Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư việt nam khi vi phạm hợp đồng ...

Tài liệu Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư việt nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở việt nam hiện nay

.PDF
82
141
89

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU HÒA TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn theo đúng quy định. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội. Nay tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học viện Khoa học Xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! HỌC VIÊN Nguyễn Thị Thu Hòa BẢNG VIẾT TẮT Bộ luật dân sự Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Bộ luật dân sự TNHH MTV MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT .......................................... 8 1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý ... 8 1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng ...................................... 15 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................................................... 27 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ........................................................................... 27 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................................................................. 38 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM .................................................................................... 55 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................................................................. 55 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................... 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài So với nhiều ngành nghề luật khác trong hệ thống các nghề luật Việt Nam, thì nghề luật sư và các quy định về nghề luật sư hình thành muộn màng, do đó, hệ thống pháp luật về nghề luật sư và hành nghề luật sư chưa thật sự hoàn chỉnh và đồng bộ. Trong khi đó, nghề luật sư được cho là tiêu biểu nhất và thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật vì nó luôn hướng tới việc bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những năm gần đây, xã hội ngày càng phát triển, quyền con người, quyền công dân được đề cao, đồng thời cũng phát sinh thêm nhiều mối quan hệ giữa công dân với công dân, giữa công dân với các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau. Những mối quan hệ này có thể nảy sinh mâu thuẫn, ảnh hưởng đến quyền lợi của mỗi bên. Điều này dẫn đến một nhu cầu thiết yếu là nhiều tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý do các tổ chức hành nghề luật sư cung cấp. Trước, trong và sau một quá trình tố tụng hay trước một cuộc đàm phán, giao kết, thực hiện một giao dịch, không một tổ chức, cá nhân nào mà không muốn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực tế cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý tăng lên một cách rõ rệt. Số lượng luật sư tăng nhanh, song song cùng phát triển là sự ra đời của các tổ chức hành nghề luật sư ngày một nhiều. Khác với các ngành nghề khác trong xã hội, nghề luật sư có tính đặc thù riêng, mang tính độc lập, tự chịu trách nhiệm. Một luật sư Việt Nam có thể hành nghề thông qua hai hình thức là hành nghề theo tư cách cá nhân và hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư. Tổ chức hành nghề luật sư được điều chỉnh bởi Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012. Tuy nhiên, vấn đề về trách nhiệm pháp lý, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật của tổ chức hành nghề luật sư không được cụ thể hóa trong Luật Luật 1 sư mà vẫn tuân theo các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan về vấn đề này. Do vậy, để xem xét các vấn đề về tư cách pháp nhân và trách nhiệm, nghĩa vụ tài sản khi thực hiện dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư còn phải thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Dịch vụ pháp lý là một lĩnh vực khá rộng, là đặc quyền của giới luật sư, được pháp luật bảo hộ và được hiểu là sự giúp đỡ về mặt pháp lý của các luật sư cho những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng có những vi phạm và phát sinh tranh chấp, đặc biệt là các trường hợp xác định trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, mối quan hệ về trách nhiệm pháp lý giữa các luật sư trực tiếp thực hiện và các tổ chức hành nghề luật sư như thế nào…? Pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư đang ngày dần hoàn thiện, đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của nghề luật sư, nhưng trên thực tế, một số quy định của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ những hạn chế, bất cập chưa đồng bộ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật. Bởi vậy, học viên đã chủ động lựa chọn đề tài “Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động và hành nghề không phải là một vấn đề quá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu khoa học. Pháp luật về nghề luật sư và những bất cập trong hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư đã được đề cập trong một số nghiên cứu ở các mức độ khác nhau như bài viết trên các tạp chí, tham luận tại các diễn đàn, tiểu luận của các học viên, nghiên cứu sinh. Việc nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận 2 và phương diện khác nhau. Một số công trình khoa học tiêu biểu về nghề luật sư và những bất cập của Luật Luật sư trong hệ thống pháp luật hay quản lý nhà nước về nghề luật sư như các giáo trình về nghề luật luật sư, sách kỹ năng hành nghề luật sư, tài liệu học tập, bài viết nghiên cứu hay các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Các công trình nghiên cứu liên quan được thể hiện như sau: 2.1. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực luật sư và hành nghề luật sư, có một số công trình tiêu biểu như: - Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” do ông Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp là Chủ nhiệm đề tài, được thực hiện năm 2003; - Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Vấn đề xã hội hóa hoạt động luật sư và tư vấn pháp luật” của tác giả Dương Đình Khuyến, được thực hiện năm 2001… 2.2. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực hợp đồng dịch vụ pháp lý có các công trình tiêu biểu như: - Đề tài khoa học cấp Bộ “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển” do TS. Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp là Chủ nhiệm đề tài, được thực hiện năm 2005; - Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hành nghề luật sư - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Vũ Quỳnh Anh được thực hiện năm 2006; - Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Vịnh được thực hiện năm 2014; 3 - Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Bình Phương được thực hiện năm 2017… 2.3. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về hình thức tổ chức hành nghề luật sư có các công trình tiêu biểu như: - Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Tổ chức luật sư ở Việt Nam” của tác giả Đoàn Văn Duy được thực hiện năm 1996; - Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả LS. Phan Trung Hoài được thực hiện năm 2003; - Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Minh được thực hiện năm 2009… và còn nhiều bài nghiên cứu, các luận văn, luận án khác nghiên cứu về vấn đề luật sư và hành nghề luật sư… Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu đối với đề tài “Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục tiêu đã đặt ra, nhiệm vụ mà luận văn phải làm rõ đó là: 4 - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật; - Khái quát, phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đánh giá về những ưu điểm và tồn tại của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật; - Đề xuất quan điểm và các giải pháp nhằm khắc phục tồn tại, bất cập để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, từ đó, nâng cao giá trị nghề luật sư trong xã hội góp phần bảo vệ công lý, đem lại sự bình đẳng, công bằng cho người dân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo pháp luật Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật và thực trạng về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo Luật Luật sư 2006, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012 tại Việt Nam cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận nghiên cứu của luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về nghề luật sư và hành nghề luật sư… Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng 5 các phương pháp nghiên cứu truyền thống và tin cậy để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về mặt lý luận, luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam hiện nay khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay, đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục tồn tại bất cập để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, từ đó nâng cao, tôn vinh giá trị nghề luật sư trong xã hội góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức theo quy định pháp luật. Luận văn cũng có thể là nguồn tư liệu tham khảo cho người nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề liên quan đến nghề luật sư, trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương, cụ thể: Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. 6 Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT 1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư 1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư được sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng). Trong Luật Luật sư, khái niệm luật sư đã được cụ thể hơn bằng quy định về tiêu chuẩn luật sư, đây là điểm mới so với Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Điều 10 Luật Luật sư quy định: “Luật sư là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe, đảm bảo hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”. Tiêu chuẩn trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật là điều “bất biến”. Với các tiêu chuẩn cơ bản về luật sư quy định tại Luật Luật sư thì gần như tương tự tiêu chuẩn đối với điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán. Quy định này ngoài việc đảm bảo sự thống nhất về tiêu chuẩn đối với các chức danh tư pháp, nó còn tạo ra mối liên kết giữa luật sư và các chức danh tư pháp khác trong quá trình đào tạo nghề và hoạt động nghề nghiệp. Việc quy định cụ thể về tiêu chuẩn luật sư đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký gia nhập Đoàn luật sư và thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư. 8 Một điểm đặc thù trong tiêu chuẩn luật sư so với các chức danh tư pháp khác đó chính là tiêu chuẩn có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. Điều này trong thực tiễn cho thấy, nhiều điều tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên sau khi nghỉ hưu mới trở thành luật sư và điều kiện sức khỏe không bảo đảm đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hành nghề luật sư. Đây là sự bất cập trong quy định về tiêu chuẩn sức khỏe đối với luật sư vì pháp luật không quy định cụ thể gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước và Đoàn luật sư trong quá trình xem xét cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và cho gia nhập đoàn luật sư. Việc xác nhận một người có đảm bảo sức khỏe hay không chỉ dựa vào Giấy chứng nhận sức khỏe do một tổ chức, cơ quan y tế xác nhận, điều này là rất dễ dàng có được trong thực tế hiện nay. Người có đủ tiêu chuẩn theo Điều 10 Luật luật sư muốn hành nghề luật sư phải được cơ quan nhà nước (Bộ Tư pháp) cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư để có tư cách là thành viên của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và thành viên của một Đoàn luật sư. Điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư phải đáp ứng các yêu cầu về chuyên môn như phải có bằng cử nhân luật, đã tốt nghiệp khóa đào tạo nghề, hoàn thành thời gian tập sự và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Đây chính là