Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra the...

Tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra theo quy định của pháp luật dân sự việt nam hiện hành tt

.PDF
29
448
74

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NHÀ CỬA, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG KHÁC GÂY RA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số: : 9380103 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2018 Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Phùng Trung Tập 2. TS. Lê Mai Anh Phản biện 1: PGS. TS Nguyễn Thị Quế Anh Phản biện 2: PGS. TS Vũ Thị Hải Yến Phản biện 3: TS. Trần Văn Trung Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án Tiến Sĩ Cấp trường họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Thời gian: vào hồi …… giờ ……ngày……. tháng …… năm 201… Có thể tìm đọc Luận án tại: - Thư viện Quốc Gia - Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, dưới sự tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, hàng loạt các công trình đã được xây dựng để giải quyết nhu cầu về chỗ ở, học tập, vui chơi giải trí… cho người dân. Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng trong khi những yếu tố về chất lượng không được bảo đảm là một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng các vụ tai nạn do nhà cửa, các công trình xây dựng khác gây ra không ngừng gia tăng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Nghiên cứu quy định về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra trong pháp luật dân sự hiện hành, NCS nhận thấy, mặc dù so với BLDS 1995 và 2005, quy định trong BLDS 2015 đã có nhiều sự sửa đổi bổ sung theo hướng tích cực, tuy nhiên, quy định về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, cụ thể: (1) quy định về điều kiện làm phát sinh trách nhiệm chưa thực sự rõ ràng; (2) so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể chịu TNBTTH từ ba chủ thể (CSH, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác ) lên năm chủ thể (CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác và người thi công) nhưng BLDS 2015 không quy định thứ tự chịu TNBTTH của các chủ thể này; (3) các quy định về xác định thiệt hại được bồi thường trong nhiều trường hợp chưa thực sự đầy đủ, minh bạch; (4) quy định về các trường hợp loại trừ thiệt hại còn nhiều bất cập…Đây là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của việc áp dụng quy định này trên thực tế. Thực trạng đó đặt ra nhu cầu cần nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện để hoàn thiện TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Xuất phát từ những lý do trên, NCS chọn đề tài“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra theo 1 quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Để thực hiện các mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như sau: Thứ nhất, phân tích các học thuyết xác định TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra; xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm của nhà cửa, CTXD khác; làm rõ bản chất của TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra, xây dựng khái niệm và chỉ ra được những đặc điểm của TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Thứ hai, phân tích, đánh giá nhằ m tìm ra điể m hợp lý và điể m chưa hợp lý trong quy định pháp luật dân sự hiện hành về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra Thứ ba, Phân tích những điểm tích cực, hạn chế khi áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết các vụ việc về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra trên thực tế. Thứ tư, Đề xuất kiến nghị cụ thể để hoàn thiện các quy định pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luâ ̣n án nghiên cứu các vấ n đề lý luâ ̣n, các quy đinh ̣ của pháp luâ ̣t Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Phạm vi nghiên cứu của luận án: - Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra; phân tích thực trạng quy định của BLDS 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan về trách nhiệm này. Luận án cũng tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác 2 gây ra; trên cơ sở đó, luận án đưa ra những ý kiến đánh giá và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm này. - Về mặt thời gian: Trọng tâm của luận án là phân tích các quy định trong BLDS 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan (Luật Nhà ở, Luật Xây dựng năm 2014..) về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra.. - Về mặt không gian: Luận án tập trung phân tích các quy định pháp luật Việt Nam, các bản án, quyết định của Toà án có thẩm quyền trên lãnh thổ Việt Nam về trách nhiệm này. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận án sẽ dưa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. * Phương pháp nghiên cứu cụ thể: trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu luận án, NCS sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:: Phương pháp phân tích và bình luận; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp lịch sử; Phương pháp hê ̣ thố ng hoá; Phương pháp phân tích tình huống. 6. Những đóng góp mới của việc nghiên cứu đề tài Kết quả nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” mang lại những điểm mới sau: Thứ nhất, luận án đã xác định và phân tích được các học thuyết xác định TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Thứ hai, luận án phân tích bản chất của TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Thứ ba, luận án đã xây dựng khái niệm nhà cửa, CTXD khác; khái niệm TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. 3 Thứ tư, luận án đã phân tích các đặc điểm và các điều kiện phát sinh TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Thứ năm, luận án đã tổng hợp, phân tích quy định pháp luật dân sự mà nền tảng là Bộ luật dân sự hiện hành vể TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra để làm rõ thực trạng pháp luật về trách nhiệm này. Từ đó, luận án đánh giá những kết quả đạt được, những han chế đối với quy định pháp luật hiện hành và bước đầu đặt ra vấn đề yêu cầu hoàn thiện pháp luật. Thứ sáu, luận án đã phân tích các quy định về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra trong pháp luật một số nước trong khu vực và trên thế giới; trên cơ sở đó, so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trong khu vực và trên thế giới về trách nhiệm này. Thứ bảy, thông qua phân tích các bản án có hiệu lực trong giải quyết tranh chấp về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra, luận án đã làm sáng tỏ những tranh chấp điển hình; từ đó luận án đã đánh giá những kết quả đạt được cũng như các hạn chế trong việc áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp về trách nhiệm này Thứ tám, luận án đã đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra nói riêng, TNBTTH do tài sản gây ra nói chung. 7. Kết cấu của luận án Ngoài Danh mục từ viết tắt, Mục lục, Lời mở đầu, Phần A về Tổ ng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyế t của đề tài, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, các Phụ lục, Phần B Nội dung luận án chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra 4 Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. PHẦN A TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Trong những năm qua đã có nhiều công trình khoa học ở những mức độ khác nghiên cứu về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Ở những mức độ khác nhau các công trình nghiên cứu này đã giải quyết được một số những vấn đề liên quan đến TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra, tuy nhiên, các công trình này vẫn chưa giải quyết được các vấn đề cơ bản sau: - Các công trình chưa chỉ ra được học thuyết xác định TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra; - Một số công trình khoa học xây dựng được khái niệm về “nhà cửa” và “CTXD khác” song khái niệm này chưa thực sự đầy đủ và toàn diện; chưa phân tích làm nổi bật được một số đặc trưng của “nhà cửa, CTXD khác” để giúp phân biệt giữa TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra với các TNBTTH khác. - Một số công trình nghiên cứu đã chỉ ra bản chất của TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra là một dạng của TNBTTH do tài sản gây ra song vẫn chưa phân tích điều này. - Một số công trình nghiên cứu chỉ ra một vài đặc điểm của TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra song vẫn chưa chỉ ra được đặc điểm cơ bản của trách nhiệm này. - Một số công trình đã nêu được điều kiện làm phát sinh TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra nhưng chưa phân tích 5 thấu đáo những điều kiện này; riêng đối với yếu tố lỗi, hầu hết các công trình mới khẳng định mà chưa có luận giải về lý do tại sao lỗi không phải là điều kiện làm phát sinh TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. - Hầu hết các công trình hiện nay chủ yếu phân tích thực trạng pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra theo quy định tại Điều 627 BLDS 2005 mà không phải là Điều 605 BLDS 2015. - Các công trình cũng chưa phân tích đầy đủ, có hệ thống những điểm mới, những ưu điểm và hạn chế của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) cũng như chưa có so sánh đối chiếu pháp luật dân sự Việt Nam với pháp luật dân sự của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. - Các công trình hiện nay ở những mức độ khác nhau đã nêu thực tiễn áp dụng pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra, tuy nhiên, vẫn chưa thực sự đầy đủ và có hệ thống trên mọi phương diện. - Trong các công trình nghiên cứu hiện nay, ở những mức độ khác nhau, các tác giả cũng đã đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, những kiến nghị này đa số mới chỉ tập trung vào một vài nội dung của TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra mà chưa có kiến nghị toàn diện. 2. Cơ sở lý thuyết và hướng tiếp cận của đề tài 2.1. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục đích được đặt ra trong mục 3.1 của Lời nói đầu luận án, NCS đặt ra ba nhóm câu hỏi làm nền tảng, định hướng cho quá trình nghiên cứu của mình. 2.2. Lý thuyết nghiên cứu Lý thuyết về TNBTTH: Các lý thuyết về sự ra đời, bản chất của trách nhiệm, các điều kiện làm phát sinh TNBTTH, cơ sở để buộc 6 chủ thể phải chịu TNBTTH, thiệt hại được bồi thường, chủ thể được bồi thường và các trường hợp không phải chịu TNBTTH. 2.3. Các giả thuyết nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, các câu hỏi nghiên cứu, các lý thuyết nghiên cứu mà tác giả đề ra, tác giả đặt ra bốn giả thuyết nghiên cứu cũng như kết quả nghiên cứu dự định đạt được trong luận án. 2.4. Hướng tiếp cận nghiên cứu Thứ nhất, TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra là một dạng của TNBTTH ngoài hợp đồng mà cụ thể là TNBTTH do tài sản gây ra, do đó nó sẽ mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm này cũng như có những đặc điểm riêng do đối tượng (nhà cửa, CTXD khác) gây thiệt hại chi phối. Thứ hai, quy định về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra vừa chịu sự điều chỉnh của BLDS đồng thời cũng chịu sự điều chỉnh của các văn bản luật chuyên ngành khác như Luật Xây dựng, Luật Nhà ở…Do đó, việc nghiên cứu TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra vừa phải dựa trên các quy định gốc trong BLDS vừa phải chú ý đến các đặc điểm riêng (về đối tượng gây thiệt hại, chủ thể chịu TNBTTH) được quy định trong pháp luật chuyên ngành. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NHÀ CỬA, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG KHÁC GÂY RA 1.1. Các học thuyết xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra 1.1.1. Học thuyết về sự cẩu thả (negligence) Học thuyết này được áp dụng tại Anh - Mỹ (các nước theo truyền thống pháp luật án lệ - Common Law) và một số nước Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Thuỵ Điển..). Theo học thuyết này, TNBTTH 7 do nhà cửa, CTXD khác gây ra sẽ phát sinh khi thoả mãn 4 điều kiện: (1) Có nghĩa vụ phải quan tâm đến người bị thiệt hại (“common duty of care”) của người chiếm hữu (“occupier”) nhà cửa, CTXD khác; (2) Có sự vi phạm nghĩa vụ đó của người chiếm hữu nhà cửa, CTXD khác; (3) Có thiệt hại; (4) Có mối quan hệ nhân quả giữa sự vi phạm nghĩa vụ với thiệt hại. Về bản chất, học thuyết về sự cẩu thả được xây dựng dựa trên yếu tố lỗi – lỗi do cẩu thả. 1.1.2. Học thuyết về lỗi do suy đoán (Presumed Fault Liability) Học thuyết này được áp dụng tại một số quốc gia như: Đức (Điều 836 - 838) Hungary (Điều 5:650), Ba Lan (Điều 434)… Theo học thuyết này, TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra sẽ được thiết lập khi thoả mãn các điều kiện: (1) Người bị thiệt hại chứng minh được 3 yếu tố: có thiệt hại, có sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra với sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác (thiệt hại là hậu quả của sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác); (2) CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý nhà cửa, CTXD khác không thể chứng minh được là mình không có lỗi trong việc để nhà cửa, CTXD khác tự gây thiệt hại. Khi đó, Toà án suy đoán rằng: CSH hoặc người chiếm hữu, người được giao quản lý nhà cửa, CTXD khác đã có lỗi và buộc những người này phải chịu TNBTTH. Xét về bản chất, trách nhiệm về lỗi suy đoán vẫn là trách nhiệm pháp lý dựa trên yếu tố lỗi - tuy nhiên, lỗi ở đây là lỗi do suy đoán. CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác bị suy đoán là có lỗi. Để bác bỏ suy đoán đó, đồng thời cũng là để loại trừ trách nhiệm cho mình thì CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác phải chứng minh được điều ngược lại - là mình không có lỗi - mình đã thực hiện đầy đủ các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa thiệt hại nhưng cuối cùng thiệt hại vẫn xảy ra. 8 1.1.3. Học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt (strict liability) Học thuyết này được áp dụng tại một số quốc gia như Pháp, Tây Ban Nha, Quebec ( Canada)…. Theo học thuyết này, TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra sẽ phát sinh khi người bị thiệt hại chứng minh được 3 yếu tố: (1) có thiệt hại; (2) có sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác; (3) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra với sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác (thiệt hại là hậu quả của sự sụp đổ của nhà cửa, CTXD khác). Nguyên đơn không cần chứng minh yếu tố lỗi của CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây bị đơn trong việc để nhà cửa, CTXD khác sụp đổ, gây thiệt hại; ngược lại, bị đơn cũng không thể được miễn trách nhiệm chỉ vì chứng minh được rằng mình không có lỗi. Học thuyết này đã tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho nạn nhân trong việc yêu cầu BTTH. 1.1.4. Sự kết hợp giữa học thuyết về lỗi do suy đoán và học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt Sự kết hợp về học thuyết về lỗi do suy đoán và học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt được thể hiện trong BLDS của một số quốc gia như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan … BLDS của các quốc gia này quy định: trong trường hợp nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại do khuyết tật trong xây dựng hoặc thiếu bảo dưỡng thì người chiếm hữu nhà cửa, công trình xây dựng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; người chiếm hữu sẽ được loại trừ trách nhiệm nếu chứng minh được là mình không có lỗi (học thuyết về lỗi do suy đoán); khi người chiếm hữu đã loại trừ được trách nhiệm cho mình bằng việc chứng minh minh không có lỗi thì CSH sẽ chịu trách nhiệm bồi thường; CSH phải chịu TNBTTH ngay cả khi chứng minh được là mình không có lỗi (học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt). 9 1.1.5. Học thuyết xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra trong pháp luật dân sự Việt Nam BLDS 2015 đã lựa chọn học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt để xây dựng quy định về TNBTTH do tài sản gây ra nói chung (khoản 2 Điều 584), TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra nói riêng (đoạn 1 Điều 605). Chính vì vậy, trong phạm vi luận án này, NCS sẽ dựa vào học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt khi đi phân tích các nội dung cơ bản của TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. 1.2. Khái niệm, đặc điểm nhà cửa, công trình xây dựng khác 1.2.1. Khái niệm “nhà cửa, công trình xây dựng khác” Nhà cửa, CTXD khác là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được gắn liền với đất. 1.2.2. Đặc điểm nhà cửa, công trình xây dựng khác Thứ nhất, nhà cửa, CTXD khác là “sản phẩm” do con người tạo ra. Thứ hai, nhà cửa, CTXD khác là sự liên kết giữa các vật liệu xây dựng và các thiết bị lắp đặt vào công trình. Thứ ba, nhà cửa, CTXD khác phải được gắn liền với đất. 1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra là trách nhiệm của CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác phải bồi thường những thiệt hại về vật chất và tinh thần phát sinh khi tự thân nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại. 1.4. Bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra Về bản chất, TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra là một dạng của TNBT do tài sản gây thiệt hại. Trách nhiệm này phát sinh không cần điều kiện lỗi khi thiệt hại là do sự tự thân tác động của nhà 10 cửa, CTXD khác gây ra. Nhà cửa, CTXD khác tự gây thiệt hại (sụp đổ, hư hỏng, sụt lở…) do khiếm khuyết bên trong của nó. Những khiếm khuyết này có thể bắt nguồn từ những sai sót trong xây dựng hoặc trong quá trình bảo trì bảo dưỡng nhà cửa, CTXD khác ... Có thể thấy, nguyên nhân sâu xa khiến nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại vẫn có thể có lỗi của con người. Có điều đó là “lỗi gián tiếp” chứ không phải là “lỗi trực tiếp”[63, tr.21]; lỗi trong quản lý (không quan tâm chăm sóc, bảo trì bảo dưỡng, kịp thời sửa chữa những hư hỏng khiến nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại) chứ không phải lỗi trong việc sử dụng nhà cửa, CTXD khác để gây thiệt hại. Do việc chứng minh lỗi này vô cùng khó khăn, thậm chí trong nhiều trường hợp không thể thực hiện được, vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, pháp luật không buộc người bị thiệt hại phải chứng minh lỗi này. 1.5. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra Ngoài những đặc điểm chung của TNBTTH ngoài hợp đồng, TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra cũng có những đặc điểm riêng biệt sau: Thứ nhất, về nguyên nhân gây ra thiệt hại: là do sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác. Thứ hai, về điều kiện làm phát sinh trách nhiệm. Trong TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra, để được bồi thường, người bị thiệt hại chỉ cần chứng minh ba điều kiện: có thiệt hại; có sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự tự thân tác động của nhà cửa, CTXD khác mà không cần chứng minh lỗi của CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác. Nói cách khác, lỗi không phải là điều kiện làm phát sinh TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. 11 Thứ ba, về thiệt hại được bồi thường. Thiệt hại do nhà cửa, CTXD khác gây ra không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều này xuất phát từ phương thức gây thiệt hại của nhà cửa, CTXD khác và từ bản chất của danh dự, nhân phẩm, uy tín. Thứ tư, chủ thể chịu TNBTTH và cơ sở xác định chủ thể chịu TNBTTH Chủ thể chịu TNBTTH là CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác. Mặc dù, thiệt hại là do nhà cửa, CTXD khác gây ra, CSH, người được CSH giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác có thể không có lỗi nhưng họ vẫn phải chịu TNBTTH do tại thời điểm nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại, CSH, người được CSH giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác là người đang được hưởng lợi ích từ việc khai thác công dụng nhà cửa, CTXD khác. Vì vậy, khi nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại thì đương nhiên với tư cách là người được “hưởng lợi” từ nhà cửa, CTXD khác, những chủ thể này phải gánh chịu rủi ro. Điều này là phù hợp với lẽ công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại vốn không có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NHÀ CỬA, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG KHÁC GÂY RA 2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra 2.1.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác 2.1.1.1. Có thiệt hại 2.1.1.2. Có sự tự thân tác động của nhà cửa, công trình xây dựng khác 12 2.1.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa sự tự thân tác động của nhà cửa, công trình xây dựng khác với thiệt hại 2.1.1.4. Điều kiện lỗi của chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra 2.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm liên đới của người thi công với chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác (1) Có thiệt hại (2) Có hành vi trái pháp luật cùng gây thiệt hại của người thi công, CSH, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật cùng gây thiệt hại của người thi công, CSH, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác với thiệt hại (4) Có lỗi của CSH, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác và của người thi công. 2.2. Xác định thiệt hại 2.2.1. Xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm Điều 589 BLDS 2015 quy định khi tài sản bị xâm phạm thiệt hại được bồi thường chỉ bao gồm thiệt hại về vật chất mà không bao gồm thiệt hại về tinh thần. Quy định của pháp luật hiện hành về xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm còn một số bất cập như sau:: Thứ nhất, không có văn bản hướng dẫn về cách xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm. Thứ hai, Điều 589 quy định khi tài sản bị xâm phạm, thiệt hại được bồi thường chỉ là thiệt hại vật chất mà không bao gồm thiệt hại tinh thần. Trong khi đó, trên thực tế có rất nhiều tài sản nếu bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng có thể gây những tổn thất tinh thần rất lớn cho CSH, thậm chí cho cả gia đình, dòng họ. 13 Thứ ba, Điều 589 quy định khi tài sản bị xâm phạm, thiệt hại vật chất được bồi thường chỉ bao gồm: tài sản bị mất, bị huỷ hoại,…. mà không quy định thiệt hại do tài sản bị giảm giá trị (“loss in value”). 2.2.2. Xác định thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm BLDS 2015 (Điều 590) quy định: khi sức khoẻ bị xâm phạm thì thiệt hại được bồi thường bao gồm hai loại: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. So với BLDS 2005 (Điều 609), quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm tại Điều 590 BLDS 2015 có một số điểm mới sau: Thứ nhất, bổ sung thêm “Thiệt hại khác do luật quy định” tại điểm d khoản 1 Điều 590. Thứ hai: sử dụng khái niệm “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm”thay cho khái niệm “Người xâm phạm sức khoẻ của người khác”(Điều 609 BLDS 2005). Thứ ba, quy định mức bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp các bên không thoả thuận được. 2.2.3. Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm BLDS 2015 (Điều 591) quy định: khi tính mạng bị xâm phạm thì thiệt hại được bồi thường bao gồm hai loại: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. So với quy định tại BLDS 2005, Điều 591 BLDS 2015 có một số sửa đổi theo hướng tích cực: Thứ nhất, bổ sung quy định khi tính mạng bị xâm phạm thiệt hại được bồi thường bao gồm: “Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này”. Thứ hai, sửa khái niệm: “Người xâm phạm tính mạng của người khác” (khoản 2 Điều 610 BLDS 2005) thành “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm”cho phù hợp với những tình huống thực tiễn khi thiệt hại xảy ra do tài sản hoặc do người chưa thành niên… 14 Thứ ba, đã nâng mức bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp các bên không thoả thuận được từ “không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định” (khoản 2 Điều 610 BLDS 2005) lên “không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định” (khoản 2 Điều 591 BLDS 2015. Đặc biệt, so với BLDS 2005, BLDS 2015 cũng quy định rõ: mức bù đắp tổn thất về tinh thần này là áp dụng cho “một” người có tính mạng bị xâm phạm. Thứ tư, BLDS 2015 đã bổ sung quy định mang tính “mở” là:“Thiệt hại khác do luật quy định”. 2.3. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại 2.3.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác Phạm vi chủ thể chịu TNBTTH. Chủ sở hữu: CSH được xác định là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sở hữu các CTXD khác. Người chiếm hữu: để phân biệt với “chủ sở hữu” và “ người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác”, “người chiếm hữu” được hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm: (1) những người đang thực tế “trực tiếp hoặc gián tiếp nắm giữ, chi phối” nhà cửa, CTXD khác nhưng lại không có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sở hữu các CTXD; (2) những người đang trực tiếp quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác nhưng quyền này không được “giao” một cách hợp pháp. VD: người thuê nhà- mặc dù hai bên đã chấm dứt hợp đồng thuê mà vẫn ở không chịu trả nhà… Người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác: khác với người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, “người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác” được hiểu là những người mà quyền quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác có được do “được giao” thông qua một giao dịch dân sự hợp pháp (cho thuê, cho 15 ở nhờ, uỷ quyền quản lý… nhà cửa, CTXD khác) hoặc quyết định hành chính hợp pháp. Thứ tự chủ thể chịu TNBTTH. Một trong những hạn chế lớn nhất của Điều 605 BLDS 2015 (cũng như Điều 631 BLDS 1995 và Điều 627 BLDS 2005 trước đây) là quy định rất nhiều chủ thể chịu TNBTTH trong trường hợp nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại nhưng lại không quy định căn cứ cũng như thứ tự các chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Quy định tại Điều 605 BLDS 2015 chỉ đơn thuần mang tính liệt kê. Nói cách khác, nếu dựa vào quy định trong BLDS hiện nay thì không thể xác định được thứ tự chủ thể phải chịu TNBTTH; chính vì vậy, trong phần này, NCS không đưa ra quan điểm của mình về việc xác định thứ tự chủ thể chịu TNBTTH. Để có thể xác định chính xác thứ tự chịu TNBTTH trong trường hợp nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại theo NCS bắt buộc BLDS phải được sửa đổi bổ sung, hướng dẫn. Phương hướng sửa đổi cụ thể sẽ được NCS trình bày tại mục 3.2.3. Chủ thể chịu TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra trong một số trường hợp đặc biệt (1) Nếu nhà cửa, CTXD khác bị trưng dụng: thì chủ thể chịu TNBTTH là “Tổ chức, cá nhân được giao quản lý, sử dụng tài sản trưng dụng” chứ không phải “chủ sở hữu”. (2) Nếu nhà cửa, CTXD khác thuộc sở hữu chung theo phần: thì mỗi CSH chung theo phần có TNBTTH tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác. (3) Nếu nhà cửa, CTXD khác thuộc sở hữu chung hợp nhất: thì các CSH chịu trách nhiệm liên đới trong việc BTTH (4) Nhà chung cư. Khi phần thuộc sở hữu riêng của nhà chung cư gây thiệt hại thì CSH của phần sở hữu riêng chịu TNBTTH. Khi phần thuộc sở hữu chung của nhà chung cư gây thiệt hại, các đồng CSH chịu trách nhiệm liên đới BTTH. 16 2.3.2. Trách nhiệm bồi thường liên đới bồi thường thiệt hại của người thi công “Người thi công” được hiểu là người tiến hành hoạt động xây dựng và lắp đặt thiết bị đối với CTXD mới, sửa chữa, cải tạo, di dời, tu bổ, phục hồi; phá dỡ công trình; bảo hành, bảo trì CTXD theo thiết kế. TNBTTH của người thi công được xác định như sau: Thứ nhất, nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do hành vi trái pháp luật, có lỗi của người thi công, người thi công chịu TNBTTH toàn bộ theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 584 BLDS 2015. Thứ hai, nếu thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật, có lỗi của người thi công và của CSH, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác thì khi đó người thi công và CSH, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, CTXD khác phải liên đới chịu TNBTTH theo đoạn 2 Điều 605 BLDS 2015. 2.4. Chủ thể được bồi thường thiệt hại Tuỳ thuộc vào đối tượng bị thiệt hại là tài sản, tính mạng hay sức khoẻ mà chủ thể được bồi thường sẽ khác nhau. 2.4.1. Chủ thể được bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm Theo Điều 170 và Điều 185 BLDS 2015 thì khi quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì CSH, chủ thể có quyền khác đối với tài sản và người chiếm hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải BTTH. Quy định này tương đồng với pháp luật một số quốc gia như: Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Áo, Hy Lạp, Hà Lan, Italia… 2.4.2. Chủ thể được bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm Chủ thể được BTTH về vật chất: Người bị thiệt hại về sức khoẻ và người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị. Chủ thể được BTTH về tinh thần: chỉ có người bị thiệt hại về sức khoẻ mà không bao gồm những người thân thích của người bị thiệt 17 hại. Quy định này không tương đồng với pháp luật một số quốc gia như: Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Áo, Hy Lạp,.. Nghị quyết số 75 (7) của Uỷ hội châu Âu (Council of Europe); Điều VI.–2:202 Bộ tham khảo chung về BTTH ngoài hợp đồng (DCFR), Điều 10:301 Bộ nguyên tắc về luật BTTH ngoài hợp đồng châu Âu ( PETL) 2.4.3. Chủ thể được bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm Chủ thể được bồi thường hiệt hại về vật chất: người bị thiệt hại (nếu tại thời điểm bồi thường người đó còn sống), những người đã thực tế thanh toán hoặc người thừa kế của người bị thiệt hại; còn riêng với khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết sẽ trả cho những đối tượng được cấp dưỡng (cha mẹ, vợ chồng, con..) Chủ thể được BTTH về tinh thần: “người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại” hoặc “người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại”. Quy định này tương đồng với pháp luật của một số quốc gia như Pháp, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Italia, Trung Quốc, Nhật Bản… 2.5. Các trường hợp không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (1)Thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng Sự kiện bất khả kháng “là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép (Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015) (2) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại: Điều 584 BLDS 2015 quy định: trong trường hợp thiệt hại xảy ra “do sự kiện bất khả kháng” và “hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại” thì TNBTTH sẽ được loại trừ. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan