Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của tòa án từ thực tiễn quận 7, thành phố hồ chí m...

Tài liệu Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của tòa án từ thực tiễn quận 7, thành phố hồ chí minh.

.PDF
76
100
70

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CHÍ HIẾU TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CHÍ HIẾU TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của PGS.TS Nguyễn Tất Viễn. Các trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều được liệt kê đầy đủ, cụ thể. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Chí Hiếu MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG .................................................................6 1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án ........6 1.2. Đặc điểm của trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung ....................................14 1.3. Pháp luật TTHS một số quốc gia về chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ........................................................................................................................17 Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................20 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN ....................21 2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.........................................21 2.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ...........................................23 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................38 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRẢ BỔ SUNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.......................................................................................................40 3.1. Thực trạng áp dụng quy định của BLTTHS tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ...............................40 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung ............................................................54 Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................65 KẾT LUẬN ..............................................................................................................66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCA: Bộ Công an Bộ luật HS: Bộ luật Hình sự Bộ luật TTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BPNC: Biện pháp ngăn chặn BQP : Bộ quốc phòng CQĐT : Cơ quan điều tra CQTTHS: Cơ quan tố tụng hình sự CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao THTT: Tiến hành tố tụng TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự HSVAHS: Hồ sơ vụ án hinh sự VAHS: Vụ án hình sự VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quận 7 là một quận nội thành được thành lập theo quyết định số 03/CP ngày 06/01/1997 của Chính phủ Việt Nam về việc thành lập quận, phường tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, các Cơ quan tư pháp Quận 7 đã có nhiều biện pháp thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp. Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các văn kiện khác của Đảng về cải cách tư pháp thì việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, trong đó có chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là rất cần thiết. Việc đưa ra một phán quyết đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không có oan, sai đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình tố tụng thông qua việc tranh luận tại phiên tòa việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ công khai những thông tin tài liệu, đồ vật thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Việc xét xử công bằng, nghiêm minh sẽ góp phần bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên không phải trường hợp nào Tòa án cũng có thể xét xử nếu chỉ thông qua những tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập được và qua quá trình tranh tụng công khai tại phiên tòa, mà có rất nhiều trường hợp không thu thập được đầy đủ tài liệu chứng cứ để kết luận về tội phạm, người phạm tội hoặc quá trình khởi tố, điều tra, truy tố còn vi phạm quy định của pháp luật tố tụng hình sự hoặc có căn cứ để khởi tố bị can về tội phạm khác, hoặc có đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ hạn chế được oan, sai, bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt 2 người phạm tội từ đó bảo đảm hơn nữa quyền con người, quyền công dân. Vì lý do đó, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sau khi Bộ luật TTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành, vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án tiếp tục được tranh luận làm rõ qua các bài viết sau: - Nguyễn Qúy Lộc (2013), Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tạp chí Tòa án nhân dân. Bài viết đề cập đến chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự và đưa ra một số kiến nghị đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định này trong Bộ luật TTHS năm 2013 theo tinh thần cải cách tư pháp, gắn với nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tư pháp hình sự. - Nguyễn Văn Linh (2019), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử. Bài viết đã nêu các căn cứ pháp lý để tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm với những phân tích thực tiễn xét xử những năm gần đây và đưa ra một 06 kiến nghị về hoàn thiện chế định này - Nguyễn Văn Mai (2008), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn này đã nêu được một số đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm và thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. - Ngô Công Tuấn (2018), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung một số vấn đề cần hoàn thiện,https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/tra-ho-so-dieu-tra-bo-sung-motso-de-xuat-hoan-thien, truy cập ngày 15/03/2020. Bài viết này đã nêu những điểm mới trong quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và những vấn đề cần sửa đổi. Khi nghiên cứu quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung nói chung và quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nói riêng luôn thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau. Các công trình nghiên cứu trả hồ sơ để điều tra bổ sung được đề cập ở các mức độ khác nhau, chủ yếu đi vào phân tích làm rõ ý nghĩa, nội dung của chế định này trong Bộ luật tố tụng hình sự, nêu lên các quan điểm khác nhau về việc đồng tình hay không đồng tình với quyết định 3 Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Trong số các công trình nêu trên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để thấy rõ đặc thù của việc áp dụng chế định pháp luật này trên địa bàn một quận. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích làm rõ vấn đề lý luận về quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vận dụng để phân tích thực tiễn của Tòa án Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở đó để xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật TTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để làm rõ được các vấn đề nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu như sau: - Khái quát những vấn đề lý luận về việc Tòa án trả hồ sơ để điều điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự. - Khái quát những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, phân tích các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. - Nêu ra những hạn chế, vướng mắc của Bộ luật TTHS năm 2015 trong việc quy định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh - Nêu một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật TTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 7. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án và thực tiễn áp dụng. 4 - Về thời gian: Từ khi ban hành Bộ luật TTHS năm 2003 đến khi ban hành Bộ luật TTHS năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và tư pháp, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp cụ thể thực hiện ở từng chương như sau: Chương 1: Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng để phân tích những vấn đề lý luận chung về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, bao gồm các khái niệm cơ bản như hồ sơ vụ án, điều tra, điều tra bổ sung và trả điều tra bổ sung của Tòa án; đặc điểm của trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, mục đích và ý nghĩa của trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong công tác trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, đánh giá để đánh giá nội dung từng chương, từng mục. Chương 2: Phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp với phương pháp thống kê, tổng hợp được sử dụng để phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án dựa trên những nội dung như: các trường hợp áp dụng, thủ tục áp dụng, quy định về việc Viện kiểm sát giải quyết yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. Chương 3: Phương pháp tổng hợp, phân tích kết hợp với phương pháp nghiên cứu tài liệu tại chổ, phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để đánh giá những điểm vướng mắc của Bộ luật TTHS năm 2015 trong việc quy định về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, từ đó đề xuất những kiến nghị hiệu quả nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5 Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên biệt về việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vì vậy góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo luật. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và giúp cán bộ làm công tác thực tiễn trong nâng cao nghiệp vụ 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Chương 2. Các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh về trả hồ sơ để điều tra bổ sung và một số kiến nghị. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG 1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án 1.1.1. Khái niệm hồ sơ vụ án hình sự, điều tra bổ sung vụ án hình sự - Hồ sơ vụ án hình sự: Trong Bộ luật TTHS không có quy định thế nào là HSVAHS. Tại khoản 10 Điều 2 Luật lưu trữ năm 2013, hồ sơ được định nghĩa như sau: “Hồ sơ là tập hợp toàn bộ (hoặc một) văn bản, tài liệu có liên quan với nhau về một vấn đề, một sự việc, một đối tượng cụ thể hoặc có cùng một (hoặc một số) đặc điểm chung về thể loại hoặc tác giả hình thành tài liệu trong quá trình giải quyết công việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân.” Hay nói cách khác, hồ sơ là các loại giấy tờ có liên quan đến một người, giải quyết một vụ việc, một vấn đề nào đó... qua đó nói lên các kết quả đạt được hay cung cấp bằng chứng về các hoạt động được thực hiện, được tổng hợp lại một cách có hệ thống. Theo Từ điển tiếng Việt thì có thể hiểu “hồ sơ” là: “Tài liệu tổng hợp có liên quan với nhau về một người, một sự việc hay một vấn đề”1. Đây là khái niệm ở góc độ chung và tổng quát nhất về hồ sơ, với nghĩa là những tài tiệu tổng hợp có tính liên quan mật thiết với nhau, trong đó được sắp xếp theo tiêu chí chung là về một người hoặc một sự việc, bao gồm cả một vấn đề nào đó. Từ điển Luật học cũng đưa ra khái niệm “hồ sơ vụ án” là: “Toàn bộ các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án, được sắp xếp một cách có trật tự, có hệ thống theo quy định của Cơ quan chủ quản hoặc theo chủ ý của người quản lý hồ sơ”2. Đây là từ điển chuyên ngành luật nên khái niệm mang tính chất pháp lý và có những điểm khác so với khái niệm hồ sơ nói chung nêu trên. Ưu điểm của khái niệm này là đã nêu được một số đặc điểm về hồ sơ vụ án, đó là tổng hợp các tài liệu, chứng Viện Ngôn ngữ học (2006), tlđd (1), tr. 456-457. Từ điển Luật học; Nxb Tư pháp, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006, Tổng Chủ biên TS. Nguyễn Đình Lộc 1 2 7 cứ có liên quan đến vụ án, và được sắp xếp theo tính chất vụ việc hoặc theo ý chí chủ quan của cơ quan có thẩm quyền thì khái niệm này chỉ nói chung đến các loại hồ sơ pháp lý như hồ sơ dân sự, hành chính, kinh tế, hình sự... Tuy nhiên, khái niệm này chưa thể hiện được những đặc điểm riêng biệt của HSVAHS. Lý do chúng ta tiếp cận khái niệm “hồ sơ” và “hồ sơ vụ án” là để nhìn nhận và hoàn thiện khái niệm HSVAHS một cách đúng đắn, khoa học. Bởi lẽ, hồ sơ vụ án hình sự là một dạng hồ sơ có nét đặc thù so với các loại hồ sơ khác. Nội dung bên trong của HSVAHS chính là tài liệu, văn bản được tập hợp thông qua việc sắp xếp theo trình tự nhất định, nêu rõ được chủ thể xây dựng HSVAHS là các CQTHTT trong từng giai đoạn TTHS khác nhau. Điểm hạn chế là khái niệm không nêu được thuộc tính nhà nước, thuộc tính bí mật của HSVAHS và thuộc tính liên quan của tài liệu. Đồng thời khái niệm cho rằng HSVAHS là “một tập tài liệu” thì chưa chính xác vì trên thực tế một HSVAHS có thể được chia thành nhiều tập tài liệu (do tính chất vụ án phức tạp hoặc do nhập vụ án). Mặt khác, sự không chính xác trong diễn đạt ở khái niệm trên là ở chỗ cho rằng một tập tài liệu bao gồm hệ thống các văn bản được các CQTHTT thu thập. Vô hình chung đã đánh đồng các hoạt động tố tụng chỉ là hoạt động thu thập các văn bản mà thôi. Nó đã không phản ánh được hoạt động TTHS như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi... ghi nhận dấu vết vào trong văn bản, tức là văn bản phản ánh việc ghi nhận các chứng cứ và kết quả tố tụng. Quan điểm của các tác giả trong Giáo trình kỹ năng xét xử VAHS do Trường đào tạo các Chức danh tư pháp biên soạn đưa ra khái niệm: “Hồ sơ vụ án hình sự là tập tài liệu bao gồm hệ thống các văn bản được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và được sắp xếp theo một trật tự nhất định để phục vụ cho việc giải quyết vụ án và lưu trữ lâu dài”3. Quan điểm này cũng tương đồng với quan điểm nêu trên khi cho rằng HSVAHS là một tập tài liệu. Bên cạnh đó có thể thấy rằng khái niệm này cũng gặp phải những hạn chế tương tự như Trường Đào tạo các Chức danh tư pháp (2001), Giáo trình kỹ năng xét xử VAHS (tập 2), Nxb. Công an nhân dân, tr. 5. 3 8 trong quan điểm về HSVAHS. Tuy nhiên, khái niệm này có điểm mới là đã nêu bật được ý nghĩa của HSVAHS được lưu trữ lâu dài. Thông qua các khái niệm trên, có thể nhận diện được một số đặc điểm của HSVAHS như sau: Thứ nhất, hồ sơ vụ án hình sự là một loại hồ sơ được lưu trữ lâu dài, phản ánh các hoạt động của CQTHTT và người tiến hành tố tụng trên cơ sở điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật TTHS , là căn cứ để cung cấp các thông tin, số liệu phục vụ cho việc báo cáo, thống kê, tổng kết. Thứ hai, việc lập và bổ sung HSVAHS được thực hiện theo từng giai đoạn tố tụng quy định và được thực hiện, hoàn thiện dần theo thứ tự số bút lục. Tùy từng vào giai đoạn tố tụng mà các CQTHTT và người tiến hành tố tụng trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình sẽ phải có trách nhiệm thu thập, tài liệu chứng cứ như biên bản ghi lời khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, kết luận định giá, kết luận điều tra, cáo trạng, quyết định biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét xử và bản án...