điều kiện cần đối với người muốn hành nghề luật sư. Điều kiện gia nhập một Đoàn luật sư là yêu cầu mang tính nghề nghiệp, thể hiện tính chất đặc thù của nghề luật sư so với các nghề nghiệp khác trong xã hội. Luật sư được Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp Thẻ luật sư làm thông hành cho việc hành nghề luật sư. Khi tác nghiệp nghề luật sư, luật sư với vai trò phản biện theo tố tụng và phản biện xã hội theo yêu cầu dịch vụ pháp lý với công dân hoặc tổ chức xã hội. 9 Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện hành nghề luật sư hiện nay là phù hợp với thông lệ nghề nghiệp được pháp luật về luật sư của nhiều nước trên thế giới quy định. Một người chỉ được coi là “Luật sư” khi có đủ điều kiện nêu trên. Khi đã trở thành luật sư, người đó có quyền được hành nghề luật sư (cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng) theo phạm vi, hình thức hành nghề luật sư quy định tại Luật Luật sư. Nếu một người không có đủ điều kiện hành nghề luật sư nhưng vẫn hành nghề luật sư dù dưới bất kỳ hình thức nào thì được coi là hành nghề luật sư bất hợp pháp và bị xử lý theo quy định của pháp luật. Hiện nay Nhà nước ta đang trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, thì vai trò, vị trí của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn và toàn diện hơn. Hoạt động luật sư không chỉ phục vụ đắc lực yêu cầu của hoạt động xét xử nói riêng, hoạt động tư pháp nói chung mà còn là một nhân tố quan trọng trong việc hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát triển. Có thể nói nghề luật sư là nghề tự do và các luật sư hành nghề độc lập trên cơ sở các quy định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Chính vì tính chất đặc thù của nghề luật sư nên trong cơ chế thực thi pháp luật thì hoạt động hành nghề luật sư luôn được coi là một bộ phận quan trọng. Thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình, luật sư là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần tích cực trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu các quy định trong pháp luật tố tụng thể hiện rõ quyền của luật sư khi hành nghề được mở rộng đáng kể thì Luật Luật sư cũng có những quy định tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, Luật Luật sư cũng tạo cơ chế pháp lý để tăng cường trách nhiệm pháp lý, nâng cao kỷ luật, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề. 10 Luật Luật sư quy định luật sư được thực hiện hoạt động nghề nghiệp trong khuôn khổ pháp luật cho phép nhưng cũng quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư. Nếu Luật sư thực hiện một trong các hành vi bị nghiêm cấm thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật còn bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, nếu gây thiệt hại thì họ phải bồi thường theo quy định của pháp luật. 1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL quy định về các tổ chức, các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, quy định chế độ bào chữa, điều kiện công nhận luật sư [17]. Đây là khung pháp lý nền tảng cho sự phát triển về các quy định đối với nghề luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam sau này. So với các nước trên thế giới hình thức tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam có nhiều nét tương đồng. Hình thức tổ chức hành nghề luật sư phổ biến ở các nước khác là: Văn phòng luật sư cá nhân, hành nghề độc lập; công ty luật hợp danh. Còn ở Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi bổ sung Luật Luật sư năm 2012 quy định về hình thức tổ chức hành nghề luật sư như sau: “Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: (a) Văn phòng luật sư; (b) Công ty luật” [35]. - Văn phòng luật sư bao gồm: Văn phòng luật sư có một thành viên và Văn phòng luật sư có nhiều thành viên. Văn phòng luật sư có con dấu và tài khoản theo quy định của pháp luật. - Công ty luật bao gồm: Công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH. Công ty luật hợp danh có ít nhất 02 luật sư thành lập. Công ty luật TNHH bao gồm công ty luật TNHH có 02 thành viên trở lên và công ty luật TNHH 01 thành viên do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu làm giám đốc công ty. 11 Công ty luật TNHH 02 thành viên trở lên do ít nhất 02 luật sư thành lập và thỏa thuận cử 01 thành viên làm giám đốc. Luật sư đứng ra thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất 2 năm hành nghề liên tục. Tổ chức hành nghề luật sư được tổ chức hoạt động theo quy định của Luật Luật sư và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc công ty luật là thành viên. Tổ chức hành nghề luật sư hoạt động theo đúng nội dung đăng ký hoạt động. Để có một khái niệm chính thức về tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam thì đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định. Luật sư muốn thành lập hoặc tham gia cùng các luật sư đồng nghiệp thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện như Luật Luật sư quy định. Tổ chức hành nghề luật sư là nơi để các luật sư trực tiếp hoạt động nghề nghiệp. Các luật sư tác nghiệp theo sự phân công của đại diện tổ chức hành nghề luật sư nơi mình đăng ký là thành viên hoặc cộng sự. Tổ chức luật sư thực hiện chế độ tự quản trên nguyên tắc quản lý và hành nghề luật sư do Nhà nước quy định dựa theo Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư và Điều lệ Đoàn luật sư nơi tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc.Tổ chức hành nghề luật sư được hiểu là một loại hình tổ chức nghề nghiệp có sự kết hợp giữa Nhà nước cho phép thành lập, thống nhất quản lý và chế độ tự quản của tổ chức nghề nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư. Sự khác biệt và đặc thù của các tổ chức hành nghề luật sư là việc cấp phép hoạt động, chịu sự quản lý trực tiếp về hình thức tổ chức hành nghề là do Sở Tư pháp nơi Đoàn luật sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc nhưng về mô hình hoạt động, 12 chế độ tài chính kế toán thì lại áp dụng như loại hình doanh nghiệp hay công ty và chịu sự điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp. Từ các phân tích ở trên, tác giả xin đưa ra khái niệm về tổ chức hành nghề luật sư như sau: “Tổ chức hành nghề luật là một tổ chức nghề nghiệp của các luật sư hoặc của một luật sư được thành lập, đăng ký tại Sở Tư pháp tỉnh/thành phố nơi Đoàn luật sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc nhằm bổ trợ cho các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Một luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập chỉ một tổ chức hành nghề luật sư và phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện mà Luật Luật sư đã quy định. Tổ chức nghề nghiệp luật sư hoạt động theo nguyên tắc kết hợp giữa sự quản lý nhà nước và tính tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư”. Đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư xuất phát từ bản chất, vị trí, vai trò của luật sư của trong xã hội. Nghề luật sư chú trọng đề cao vai trò của cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư. Bởi thế, tổ chức hành nghề luật sư có một số đặc điểm tiêu biểu như: Thứ nhất, tổ chức hành nghề luật sư tuân thủ pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam Thứ hai, tổ chức hành nghề luật sư có tính chất tự do, độc lập và tự chịu trách nhiệm Thứ ba, hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư mang tính dịch vụ và được nhận thù lao, lệ phí từ khách hàng Thứ tư, tổ chức hành nghề luật sư là một nghề không kiêm nhiệm Thứ năm, tổ chức hành nghề luật sư luôn gắn với sinh mệnh chính trị của mỗi con người 13 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý 1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, như trách nhiệm là việc chủ thể phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý được đề cập đến trong phần quy định của quy phạm pháp luật hay trách nhiệm là việc chủ thể phải thực hiện một mệnh lệnh cụ thể của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền. Hoặc trách nhiệm pháp lý là việc chủ thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa này khi họ vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Tựu chung lại, có thể hiểu, trách nhiệm pháp lý là một quan hệ pháp luật đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó, bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu các hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự. 1.1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã hội khác như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính trị…. Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước như bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng… Trách nhiệm pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu thể hiện 14 qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy định. Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Dựa vào tính chất của trách nhiệm pháp lý có thể chia thành một số loại sau: (i) Trách nhiệm hình sự: Là trách nhiệm của một người đã thực hiện một tội phạm, phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt vì việc phạm tội của họ. Hình phạt này do Tòa án quyết định trên cơ sở của Bộ luật Hình sự, nó thể hiện sự lên án, sự trừng phạt của Nhà nước đối với người phạm tội và là một trong những biện pháp để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Đây là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất. (ii) Trách nhiệm hành chính: Là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính, phải gánh chịu một biện pháp cưỡng chế hành chính tùy theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp cưỡng chế này do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết định trên cơ sở pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. (iii) Trách nhiệm dân sự: Là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Biện pháp cưỡng chế phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi thường thiệt hại. 1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật 1.2.1.1. Khái niệm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng 15 dịch vụ”. Quy định trên cho thấy, hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng thông dụng, đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội. Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có một quy định nào nêu rõ khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và hợp đồng tư vấn pháp luật nói riêng là gì. Tuy nhiên, trong một số đề tài nghiên cứu khoa học, một số tác giả đã nêu quan điểm của mình về khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý như sau: Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Mai Anh (2015): “Hợp đồng tư vấn pháp lý là sự thỏa thuận của bên thuê dịch vụ với bên cung cấp dịch vụ về việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, theo đó bên cung ứng dịch vụ sẽ thực hiện tư vấn pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ phải trả thù lao tư vấn cho bên cung ứng dịch vụ” [2, tr.26]. Cũng theo quan điểm của tác giả, “chủ thể bên cung ứng hợp đồng tư vấn pháp luật gồm có: luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, trung tâm tư vấn pháp luật” [2, tr.35]. Với cách trình bày như vậy, thì tác giả mới chỉ tiếp cận về một phần của dịch vụ tư vấn pháp luật đó là “tư vấn pháp lý”. Theo quan điểm của tác giả Vũ Quỳnh Anh (2006) thì “hợp đồng dịch vụ pháp lý là một loại hợp đồng thuộc ngành dịch vụ nghề nghiệp, theo đó, bên luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên thuê luật sư, còn bên thuê luật sư phải trả tiền thù lao theo thỏa thuận” [1, tr.18]. Quan niệm của tác giả phù hợp với quy định của Luật Luật sư, theo đó, luật sư là chủ thể duy nhất có thể cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội. Theo quan điểm của tác giả Trần Bích Hạnh (2015), thì “kinh doanh dịch vụ pháp lý rộng hơn hành nghề luật sư và có thể hiểu dịch vụ thương mại pháp lý là loại hình dịch vụ có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà bên cung ứng dịch vụ thực hiện cho khách hàng một hoạt động cụ thể có liên quan đến 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan