. Cư dân ở đây được
xác định là cộng đồng ba dân tộc Kinh – Khmer – Hoa. Những cư dân này sống
trong phạm vi ven biển (bán kính 10km tính từ mép nước biển lên đất liền), phần
lớn là ngư dân, còn lại làm một số nghề nghiệp khác.
- Phạm vi nghiên cứu: Vùng ven biển Bạc Liêu (được xác định là vùng địa lý
trải dài trên 56 km đường bờ biển, trong bán kính 10km tính từ mép nước biển lên
đất liền, qua ba huyện thị là: Thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình và huyện Đông
Hải). Ngoài việc khảo sát để có cái nhìn khái quát theo diện rộng, chúng tôi tập
trung vào một số điểm nghiên cứu như Quán Âm Phật Đài ở thành phố Bạc Liêu,
Lăng Ông Duyên Hải ở Vĩnh Thịnh, Lăng Ông Nam Hải ở Gành Hào, Miếu thờ
Thiên Hậu ở Gành Hào và khu vực diễn ra lễ hội Cúng Biển của người Khmer ở xã
Hiệp Thành, vì nơi đây tập trung nhiều hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng đặc trưng
của vùng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để có cái nhìn cụ thể và chân thực về các hình thức thực hành tôn giáo, tín
ngưỡng đang diễn ra, đề tài sử dụng cách tiếp cận liên ngành, nhưng đặc biệt sử
3
dụng các phương pháp nghiên cứu định tính như điền dã dân tộc học, quan sát,
phỏng vấn sâu.
Chúng tôi đã tham dự các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng trong các hoạt
động lễ hội, các ngày vía Bà, các hoạt động cầu cúng trong ngày thường, thực hiện
ghi hình, phỏng vấn nhanh một số đối tượng như người đi lễ, người tham gia thực
hiện các nghi thức trong lễ hội (Cung nữ, Hội bà, Quân sĩ…), người chuẩn bị các
thức cúng. Với đối tượng này chúng tôi thực hiện phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên, với những ai thuận tiện để khảo sát chúng tôi sẽ lập tức phỏng vấn nhanh để
thu thập thông tin. Chúng tôi chọn mẫu không quy định rõ về số lượng, mà phỏng
vấn đến khi nhận thấy thông tin lặp lại nhiều thì chúng tôi dừng lại. Cụ thể đã phỏng
vấn tổng cộng 52 người (Trong đó: Người đi lễ: 38 (khảo sát 4 lễ hội lớn); Người
tham gia thực hiện nghi lễ: 10; Người chuẩn bị các thức cúng: 4 người).
Với đối tượng là người chủ lễ, người trông coi cơ sở thờ tự, Ban hương lễ,
Ban tổ chức lễ hội, nhà nghiên cứu về lĩnh vực này ở Bạc Liêu và một vài người am
hiểu về các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng nơi đây, chúng tôi thực hiện phỏng vấn
sâu, phỏng vấn theo vấn đề đã được chuẩn bị trước. Tổng cộng đã phỏng vấn 33
người (Trong đó: Chủ lễ: 4; Người trông coi cơ sở thờ tự: 9; Ban hương lễ: 6; Ban
tổ chức lễ hội: 6; Nhà nghiên cứu về lĩnh vực này ở Bạc Liêu: 4; Một vài người am
hiểu về các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng nơi đây: 4).
Sử dụng các phương pháp này, chúng tôi đã thường xuyên ghé lại, đến thăm
hỏi, trò chuyện nhiều lần để đánh giá được độ chân thực của thông tin nhận được,
quan sát được những thực hành tôn giáo, tín ngưỡng của người dân không chỉ trong
nghi lễ lúc hội hè đình đám, mà còn trong cuộc sống đời thường.
Khi đến địa bàn khảo sát, chúng tôi được Ban tổ chức, Ban Hương lễ, Ban trị
sự các cơ sở thờ tự tiếp đón nồng nhiệt khi hiểu về mục đích nghiên cứu mà tôi đã
trình bày. Chúng tôi đã được tạo điều kiện tốt nhất để tham dự nghi lễ, ghi hình,
phỏng vấn… Nhưng chúng tôi cũng gặp khó khăn bởihọ cho rằng những hoạt động
tín ngưỡng như lên đồng, nhập xác khi ra khơi Nghinh Ông, hoặc cúng Bà Nam Hải
lúc 12h khuya là “mê tín dị đoan” nên cố tình che giấu các hoạt động đó, chỉ đến
khi tôi tiếp cận người dân địa phương, trong vai trò người đi lễ từ phương xa tới, thì
4
chúng tôi mới được họ chỉ bảo về những hiện tượng, những thực hành văn hóa đó
của người dân nơi đây.
Ngoài tư liệu điền dã, đề tài này cũng sử thu thập số liệu thứ cấp qua sách,
báo, tạp chí (chủ yếu là những tạp chí chuyên ngành văn hóa dân gian và tạp chí tôn
giáo), kể cả những tài liệu được in ấn và lưu hành nội bộ. Nguồn tài liệu này được
thu thập chủ yếu ở các thư viện, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Bạc Liêu, Ban
Tôn giáo Bạc Liêu. Đó là các công trình nghiên cứu khoa học, sách, báo, tạp chí
viết về tôn giáo, chức năng của tôn giáo, tín ngưỡng; Các công trình nghiên cứu về
văn hóa, về tôn giáo, tín ngưỡng ở Bạc Liêu; Địa chí địa phương Bạc Liêu.v.v.
Ngoài ra, chúng tôi đã sử dụng phương pháp liên ngành để hỗ trợ cho việc
tìm hiểu, phân tích vấn đề. Với mỗi tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu,
chúng tôi đều phải đặt đối tượng vào bối cảnh lịch sử, xã hội, nơi hiện tượng đó
diễn ra, để có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc lý giải vấn đề. Chẳng hạn
chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử để thấy được quá trình hình
thành và phát triển, sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu.
Qua đó hiểu được sự giao lưu tiếp biến văn hóa trong phạm vi nghiên cứu của
chúng tôi đã diễn ra như thế nào và có điểm gì đặc biệt. Hoặc ứng dụng tâm lý học
tôn giáo để thấy được tâm tư, tình cảm của người dân khi thực hành các tín ngưỡng,
hoặc quy tụ về những hình thức tôn giáo khác nhau.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về tôn giáo, tín
ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu. Trên cơ sở phân tích, so sánh những đặc điểm của
tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu với những đặc điểm của tôn giáo, tín
ngưỡng các vùng ven biển khác ở Việt Nam, luận án nhận diện những đặc trưng,
điểm đặc biệt của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu, qua đó góp phần
khái quát nên diện mạo văn hóa ven biển Bạc Liêu.
- Qua việc tìm ra vai trò, chức năng của những thực hành tôn giáo, tín
ngưỡng trong đời sống văn hóa, đặc biệt là đời sống tâm linh của người dân ven
biển Bạc Liêu, luận án góp phần lý giải hiện tượng vì sao trong những năm gần đây
5
có một số hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu ngày càng thu
hút đông đảo các đối tượng khác nhau tham gia.
- Luận án là một nghiên cứu trường hợp về sức sống của tôn giáo, tín ngưỡng
ở một vùng ven biển, từ đó hiểu được vai trò của tôn giáo, tín ngưỡng trong đời
sống Việt nam đương đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận:
Luận án góp một cái nhìn về việc lý giải ý nghĩa các thực hành tôn giáo, tín
ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu nói riêng, cả nước nói chung.
Luận án cũng đóng góp về mặt lý luận xoay quanh vấn đề giao lưu và tiếp
biến văn hóa giữa các tộc người khác nhau, giữa các cư dân đến từ nhiều vùng đất
khác nhau, giữa các loại hình, các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Ngoài ra, luận án cũng góp phần nhận diện một số khía cạnh của văn hóa
biển Việt Nam và sự biến đổi văn hóa biển trong đời sống đương đại.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận án sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý văn hoá, cho
công việc giảng dạy và nghiên cứu có liên quan về vấn đề văn hóa biển, tôn giáo,
tín ngưỡng ven biển.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bố cục gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn nghiên
cứu.
Chương 2: Nhận diện tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Bạc
Liêu.
Chương 3: Đặc điểm và chức năng của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển
Bạc Liêu
Chương 4: Giao lưu và tiếp biến văn hóa qua tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven
biển Bạc Liêu
6
CHƯƠNG 1
TỐNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tôn giáo, tín ngưỡng, thuộc lĩnh vực văn hóa tâm linh, vốn có sức cuốn hút
mạnh mẽ đối với nhiều nhà nghiên cứu. Tôn giáo, tín ngưỡng là một bộ phận không
thể thiếu trong đời sống con người, nó cũng quan trọng như các yếu tố vật chất cần
thiết cho con người. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh lĩnh vực
này, chẳng hạn như một số công trình nghiên cứu những vấn đề cơ bản, mang tính
lý luận về tôn giáo, tín ngưỡng, như: Tôn giáo – Lý luận xưa và nay [Nhiều tác giả,
2005], Lý giải tôn giáo [Trác Tân Bình, 2007], Tôn giáo học nhập môn [Đỗ Minh
Hợp chủ biên, 2009], Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam [Đặng
Nghiêm Vạn, 2001], “Nhìn lại một thế kỉ nghiên cứu tín ngưỡng dân gian” [Ngô
Đức Thịnh và Phạm Quỳnh Phương, 2007], Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt
Nam – Lý luận và thực tiễn [Đỗ Quang Hưng, 2008], Một số tôn giáo ở Việt Nam
[Nguyễn Thanh Xuân, 2008], Tín ngưỡng tôn giáo và thực hiện chính sách tín
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay [Nguyễn Minh Khải, 2013]... Những công
trình này, từ nhiều góc độ khác nhau, đã lý giải rõ khái niệm, bản chất, đặc trưng,
chức năng, vai trò... của tôn giáo, tín ngưỡng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về văn hóa biển và tôn giáo, tín ngưỡng ven biển ở
Việt Nam tuy chưa nhiều nhưng đến nay cũng đã có ít nhiều thành tựu. Nhiều công
trình đã chú ý khảo sát thực địa, điền dã dân tộc học để nắm thực tiễn.Tìm hiểu về
văn hóa biển Việt Nam đã có nhiều công trình quan tâm đến các khía cạnh khác
nhau như lý giải nhận thức về văn hóa biển, đảo [Phan Ngọc 2006, Nguyễn Thị Hải
Lê 2010, Nguyễn Văn Kim 2011]; Nghiên cứu lịch sử các vùng biển, đảo Việt Nam
[Nguyễn Công Bằng 2007, Dư Văn Toản 2010, Lâm Thị Mỹ Dung 2011, Lại Văn
Tới 2011]; Khảo sát đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm, văn hóa ứng xử với
biển của ngư dân và cư dân ven biển [Trần Hồng Liên 2004, Phan Thị Yến Tuyết
2010, Nguyễn Hữu Nghị 2010]; Tìm hiểu các phương tiện và phương thức di
7
chuyển, khai thác nguồn lợi từ biển [Ngô Đức Thịnh - Nguyễn Việt 1984, Li Tana
2002, Nguyễn Viết Trung 2007].
Trong các công trình nêu trên, chúng tôi khảo sát thấy một số vấn đề nổi bật
liên quan đến việc giải quyết vấn đề nghiên cứu của luận án.
Thứ nhất, vấn đề khái niệm về tôn giáo, tín ngưỡng, đến nay vẫn còn gây
tranh luận, hoặc nói khác đi là còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về các thuật
ngữ này. Chẳng hạn, Léopold Cadière [1997] không dùng từ Tín ngưỡng, ông dùng
từ Tôn giáo với nghĩa từ này đã bao hàm tín ngưỡng; Đặng Nghiêm Vạn [2001]
dùng từ Tín ngưỡng với nghĩa đó là niềm tin tôn giáo, và ông cho rằng không nên
phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng, cũng không nên có sự phân định thấp – cao giữa
tín ngưỡng và tôn giáo; Ngô Đức Thịnh [2001] cũng đồng quan điểm với việc hiểu
tín ngưỡng là niềm tin vào cái thiêng, tuy nhiên tác giả cho rằng có sự phân biệt
giữa tín ngưỡng và tôn giáo, chẳng hạn như thờ Mẫu, thờ cúng Tổ tiên... là tín
ngưỡng, còn Đạo Phật, Thiên Chúa Giáo... là tôn giáo; Nhiều học giả khác ở Việt
Nam cũng đồng quan điểm với tác giả Ngô Đức Thịnh, như Nguyễn Thanh Xuân
(2008) khi biên soạn công trình Một số tôn giáo ở Việt Nam, đã kể đến các tôn
giáo: Đạo Phật, Đạo Công Giáo, Đạo Tin lành, Đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo,
Đạo Hồi.
Trong những ý kiến tranh luận nêu trên, mỗi tác giả đều có cơ sở lý luận
riêng. Tất cả những tranh luận đó đều là những tri thức bổ ích giúp chúng tôi nhìn
nhận vấn đề từ nhiều chiều kích khác nhau, là cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi
tham khảo trong việc hiểu và lý giải về đối tượng nghiên cứu.
Thứ hai, vấn đề đặc trưng đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Các tác
giả đều nhận thấy rằng Việt Nam dung hợp nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng
[Toan Ánh 1992, Léopold Cadière 1997, Đặng Nghiêm Vạn 2001, Ngô Đức Thịnh
2001... ]. Nguyễn Thừa Hỷ (2012) đã đặc biệt nhấn mạnh đến tính cộng đồng đa
nguyên trong tín ngưỡng tâm linh người Việt, còn Léopold Cadière (1997) đã nhìn
nhận, phân tích một cách thấu đáo về tôn giáo, tín ngưỡng của người An Nam theo
cách gọi xưa. Tác giả đã chỉ ra rằng những thực hành tôn giáo, tín ngưỡng của
người dân nơi đây có sự dung hợp, tiếp nhận nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng
8
trên thế giới, theo tinh thần khoan dung văn hóa, đấy cũng là nét đẹp trong tín
ngưỡng Việt Nam.
Như vậy, tại Bạc Liêu, sự giao thoa văn hóa giữa ba dân tộc vùng ven biển,
Kinh – Khmer – Hoa được biểu hiện qua việc họ tiếp nhận những hình thức tôn
giáo, tín ngưỡng của nhau cũng là một biểu hiện của tinh thần khoan dung văn
hóa.Tuy nhiên nguyên nhân của việc giao thoa, tiếp xúc và tiếp biến các tôn giáo,
tín ngưỡng giữa ba dân tộc nêu trên tại vùng ven biển Bạc Liêu cũng còn nhiều điều
phải bàn thêm. Chẳng hạn quá trình khai hoang mở đất và bắt đầu sự cộng cư cũng
là một yếu tố ảnh hưởng đến việc giao thoa văn hóa. Trong quá trình nghiên cứu
chúng tôi cũng sẽ lưu ý đến những điều này.
Thứ ba, vấn đề mối quan hệ giữa tôn giáo với các tác nhân bên ngoài, trong
đó có kinh tế thị trường, cũng là một vấn đề nổi lên hiện nay và được thể hiện trong
nhiều nghiên cứu. Nếu như trước đây, Léopold Cadière [1997] đã nhận thấy rằng,
tại Việt Nam, mọi hình thức tín ngưỡng được thực hành bằng những nghi lễ khác
nhau thường nhằm mục đích trong sáng là tìm sự an định tinh thần trong một thế
giới quá nhiều khổ ải. Thì bây giờ, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tôn giáo, tín
ngưỡng ở Việt Nam đang phải chịu tác động từ nhiều phía, mà kinh tế thị trường là
nhân tố ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ. Sự tác động đó có tính hai mặt; Một mặt
khiến cho nhiều người quan tâm nhiều hơn đến tôn giáo, tín ngưỡng, góp phần khôi
phục, gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống; Mặt khác khiến cho nhiều người
thực hiện việc cầu cúng, hoặc việc tổ chức các nghi lễ trong tôn giáo, tín ngưỡng,
không còn nhằm mục đích trong sáng là tìm sự an định tinh thần, mà còn vì nhiều
nguyên do khác, chẳng hạn là vì mục đích sinh lợi cho một tổ chức hoặc một cá
nhân nào đó, mà việc thương mại hóa lễ hội là một trong những minh chứng [Ngô
Đức Thịnh 2002, Lê Hồng Lý 2008, Nguyễn Xuân Hồng 2010, Lê Thanh Tùng
2012, Nguyễn Xuân Kính 2013]. Các tác giả trong khi bàn luận còn đặt ra một vấn
đề là, làm thế nào để giữ vững vẻ đẹp tinh túy, truyền thống của những thực hành
tôn giáo, tín ngưỡng. Trả lời cho câu hỏi đó, chúng tôi nghĩ, là trách nhiệm không
của riêng ai. Và từ những nghiên cứu này, chúng tôi cũng có thêm nhiều suy nghĩ
về những biểu hiện thương mại hóa lễ hội tín ngưỡng hiện nay, phải chăng lễ hội tín
9
ngưỡng ở Bạc Liêu với những biểu hiện đang có cũng là một hình thức thương mại
hóa?, và nếu vậy thì điều đó có ảnh hưởng gì đến vẻ đẹp của một lễ hội tín ngưỡng
truyền thống không?.
Thứ tư, vấn đề thờ Mẫu và Nữ thần là một đối tượng nghiên cứu nổi bật
trong suốt thời gian qua. Kể cả hiện nay đối tượng này vẫn chưa giảm sức hút đối
với nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể đến một số tác giả có đóng góp cho lĩnh vực
này như: Văn Đình Hy (1978), Nguyễn Văn Huyên (1996), Nguyễn Hữu Thông
(2001), Trần Hồng Liên (2006), Vũ Ngọc Khánh (2012).... Trong đó, Ngô Đức
Thịnh vốn là tác giả có nhiều đóng góp trong việc nhìn nhận, phân tích, lý giải
những vấn đề xoay quanh tôn giáo, tín ngưỡng. Trong đó, Đạo Mẫu là một chủ đề
nghiên cứu xuyên suốt trong nhiều năm của tác giả này. Đạo Mẫu Việt Nam [Ngô
Đức Thịnh (Chủ biên) 2012] là công trình được tái bản lần thứ tư. Với tên sách mới
này (lần 1 và 2 là Đạo Mẫu ở Việt Nam; lần 3 là Đạo Mẫu), tác giả nhằm khẳng
định “Tuy thờ Mẫu là hiện tượng khá phổ biến trên thế giới, nhưng ở Việt Nam đã
hình thành và định hình một tín ngưỡng thờ Mẫu (nữ thần) của mình, với những
bản sắc riêng” [112 ;IO]. Lần này tác giả đã ứng dụng lý thuyết xã hội tổng thể của
M.Mauss để nghiên cứu các chiều kích khác nhau, sự ảnh hưởng khác nhau của môi
trường, xã hội và văn hóa đến Đạo Mẫu Việt Nam. Do đó sách là một nguồn tài liệu
quý giá giúp tham chiếu những vấn đề về đạo Mẫu từ Bắc chí Nam, cung cấp những
cứ liệu khoa học và thực tiễn cho việc lý giải tục thờ Mẫu, trong đó có các nữ thần
ven biển. Tuy nhiên do vấn đề nghiên cứu của đề tài là rất rộng, điều kiện khảo sát
thực tiễn tại ba vùng Bắc, Trung, Nam chưa đầy đủ, nên dù trải qua hơn 10 năm,
sau nhiều lần tái bản thì một số hiện tượng thờ Mẫu tiêu biểu ở miền Nam vẫn chưa
được đề cập, và thờ Mẫu – Mẹ Nam Hải ở Bạc Liêu là một trong những khoảng
trống đó.
Nhìn chung, các công trình đều khẳng định, tôn giáo, tín ngưỡng cần cho
cuộc sống con người. Dù khoa học kỹ thuật phát triển, xã hội hiện đại thì tôn giáo,
tín ngưỡng, những yếu tố “ma thuật” cũng không vì thế mà mất đi, thậm chí còn có
xu hướng phát triển. Tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống hiện đại vẫn phát huy vai
trò của mình trong an định tinh thần cho con người.
10
Như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng, cả ở
Việt Nam và trên thế giới. Những công trình này đã nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng
từ nhiều góc độ khác nhau. Đó sẽ là những tiền đề lý luận giúp soi chiếu vấn đề
nghiên cứu của chúng tôi.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về văn hóa biển và tôn giáo, tín ngưỡng ven biển ở
Việt Nam tuy chưa nhiều nhưng đến nay cũng đã có ít nhiều thành tựu. Nhiều công
trình đã chú ý khảo sát thực địa, điền dã dân tộc học để nắm thực tiễn. Thật sự đó là
nguồn tài liệu quý báu để chúng tôi tham khảo.
Tìm hiểu về văn hóa biển Việt Nam, nhiều công trình quan tâm: Lý giải
nhận thức về văn hóa biển, đảo [Phan Ngọc 2006, Nguyễn Thị Hải Lê 2010,
Nguyễn Văn Kim, 2011]; Nghiên cứu lịch sử các vùng biển, đảo Việt Nam
[Nguyễn Công Bằng 2007, Dư Văn Toản 2010, Lâm Thị Mỹ Dung 2011, Lại
Văn Tới 2011]; Khảo sát đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm, văn hóa
ứng xử với biển của ngư dân và cư dân ven biển [Trần Hồng Liên 2004, Phan
Thị Yến Tuyết 2010, Nguyễn Hữu Nghị 2010]; Tìm hiểu các phương tiện và
phương thức di chuyển, khai thác nguồn lợi từ biển [Ngô Đức Thịnh - Nguyễn
Việt 1984, Li Tana 2002, Nguyễn Viết Trung 2007].
Dựa trên cơ sở của những chuyến thực địa tại chín làng ven biển, thuộc vùng
từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên Huế, Văn hóa dân gian làng ven biển [Trung tâm
Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia - Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian 2000],
đã phác thảo diện mạo văn hóa dân gian của các làng này. Tuy chưa thể phản ánh
một cách trọn vẹn các yếu tố văn hóa dân gian của mỗi làng, cũng như chưa có điều
kiện khảo sát các làng ven biển từ Đà Nẵng đến Cà Mau, nhưng những kết quả khảo
sát tại chín làng nói trên đã giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về văn hóa dân
gian của các làng ven biển tại Việt Nam. Đấy cũng sẽ là một trong những cơ sở giúp
so sánh văn hóa dân gian của các làng ven biển trong cả nước, trong đó có các làng
ven biển phía Nam. Trong công trình này, hẳn nhiên các tác giả đã đề cập đến tôn
giáo, tín ngưỡng của cư dân ven biển, đồng thời chỉ rõ những hình thức sinh hoạt
tôn giáo, tín ngưỡng của một số làng ven biển Việt Nam. Cùng hướng nghiên cứu
này, Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi - Luận án Tiến sĩ Lịch sử
11
[Nguyễn Đăng Vũ 2003], Văn hóa dân gian người Bồ Lô ven biển Hà Tĩnh - Luận
án Tiến sĩ Văn hóa học [Phạm Thanh Tịnh 2012]... cũng có nhiều đóng góp trong
việc nghiên cứu các thành tố văn hóa dân gian tại một vùng biển, ven biển cụ thể.
Những công trình này cũng có tính tiêu biểu để hiểu về các hiện tượng văn hóa dân
gian ven biển trong cả nước.
Nối tiếp những công trình nghiên cứu về văn hóa biển tại miền Bắc, Văn hóa
biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ (Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
2008) đã giúp người đọc nhận diện những vấn đề về văn hóa biển tại miền Trung và
vùng Nam Bộ. Công trình tập hợp những bài viết, những nghiên cứu nhằm tìm hiểu
tri thức về biển, cách ứng xử, lối sống... của con người vùng biển và ven biển.
Nếu như Nguyễn Duy Thiệu cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về Cộng đồng
ngư dân ở Việt Nam [2002] qua việc khảo sát một số làng chài, thì Trần Hồng Liên
đã giới thiệu riêng về Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ [Trần Hồng Liên (Chủ
biên) 2004], qua nghiên cứu trường hợp ở xã Phước Tỉnh, huyện Long Đất, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu và xã Vàm Láng, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Trên cơ
sở am hiểu thực tiễn vùng biển và ven biển Nam Bộ, đặc biệt là tại địa điểm khảo
sát, nhóm tác giả trong công trình này đã khái quát diện mạo, đặc trưng cơ bản của
ngư dân nơi đây.
Riêng về tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển, đây là chủ đề được khá nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm [Lê Quang Nghiêm 1970, Nguyễn Xuân Hương 2009,
Dương Hoàng Lộc 2009, Nguyễn Thanh Lợi 2002, Phan An – Đinh Văn Hạnh
2004, Phan Thị Yến Tuyết 2010, Phạm Thanh Tịnh 2012, Phạm Tấn Thiên 2012...].
Các công trình này qua miêu tả, phân tích, so sánh những hiện tượng văn hóa dân
gian của cư dân ven biển, các tác giả đã phác thảo diện mạo, đồng thời chỉ ra những
giá trị đặc trưng của một số hiện tượng văn hóa dân gian mỗi vùng. Khi đề cập đến
tín ngưỡng dân gian, các tác giả đều thống nhất rằng, do đời đi biển lắm bất trắc,
nhiều may rủi khó lường, nên cộng đồng cư dân ven biển thường tiến hành nhiều
hoạt động thờ cúng với mục đích cầu an. Tín ngưỡng ven biển thường bao gồm:
Thờ Mẫu, thờ Cá Ông, thờ Quan Công, thờ âm hồn... Họ thường tiến hành nhiều
hoạt động thờ cúng như: Lễ hội, hát bội, múa bóng... Khi nói về tín ngưỡng dân
12
gian, về hoạt động thờ cúng, tác giả Phạm Thanh Tịnh [2012] cho rằng có hai loại
“ma” được thờ cúng, đó là tổ tiên và “bề trên”, tức thần biển – ma thiện, và do tâm
lý lo sợ nên làm việc gì họ cũng cúng bái. Ngoài ra còn có “ma ác” như ma cụt đầu,
ma trơi... cũng được họ thường xuyên cúng bái nhưng không lập bàn thờ. Về tục thờ
cá Ông, Nguyễn Thanh Lợi là tác giả có rất nhiều đóng góp trong nghiên cứu đối
tượng này. Dựa vào những cứ liệu trong thư tịch xưa và những khảo sát điền dã của
một số tác giả vùng Tây Nam Bộ, tác giả đã có những phân tích, những nhận định
thấu đáo về nguyên do của tục thờ, nghi thức cúng tế, những điểm tương đồng và
khác biệt giữa miền Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ so với vùng Tây Nam Bộ
trong tục thờ cá Ông.
Song song đó, khi khảo cứu về tôn giáo, tín ngưỡng, vùng biển và ven biển
Nam Bộ, tác giả Phan Thị Yến Tuyết (2006) đã nhận định rằng, bắt nguồn từ văn
hóa biển miền Trung, văn hóa biển Nam Bộ có nhiều điểm tương đồng, nên để tìm
điểm đặc thù riêng thì trong khi nghiên cứu văn hóa biển Nam Bộ, “điều mà các
nhà khoa học chú ý là sự thay đổi trong cái nhìn về biển cả trong tâm thức ngư dân
Việt, trong hành trình xuôi về Nam Bộ” [131; 460].
Ngoài ra, để hiểu thêm về đặc trưng và sự giao thoa văn hóa giữa ba dân tộc
vùng Nam Bộ nói chung, Bạc Liêu nói riêng, qua tôn giáo, tín ngưỡng, chúng tôi
cũng tham khảo thêm những công trình nghiên cứu về văn hóa Nam Bộ, tiêu biểu là
Văn hóa Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á [Nhiều tác giả 2000]. Nhằm
mục đích tìm hiểu, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, công trình này đã
“thể hiện sự phong phú các loại hình văn hóa của nhân dân Nam Bộ” như lời nhận
định của Nhà xuất bản. Trong đó có phong tục tập quán, lễ hội, tôn giáo... Quá trình
hình thành, phát triển, đặc điểm và ảnh hưởng của các loại hình văn hóa nói trên
đến cuộc sống cư dân nơi đây đã được các bài viết tập trung làm rõ. “Các bài viết
cũng gợi mở và lý giải một số vấn đề khoa học về mối quan hệ giữa văn hóa Nam
Bộ với văn hóa của các nước Đông Nam Á”. Công trình vì vậy cung cấp những tri
thức đa diện, nhiều chiều về nền văn hóa Nam Bộ trong cái nhìn tương quan so sánh
với vùng văn hóa của các quốc gia Đông Nam Á.
13
Đặc biệt, những bài viết: “Hội nhập văn hóa Đông Nam Á trong Phật giáo
Nam Bộ” (Trần Hồng Liên); “Một vài nguyên nhân dẫn đến hạn chế ảnh hưởng của
các tôn giáo người Việt đến các tộc người khác ở ĐBSCL” (Ngô Văn Lệ); “Lễ hội
dân gian người Việt ở Nam Bộ: Yếu tố góp phần hình thành vùng văn hóa Nam Bộ Nét “gạch nối” của văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á” (Huỳnh Quốc Thắng);
“Văn hóa truyền thống của người Khmer ĐBSCL trong cuộc sống hiện nay” (Trần
Kim Dung), đã giúp soi tỏ nhiều vấn đề về một số tôn giáo, tín ngưỡng ở Nam Bộ.
Điểm qua những đóng góp của các bài viết trong công trình này, chúng tôi thấy
rằng, từ góc nhìn giao lưu văn hóa, TS. Trần Hồng Liên trong bài viết “Hội nhập
văn hóa Đông Nam Á trong Phật giáo Nam Bộ” đã chứng minh rằng Phật giáo Việt
Nam nói chung, Phật giáo Nam Bộ nói riêng đã đón nhận nhiều yếu tố văn hóa Phật
giáo của các nước khác, nhất là các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Sự giao lưu
hội nhập đó đã tạo cho Phật giáo Nam Bộ nhiều nét đa dạng cùng những đặc thù
riêng. Từ lối kiến trúc, đến các pho tượng được thờ, và nghi thức thờ cúng, hành
lễ... đều thể hiện sự kết hợp hài hòa các yếu tố văn hóa Phật giáo giữa các quốc gia
trong khu vực. Tuy nhiên, “sự hội nhập văn hóa ấy đã dựa trên cơ sở giữ vững
được bản sắc, văn hóa của dân tộc Việt Nam” [151 ; 101]. Cũng theo hướng nghiên
cứu đó, trong bài viết Lễ hội dân gian người Việt ở Nam Bộ: Yếu tố góp phần hình
thành vùng văn hóa Nam Bộ - Nét “gạch nối” của văn hóa Việt Nam và Đông Nam
Á”, TS. Huỳnh Quốc Thắng nhận định rằng những tín ngưỡng dân gian vùng Nam
Bộ “nhìn chung đều mang những màu sắc “giao tiếp văn hóa” đặc thù”. Chẳng hạn
có đình thờ cùng lúc hàng loạt các nữ thần như: Thiên Yana, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa
Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Thủy Long... và theo tác giả thì các vị thần này đều có gốc
là Ngung Man Nương hoặc U ma, một nữ thần của đạo Bà La Môn. Nguyên nhân
của sự giao lưu văn hóa đó, theo tác giả, “trước hết và trên hết chính là nhằm để
tăng cường thêm sức mạnh tinh thần cho những người lưu dân trong quá trình tiếp
xúc, chung sống và quan hệ với những cộng đồng người cũng như với những “thế
lực” siêu nhiên trên đường đi đến và ở lại của họ nơi vùng đất mới” [151; 135].
Riêng về Bạc Liêu, với tuổi đời còn rất trẻ, trên 300 năm cho một vùng đất
mới chưa thể gọi là dài để có bề dày lịch sử văn hóa truyền thống đậm đặc như các
14
vùng đất thuộc tuyến đầu tổ quốc, cộng với những điều kiện, đặc trưng về kinh tế,
xã hội của vùng đất này, nên những khảo sát, nghiên cứu về Bạc Liêu chưa nhiều,
nếu không muốn nói là còn quá nhiều khoảng trống. Do đó trong quá trình thu thập
tài liệu về Bạc Liêu, chúng tôi đã gặp không ít khó khăn.
Những truyện về Mã Châu, Dải đất phật, Sự tích miếu ông Cù, Miếu ông Tà,
Truyền thuyết về cá Ông, Truyền thuyết về cá Ông Nam Hải, Sự tích chùa ông
Bổn.... [Văn học dân gian Bạc Liêu 2005] đã góp phần lý giải một số hiện tượng tôn
giáo, tín ngưỡng, lễ hội dân gian, hoặc phong tục tập quán... của người dân Bạc
Liêu nói chung, dân ven biển Bạc Liêu nói riêng.
Những truyện kể nói trên được lưu giữ trong ký ức dân gian Bạc Liêu qua
nhiều thế hệ. Rất nhiều khả năng truyện đã từ khắp các vùng quê, xứ sở khác nhau
theo dấu những lưu dân về đây từ thời khai hoang mở cõi. Nên qua truyện kể, chúng
ta có thể lý giải được nhiều điều về đời sống văn hóa tâm linh, trong đó có tôn giáo,
tín ngưỡng của người dân ven biển Bạc Liêu.
Bằng cái nhìn trìu mến, lòng yêu đất mến người, Phan Trung Nghĩa đã có
nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu vốn văn hóa địa phương Bạc Liêu.
Với Bạc Liêu trong mắt tôi (2012), tác giả đã cung cấp cho chúng ta vốn tri thức về
quá trình khẩn hoang của vùng đất Bạc Liêu, trong đó có quá trình người Kinh –
Khmer – Hoa tụ về vùng ven biển cùng tham gia đánh bắt tôm cá, chế biến thủy hải
sản. Mỗi dân tộc với những đặc tính riêng, cố kết cùng nhau thành một cộng đồng
ven biển, nương tựa nhau từ thuở khai hoang mở đất đến nay. Theo tác giả, “Mỗi
dân tộc là một nền văn hóa, một kinh nghiệm làm ăn. Khi gặp nhau thì giống như
một sự phản ứng hóa học sinh ra thứ văn hóa khác, đó là thứ văn hóa được điều
hợp và nâng lên từ nhiều nguồn văn hóa” [80; 30]. Cũng theo nhận định của tác giả,
Bạc Liêu tuy là đất mới nhưng cũng là nơi có truyền thống văn hóa, và bởi vì văn
hóa dân tộc được văn hóa tín ngưỡng chuyển tải, phổ biến nên càng thêm sâu sắc.
Theo thống kê chưa đầy đủ, “toàn tỉnh Bạc Liêu có đến 94 ngôi chùa, 59 ngôi đình,
5 am thờ... của các hệ phái Phật giáo, Công giáo, Tin lành và Cao đài, cùng các tín
ngưỡng dân gian của 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer” [80; 92]. Ngoài ra thì còn rất
nhiều cơ sở thờ tự khác ở khắp các đầu xóm, ngã ba sông... Đi dọc một vòng ven
15
biển, ta cũng sẽ thấy rất nhiều miễu, am thờ nối tiếp nhau, trong đó Quán Âm Phật
Đài là cơ sở thờ tự ven biển được đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh thường
xuyên đến để chiêm bái, thực hành tín ngưỡng. Ở Bạc Liêu, “bất kỳ tôn giáo nào,
hình thức hoạt động ra sao cũng đều lấy bốn chữ “bác ái, vị tha” mà giáo huấn các
tín đồ, để làm nền tảng tồn tại” [80; 93].
Nhiều bài viết tập trung phản ánh tín ngưỡng Quán Âm Nam Hải, lòng tin về
vị Bồ tát này không chỉ trong Phật giáo mà còn lan tỏa trong các loại hình tín
ngưỡng dân gian khác. Hầu khắp các đền miếu ở Bạc Liêu đều có thờ Quán Thế
Âm Bồ tát. Đó là chưa kể tại tư gia, nhiều gia đình cũng tín ngưỡng và thờ cúng vị
Bồ tát này. Riêng tại vùng ven biển Bạc Liêu, tượng Quán Âm Nam Hải được đặt
trân trọng trong khu Quán Âm Phật Đài, quay mặt hướng ra biển cả với ý nghĩa phổ
độ bà con ngư dân nơi đầu sóng ngọn gió. Người dân quanh đây đã gọi Quán Âm
Nam Hải bằng một tiếng Mẹ thân thương, hay tiếng Bà gần gũi, tôn kính. Dần về
sau, tín ngưỡng này lan tỏa khắp trong và ngoài tỉnh, “Số lượng du khách từ các nơi
về đây chiêm bái những năm gần đây đều trên dưới bốn trăm ngàn lượt người”
[121; 89], đông đúc nhất là vào lễ vía Quán Thế Âm trong ba ngày 22, 23, 24 tháng
3 âm lịch hàng năm.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến những nghiên cứu của tác giả Trần
Thuận: Bước đầu tìm hiểu những ngôi chùa ở Bạc Liêu trong các thế kỷ XVII – XIX
(2002); Một số đặc điểm trong tín ngưỡng dân gian Bạc Liêu (2007); Tín ngưỡng
dân gian Bạc Liêu (2012). Kết quả nghiên cứu của những công trình này đặc biệt
quan trọng trong việc cung cấp một cái nhìn bao quát về tín ngưỡng dân gian ở Bạc
Liêu. Trong những công trình này, tác giả khảo sát một số hiện tượng tín ngưỡng
dân gian Bạc Liêu như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng bổn cảnh, tín
ngưỡng Quan Thánh Đế Quân, Đức Bà Thiên Hậu, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Qua
đó tác giả rút ra những nhận định lý thú về sự giao thoa văn hóa giữa ba tộc người
Kinh – Khmer – Hoa trên vùng đất Bạc Liêu. Tuy nhiên, do đây là một nghiên cứu
tổng thể về tín ngưỡng dân gian, nên mức độ nghiên cứu còn dừng ở khảo cứu sơ
bộ, cần thêm nhiều công trình đi sâu khai thác các vấn đề xoay quanh lĩnh vực này.
16
- Xem thêm -