để hoàn thiện HSVAHS. Hồ sơ vụ án hình sự là tổng hợp các tài liệu, đồ vật, chứng cứ phản ánh toàn bộ diễn biến của vụ án và hoạt động tố tụng hình sự, được sắp xếp theo trình tự thống nhất, được cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xác lập, tổng hợp và lưu giữ. - Điều tra bổ sung vụ án hình sự Khoa học pháp lý đã xác định điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm phát hiện, thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác liên quan đến vụ án, đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo đúng quy định của pháp luật, tạo cơ sở cho hoạt động xét xử của Tòa án. Về khái niệm điều tra bổ sung, theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Học Viện Cảnh sát nhân dân thì điều tra bổ sung là hoạt động của Cơ quan điều tra để nhằm phát hiện thu thập, bổ sung tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát hay của Tòa án để giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, đúng người đúng tội.Khái niệm này đã nêu rõ các chủ thể yêu cầu điều tra bổ sung, mục đích điều tra 9 bổ sung và CQĐT chịu trách nhiệm điều tra bổ sung. Tuy nhiên, việc khẳng định điều tra bổ sung là “hoạt động điều tra thêm” còn mang tính chung chung. Vậy “điều tra thêm” là như thế nào, phải chăng là đã điều tra rồi nay điều tra thêm để làm rõ hơn hay là chưa điều tra một vấn đề nào đó nay bổ sung điều tra mới, điều tra lại... Quan điểm khác cho rằng: trong trường hợp cần xem xét thêm chứng cứ quan trọng đối với vụ án, hoặc có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hay có một đồng phạm khác hoặc khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì theo quyết định của Viện kiểm sát hoặc của Tòa án, Cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra bổ sung, điều tra mới, điều tra lại. Tương tự, quan điểm khác chỉ nêu ngắn gọn: “ Điều tra bổ sung là những hoạt động điều tra cần phải thực hiện của Cơ quan điều tra theo yêu cầu của Viện kiểm sát hay Tòa án nhằm đảm bảo cho việc truy tố, xét xử đúng đắn”. Ở mỗi quan điểm có cách nhìn nhận giống nhau và khác nhau về hoạt động điều tra bổ sung. Nhưng nhìn chung đã nêu lên được chủ thể có thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung là Viện kiểm sát và Tòa án, còn chủ thể phải thực hiện điều tra bổ sung là CQĐT khi cần phải “điều tra thêm” hay nói cách khác là “điều tra cần phải thực hiện”. Tuy nhiên các quan điểm còn chưa nói rõ căn cứ của việc điều tra bổ sung như trong quan điểm thứ hai có thể giúp cho việc hiểu mục đích cụ thể của hoạt động điều tra bổ sung. Có thể nêu khái niệm điều tra bổ sung như sau: là hoạt động điều tra diễn ra sau khi đã chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát, Tòa án, do CQĐT tiến hành theo yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc Toà án theo một trình tự, thủ tục nhất định trong trường hợp cần xem xét thêm chứng cứ quan trọng đối với vụ án, hoặc có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hay có một đồng phạm khác hoặc khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhằm đảm bảo cho việc truy tố, xét xử vụ án được khách quan, đúng đắn. Việc điều tra bổ sung được thực hiện khi hồ sơ vụ án đã được chuyển sang Viện kiểm sát để quyết định việc truy tố hoặc chuyển sang Toà án để xét xử sơ thẩm nhưng vì thiếu căn cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội... nên các cơ quan này quyết định trả hồ sơ cho cơ quan cảnh sát để điều tra bổ sung. 10 1.1.2. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án Trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm là chế định pháp lý được quy định tại các Bộ luật TTHS 1988, 2003 và 2015 ( Điều 280). Theo đó, có thể hiểu “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là hoạt động tố tụng do Thẩm phán được phân công làm chủ tọa tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo các căn cứ do pháp luật tố tụng quy định, hậu quả pháp lý là Tòa án xóa sổ thụ lý và Viện kiểm sát nhận lại hồ sơ vụ án, thụ lý và giải quyết lại”4. Như vậy có thể thấy chủ thể tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ sung là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, hoạt động này được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trả hồ sơ cho Viện kiểm sát và yêu cầu Viện kiểm sát nhận lại hồ sơ và giải quyết, điều tra bổ sung về vụ án. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật TTHS thì Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử còn có thể yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung ngay trong khi đang tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án. Từ những đánh giá và phân tích nêu trên, có thể hiểu trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án là chế định pháp lý được quy định tại Bộ luật TTHS cho phép Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu họ tiến hành điều tra làm rõ về các tình tiết của VAHS hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đây là quyền hạn của Tòa án được thực hiện khi có căn cứ pháp luật nhằm mục đích làm sáng tỏ VAHS, đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử các VAHS khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Nhìn chung, các khái niệm trên đã trình bày được một số nội dung cơ bản của chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tuy nhiên chưa có khái niệm nào cập nhật được những tinh thần mới được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015. Vì vậy, tác giả xin đưa ra một khái niệm chung nhất về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án như sau: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là hoạt động tố tụng của Tòa án do Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị Nguyễn Văn Mai (2008), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 43. 4 11 xét xử hoặc do Hội đồng xét xử tại phiên tòa, quyết định trả lại hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát - cơ quan đã ra quyết định truy tố để điều tra bổ sung chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội, những tình tiết khác có liên quan, khắc phục việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện và đúng theo các quy định của pháp luật. 1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung Mục đích của chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung Mục đích của điều tra bổ sung là để xác minh đầy đủ tội phạm và người phạm tội. Đó là các trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ mà thấy rằng bị cáo còn phạm tội khác hoặc cần định tội danh nặng hơn đối với tội đã bị truy tố hoặc qua hồ sơ thấy có người khác phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong vụ án… Vì vậy, việc Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung nhằm tránh việc đưa ra xét xử vụ án mà bỏ sót tội phạm và người phạm tội hoặc định tội danh không phù hợp với mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Đồng thời, khắc phục những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như: “Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định cần phải thay đổi; Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định…” Chức năng chính của Toà án là xét xử. Do đó, mọi chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được điều tra, thu thập trong hồ sơ vụ án là căn cứ để Toà án xem xét, kiểm tra nhằm đưa ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định của pháp luật. Tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên toà thông qua phần tranh tụng, xét xử dựa vào kết quả điều tra, truy tố và hoạt động buộc tội chính thức của Viện kiểm sát tại phiên toà. Mặt khác, việc xét xử không thể bỏ qua kết quả thẩm tra công khai, công bố các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã thu thập được tại phiên toà do cả phía buộc tội (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, bị hại) và phía bào chữa gỡ tội đưa ra (bị can, bị cáo, người bào chữa...) và đặc biệt là kết quả tranh tụng công khai tại phiên toà sẽ đem lại cho Toà án có được phán quyết chính xác vì bản án, quyết định của Tòa án 12 phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Ý nghĩa của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung Quy định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một quy định quan trọng trong pháp luật TTHS, bởi lẽ quy định này đồng thời thể hiện mối quan hệ chế ước và phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong quan hệ tố tụng. Khi giải quyết mối quan hệ trên có ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng tố tụng cơ bản, quan trọng khác là quyền bào chữa. Trước hết, cần nhấn mạnh ý nghĩa chính trị - pháp lý của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong toàn bộ hoạt động TTHS. Ý nghĩa này thể hiện ở chỗ đây là một quy định pháp luật cần thiết, là hoạt động tố tụng bình thường nhưng có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố tuân thủ theo các quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử VAHS đúng đắn, khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS. Tiếp theo, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn xét xử, thể hiện ở các mặt như sau: Thẩm phán thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, phát hiện những thiếu sót, vi phạm của Viện kiểm sát, hoàn thiện hồ sơ để đảm bảo việc xét xử của Hội đồng xét xử. Trong hoạt động TTHS hiện nay của hệ thống pháp luật nước ta, hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Theo nguyên tắc các chức năng tố tụng, nghĩa vụ chứng minh, tính căn cứ của các hoạt động truy tố thuộc về cơ quan buộc tội, cụ thể là thuộc chức năng của Kiểm sát viên, thực tiễn hoạt động tố tụng của nước ta hiện nay, nghĩa vụ trên một phần thuộc về Hội đồng xét xử. Do đó, trả hồ sơ để điều tra bổ sung là hoạt động tố tụng của Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), của Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, đảm bảo hoạt động xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai cho người vô tội. Tòa án xét xử đánh giá chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết 13 của vụ án trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu, đồ vật do cơ quan buộc tội đã thu thập và những chứng cứ tài liệu, đồ vật do chủ thể thực hiện chức năng bào chữa cung cấp. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bởi lẽ, quá trình thu thập chứng cứ do CQĐT, Viện kiểm sát tiến hành ở giai đoạn điều tra, truy tố có ý nghĩa hết sức quan trọng đến việc xác định một người có tội hay không có tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, quá trình chứng minh tội phạm, các vấn đề cần phải giải quyết trong VAHS. Tòa án chỉ mở phiên tòa để xét xử vụ án khi hồ sơ vụ án có đầy đủ những chứng cứ, tài liệu được thu thập đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định hoặc thiếu những chứng cứ do không thể thu thập được mà không ảnh hưởng đến việc xét xử. Chính vì vậy, việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo các căn cứ do pháp luật quy định sẽ tạo áp lực lên hoạt động của Viện kiểm sát, buộc cơ quan này phải có trách nhiệm hơn khi thay mặt nhà nước để thực hiện quyền công tố. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn có ý nghĩa quan trọng đến chất lượng công việc của Tòa án nói chung và của Thẩm phán nói riêng, thể hiện một trong những kỹ năng quan trọng nhất của Thẩm phán đó là kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử vụ án. Theo quy định, việc Tòa án cấp sơ thẩm không trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến bỏ lọt tội phạm và hậu quả là bản án, quyết định có thể bị hủy, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của Thẩm phán. Đồng thời, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa hoặc Hội đồng xét xử chịu trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ và Viện kiểm sát có văn bản giữ nguyên quyết định truy tố, sau đó Tòa án xét xử vụ án như quyết định truy tố của Viện kiểm sát… Vì vậy, đây là tiêu chí đánh giá bản lĩnh nghề nghiệp của Thẩm phán ở khía cạnh trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 14 1.2. Đặc điểm của trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung 1.2.1. Đặc điểm của trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án Thứ nhất, tòa án có thể xem xét để ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở một trong hai thời điểm: trước thời điểm mở phiên tòa và tại phiên tòa xét xử vụ án. Sau khi thụ lý HSVAHS, qua quá trình nghiên cứu hồ sơ nếu có một trong các căn cứ được Bộ luật TTHS quy định tại thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu tại phiên toà mới phát hiện ra các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Hội đồng xét xử sẽ quyết định. Như vậy, ta có thể xác định được đặc điểm đầu tiên đó Tòa án (Thẩm phán) hoặc hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chính là chủ thể của trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Thứ hai, chủ thể thực hiện yêu cầu của Toà án trả để điều tra bổ sung là Viện Kiểm sát - cơ quan ra quyết định truy tố. Viện kiểm sát sau khi nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án thì Viện kiểm sát có thể xem xét để tự mình thực hiện các hoạt động điều tra bổ sung, nếu Viện kiểm sát thấy không thể tự mình thực hiện các hoạt động điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát lại tiếp tục trả hồ sơ về cho CQĐT để CQĐT trực tiếp tiến hành điều tra bổ sung . Thứ ba, chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung khi thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 280 Bộ luật TTHS năm 2015. Các căn cứ này được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP (sau đây gọi tắt là TTLT 02/2017) về quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện quy định của Bộ luật TTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể: - Khi thiếu các chứng cứ để chứng minh là: có hành vi phạm tội xảy ra hay không; thời gian, địa điểm, những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi; có năng lực trách nhiệm hình sự không; mục đích, động cơ phạm tội; có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ, miễn trách 15 nhiệm hình sự, miễn hình phạt; xác định tuổi đối với người dưới 18 tuổi; vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong đồng phạm, phạm tội có tổ chức; xác định trách nhiệm dân sự của từng bị cáo và chứng minh điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Để tránh tình trạng kéo dài việc giải quyết vụ án, Toà án chỉ xem xét để yêu cầu trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung nếu xét thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng dùng để chứng minh những vấn đề được quy định trong Bộ luật TTHS. Những chứng cứ này có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ nội dung vụ án và phải có một điều kiện là những chứng cứ này không thể bổ sung được tại phiên toà. - Khi có căn cứ cho rằng: Viện kiểm sát đã truy tố bị can về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ lại cho thấy hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác. Ngoài hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, chứng cứ lại cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can, bị cáo về một hay nhiều tội khác. Tuy nhiên, có một vài trường hợp bị can, bị cáo có thực hiện hành vi khác mà Bộ luật HS quy định là tội phạm nhưng Tòa án không trả hồ sơ điều tra bổ sung, đó là: - Khi có căn cứ cho rằng còn đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật HS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can. - Trong quá trình điều tra, tuy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, do đó xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án. 1.2.2.. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước thông qua công tác xét xử5 của Tòa án dựa trên kết quả các hoạt động điều tra của CQĐT 5 Nguyễn Đăng Dung (2005), Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan