Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Truy tố bị can từ thực tiễn tỉnh bình định....

Tài liệu Truy tố bị can từ thực tiễn tỉnh bình định.

.PDF
97
126
133

Mô tả:

TRẦN THỊ ÁNH NGÂN VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ ÁNH NGÂN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRUY TỐ BỊ CAN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC KHÓA: IX ĐỢT 1 NĂM 2018 Hồ Chí Minh, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ ÁNH NGÂN TRUY TỐ BỊ CAN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380104 PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN Hồ Chí Minh, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của Thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn Các số liệu trong luận văn là trung thực, việc sử dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học khác và quan điểm của các tác giả khác trong luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng hoặc trích dẫn theo đúng quy định. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học – Xã hội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học – Xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Trần Thị Ánh Ngân MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài .........................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài..............................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................4 3.1. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................5 4.1. Đối tượng nghiên cứu ..........................................................................................5 4.2. Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................................5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.....................................................................................5 7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................5 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUY TỐ BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền công tố và thực hành quyền công tố trong mô hình tố tụng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng ..........................................................7 1.1.1. Khái niệm ..........................................................................................................7 1.1.2. Đối tượng, nội dung, phạm vi của thực hành quyền công tố ..........................11 1.2. Khái niệm và đặc điểm của truy tố bị can trong tố tụng hình sự .......................13 1.2.1. Khái niệm của truy tố bị can ...........................................................................13 1.2.2. Các nguyên tắc cần tuân thủ trong việc truy tố bị can ...................................16 1.3. Vai trò của Viện kiểm sát trong truy tố bị can .................................................20 1.3.1. Bản cáo trạng – căn cứ để truy tố bị can ........................................................20 1.3.2. Chuyển hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án....................................................24 1.3.3. Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ, phục hồi vụ án hình sự .......................................................................................................24 1.3.4. Kiểm sát việc truy tố ........................................................................................25 Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................27 CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .........................28 VỀ TRUY TỐ BỊ CAN ...........................................................................................28 2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật tố tụng hình sự về truy tố bị can ........................................................................................................28 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ...........................................................................................................................28 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay ......................................................................31 2.2. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về truy tố bị can ........................33 2.2.1. Quy định về truy tố bị can bằng bản cáo trạng ..............................................33 2.2.2. Quy định về chuyển cáo trạng cho Tòa án......................................................37 2.2.3. Quy định về kiểm sát việc truy tố ....................................................................37 2.3. Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ, phục hồi vụ án hình sự .....................................................................................................39 2.3.1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung .........................................................................39 2.3.2. Tạm đình chỉ, đình chỉ, phục hồi vụ án hình sự ..............................................44 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................52 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG TRUY TỐ BỊ CAN TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..............................................................53 3.1. Tình hình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự ở Bình Định................53 3.1.1. Tình hình khởi tố, điều tra...............................................................................53 3.1.2. Tình hình truy tố ..............................................................................................53 3.1.3. Kết quả xét xử sơ thẩm ....................................................................................54 3.2. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 2 cấp ở Bình Định trong việc truy tố bị can .............................................................................................................................54 3.2.1. Kết quả ............................................................................................................54 3.2.2. Hạn chế và nguyên nhân .................................................................................56 3.2.2.1. Hạn chế về xây dựng pháp luật ....................................................................56 3.2.2.2. Hạn chế về áp dụng pháp luật ......................................................................61 3.2.2.3. Nguyên nhân ................................................................................................71 3.3. Một số kiến nghị từ thực tiễn truy tố bị can ở tỉnh Bình Định .......................73 3.3.1. Hoàn thiện quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố ...................................................................................................................................73 3.3.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố ........................................................................................................74 3.3.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về thời hạn truy tố .........................................76 3.3.4. Nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên .....76 3.3.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ........78 Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................80 KẾT LUẬN ..............................................................................................................81 Phụ lục 1 ...................................................................................................................89 Phụ lục 2 ...................................................................................................................89 Phụ lục 3 ...................................................................................................................90 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS BLTTHS TNHS : Bộ luật hình sự : Bộ luật tố tụng hình sự : Trách nhiệm hình sự TTHS VKSND : Tố tụng hình sự : Viện kiểm sát nhân dân LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, VKSND góp phần không nhỏ trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHS. Việc truy tố bị can đúng người, đúng tội và đúng pháp luật đã góp phần làm cho hoạt động TTHS được chính xác, khách quan, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý công minh và kịp thời. Việc truy tố bị can có căn cứ và đúng pháp luật đã tạo tiền đề, cơ sở pháp lý để Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Trong chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát, quyền quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử là quyền đặc trưng và quan trọng nhất. Đây chính là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHS của VKSND luôn được đề cao và quan tâm. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ”. Với chủ trương trên, Viện kiểm sát các cấp đã tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra, nâng cao chất lượng truy tố các vụ án hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Vì thế, số vụ án kết thúc điều tra chuyển Viện kiểm sát truy tố và số vụ án truy tố chuyển Tòa án xét xử chiếm tỷ lệ cao, hạn chế thấp nhất số lượng án bị đình chỉ. Tuy nhiên vì nhiều lý do khách quan và chủ quan mà hoạt động truy tố của Viện kiểm sát vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Việc xây dựng cáo trạng của Viện kiểm sát còn thiếu căn cứ truy tố, nhiều cáo trạng còn sơ xài, sao chép bản kết luận điều tra. Bên cạnh đó, tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa 1 các cơ quan tiến hành tố tụng còn để xảy ra do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc quá trình điều tra, truy tố chưa đầy đủ, chưa làm rõ được sự thật khách quan của vụ án hay còn bỏ lọt tội phạm. Mặt khác, tình trạng lạm dụng việc trả hồ sơ điều tra bổ sung để kéo dài thời hạn giải quyết vụ án vẫn còn diễn ra. Điều này một phần xuất phát từ quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung chưa rõ ràng. Thời hạn điều tra bổ sung đối với vụ án do Viện kiểm sát trả cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung 02 tháng là chưa phù hợp với những vụ án có tính chất rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, BLTTHS không có sự phân định rõ ràng giữa căn cứ tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan do trình độ, năng lực của đội ngũ tiến hành tố tụng mà cụ thể là Điều tra viên, Kiểm sát viên thì những vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật đã gây khó khăn cho quá trình truy tố bị can. Từ đó, dẫn đến tình trạng truy tố không đúng người, đúng tội và không đúng pháp luật. Trong những năm gần đây, tình trạng truy tố thiếu căn cứ có giảm nhưng không nhiều, Viện kiểm sát truy tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội hoặc Tòa án xét xử khác với tội danh, điều, khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố vẫn còn xảy ra. Để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp đòi hỏi phải tìm ra hướng khắc phục những hạn chế trong thực tiễn việc truy tố bị can, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm tại địa phương. Học viên đã chọn đề tài: “Truy tố bị can từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn Thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua nghiên cứu và tìm hiểu tác giả nhận thấy đã có công trình khoa học đề cập đến các khía cạnh khác nhau của hoạt động truy tố bị can của Viện kiểm sát như: - Cuốn sách “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể, Nxb Tư pháp năm 2008 đề cập đến các quan điểm về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trong đó đi sâu nghiên cứu các quan điểm về quyền công tố, thực hành 2 quyền công tố, hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Nguyễn Duy Dũng (2009), Cáo trạng – Những vấn đề pháp lý và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn này nghiên cứu về lý luận và thực tiễn hoạt động xây dựng cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự. Từ đó đề xuất, nghiên cứu các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cáo trạng của Viện kiểm sát. - Đỗ Thị Kim Ngân (2011), Viện kiểm sát - Cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn truy tố, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố cũng như thực tiễn áp dụng những quy định đó. - Lê Tấn Cường (2011), Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu về quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát. - Lương Thúy Hà (2013), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta, Luận văn Thạc sĩ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Luận văn nghiên cứu về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát cấp huyện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. - Bài viết: “Hoàn thiện thủ tục truy tố trong bộ luật tố tụng hình sự”, của tác giả Đỗ Văn Đương (Tạp chí kiểm sát, số 8/2012). - Võ Ngọc Thạch (2013), Các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả luận văn nghiên cứu về thẩm quyền ban hành các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố. 3 - Nguyễn Hải Phong (Chủ biên) và các cộng sự (2014), Một số vấn đề về trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. - Nguyễn Công Cường (2016), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Luận văn nghiên cứu về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Bài viết: “Bàn về kỹ năng lập cáo trạng” của tác giả Lê Văn Đông (Tạp chí kiểm sát, số 10/1998). - Bài viết: “Cần nhận thức thống nhất về cáo trạng và luận tội” của tác giả Nguyễn Hữu Hậu (Tạp chí kiểm sát, số 10/1998). Các công trình nêu trên do phạm vi nghiên cứu bị giới hạn, chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về lý luận và tình hình thực tiễn của việc truy tố bị can trên một địa bàn cụ thể như tỉnh Bình Định. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố, về truy tố bị can, thực tiễn áp dụng các quy định về truy tố bị can tại tỉnh Bình Định, luận văn đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng hoạt động truy tố của VKSND. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tác giả đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nêu và phân tích khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi của thực hành quyền công tố trong TTHS. - Làm rõ những vấn đề lý luận về việc truy tố bị can, những nguyên tắc cần được tuân thủ trong việc truy tố bị can cũng như những hoạt động của Viện kiểm sát trong việc truy tố bị can. - Phân tích quy định của BLTTHS về việc truy tố bị can. 4 - Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật về truy tố bị can tại tỉnh Bình Định cũng như những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật TTHS về truy tố bị can. - Nghiên cứu đưa ra các kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng truy tố bị can. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là việc truy tố bị can trong TTHS và thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật về truy tố bị can trong giai đoạn truy tố. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: hoạt động truy tố của VKSND. - Không gian nghiên cứu địa bàn tỉnh Bình Định. - Phạm vi thời gian trong 05 năm (2015-2019). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở phương pháp luận thực hiện nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là: phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh và thống kê. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa mặt lý luận: luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận của việc truy tố bị can từ thực tiễn tỉnh Bình Định, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng truy tố bị can. - Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu sẽ là đề tài tham khảo cho các Kiểm sát viên trong hoạt động truy tố bị can. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo Luật. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về truy tố bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam. 5 Chương 2: Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về truy tố bị can. Chương 3: Thực tiễn hoạt động truy tố bị can tại tỉnh Bình Định và một số kiến nghị. Bên cạnh đó, luận văn còn có phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. 6 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUY TỐ BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền công tố và thực hành quyền công tố trong mô hình tố tụng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng 1.1.1. Khái niệm Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố. Trong khoa học pháp lý, còn có những quan điểm khác nhau về vấn đề này. Theo nghĩa hẹp, nội dung của quyền công tố chỉ được thể hiện trong phạm vi từ sau khi kết thúc giai đoạn điều tra, vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố người đã thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án và chấm dứt sau khi Tòa án xét xử, tuyên một bản án có hiệu lực pháp luật. Theo nghĩa rộng, nội dung của quyền công tố được thể hiện trong phạm vi từ khi bắt đầu việc điều tra vụ án hình sự, sau đó vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố người đã thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án và chấm dứt khi Tòa án xét xử, tuyên một bản án có hiệu lực pháp luật đối với người đó. Tuy nhiên, để hiểu khái niệm về quyền công tố cần phải xuất phát từ những cơ sở có tính nguyên tắc sau đây: Một là, quyền công tố là quyền lực của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và thay đổi theo bản chất Nhà nước. Quyền công tố là một quyền lực công, được bắt nguồn từ nhu cầu phải duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và những lợi ích chung có liên quan mà bất kỳ Nhà nước nào cũng đều cần phải can thiệp duy trì vì đó là môi trường tồn tại của Nhà nước, là trách nhiệm xã hội của Nhà nước chứ không phải trách nhiệm cá nhân hay một nhóm người. Hai là, quyền công tố là quyền lực công, nghĩa là khi có vụ việc xâm phạm lợi ích chung thì phải được phát hiện và đưa ra xử lý một cách công khai bằng con đường Tòa án. Đây là điểm chung cơ bản giữa các quan điểm khác nhau về quyền công tố - quyền đưa vụ án ra Tòa và “buộc tội” người phạm pháp tại Tòa án. Ba là, theo bản chất quyền công tố là quyền yêu cầu trừng trị công khai những hành vi phạm pháp liên quan đến lợi ích chung, do đó quyền công tố chỉ có thể do 7 một cơ quan thực hiện và được gọi là cơ quan công tố (ở nước ta thực hiện chức năng này là Viện kiểm sát). Đây là một trong những yếu tố cơ bản để phân biệt quyền công tố với các quyền tố tụng khác của cơ quan công tố, của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc với quyền khởi kiện, quyền yêu cầu khởi tố của đương sự. Như vậy, quyền công tố có thể được hiểu khái quát như sau “Quyền công tố là quyền của cơ quan Nhà nước, được Nhà nước ủy quyền, thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó”1. Về khái niệm “thực hành” theo nghĩa tiếng Việt được hiểu là “làm để lý thuyết áp dụng vào thực tế”. Như vậy, thực hành quyền công tố thực chất là hoạt động đưa những quy định của pháp luật về quyền công tố thuộc chức năng của Viện kiểm sát vào thực tế, nhằm truy cứu TNHS người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Ở nước ta, chức năng thực hành quyền công tố hay còn gọi là chức năng buộc tội thuộc về Viện kiểm sát. Theo Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Quy định này là bước phát triển lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trên cơ sở tổng kết thực tiễn hoạt động gần 60 năm qua của VKSND nước ta. Từ đó, có thể đồng tình với quan điểm cho rằng: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử”2. Xuất phát từ khái niệm trên nên thực hành quyền công tố có những đặc điểm: Một là, khi thực hiện hoạt động này, Viện kiểm sát sử dụng quyền năng pháp lý để phát hiện tội phạm và người phạm tội, thực hiện việc truy cứu TNHS người Trần Văn Độ (2001), Một số vấn đề về quyền công tố, Tạp chí Luật học, số 03, tr.2. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, tr.57. 1 2 8 thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát thực hiện các quyền năng pháp lý đã được luật quy định nhằm đưa bị can ra trước Tòa án để xét xử hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án, cụ thể như việc phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật, không có căn cứ của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc tự mình ban hành các quyết định tố tụng. Những quyết định của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố có ý nghĩa quyết định đến vụ án và người thực hiện hành vi phạm tội. Hai là, thời điểm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát bắt đầu ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Khi nhận thấy hành vi đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm và xác định được người thực hiện hành vi này, Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên, những quyết định này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn thì mới phát sinh hiệu lực pháp luật hoặc có thể bị hủy bỏ nếu không có căn cứ và trái pháp luật. Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm… Các quyết định này đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp điều tra nhằm thu thập các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội. Từ những kết quả điều tra đó, Viện kiểm sát sẽ xem xét, đánh giá và quyết định những tài liệu, chứng cứ nào làm cơ sở cho việc truy cứu TNHS người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, tất cả những hoạt động như trên của Cơ quan điều tra nhằm mục đích cuối cùng là phục vụ cho việc buộc tội của Viện kiểm sát. Ngoài ra, khi có những căn cứ về việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; còn thiếu chứng cứ chứng minh tội phạm; có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác; có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can, Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Viện kiểm sát còn có quyền quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hay phục hồi vụ án nếu có những căn cứ theo quy định của pháp luật. 9 Ba là, Viện kiểm sát ngoài chức năng thực hành quyền công tố còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Đây chính là hoạt động nhằm kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong TTHS, từ đó phát hiện, phòng ngừa, khắc phục vi phạm, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố là việc tuân theo pháp luật của cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác có hoạt động phát sinh trong giai đoạn truy tố. Để kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động kiểm sát, kịp thời phát hiện các quy phạm pháp luật và yêu cầu, kiến nghị các chủ thể chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật bị vi phạm. Như vậy, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hai chức năng khác nhau nhưng do một chủ thể tiến hành, do đó có mối liên hệ mật thiết nhau. Thực hành quyền công tố giúp cho hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát dễ dàng phát hiện những vi phạm nhằm khắc phục và phòng ngừa, đảm bảo hoạt động tố tụng đúng pháp luật. Còn hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật giúp thực hành quyền công tố về mặt định hướng, từ đó giúp hoạt động thực hành quyền công tố được chính xác, có căn cứ và hiệu quả. Ngoài ra, thực hành quyền công tố là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, được thực hiện một cách độc lập, chỉ Viện kiểm sát mới thực hiện được quyền này. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Viện kiểm sát nói riêng phải thực hiện việc kiểm tra, giám sát với nhau. Trong quá trình giám sát nếu phát hiện những vi phạm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nói trên có quyền kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện việc xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó. Tóm lại, khác với giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử, khi thực hành quyền công tố ở giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát gần như “một mình một sân”. Với tính chất là một giai đoạn độc lập trong TTHS, Viện kiểm sát thực hiện quyền năng tố tụng đặc trưng nhất của mình thông qua các hoạt động thực hành quyền công tố. 10 Khi đó, Viện kiểm sát phải “tự mình” kiểm tra lại kết quả của toàn bộ các hoạt động tố tụng, quyết định tố tụng mà Cơ quan điều tra có thẩm quyền đã tiến hành và đưa ra các quyết định chính xác, đầy đủ, khách quan nhằm truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử hoặc đưa ra các quyết định khác để giải quyết vụ án. 1.1.2. Đối tượng, nội dung, phạm vi của thực hành quyền công tố Đối tượng của thực hành quyền công tố là tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Bởi thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý của mình nhằm truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình giải quyết vụ án, Viện kiểm sát tập trung làm rõ có hay không có hành vi phạm tội, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị can, tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, động cơ, mục đích phạm tội... nhằm chứng minh hành vi phạm tội để truy tố người phạm tội ra trước Tòa án xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa. Nội dung thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất cả quyền năng tố tụng trong giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra vụ án hình sự, truy tố bị can và thực hiện việc buộc tội tại các phiên tòa hình sự. Đối với mô hình TTHS xét hỏi (mô hình tố tụng thẩm vấn) kết hợp với tranh tụng như Việt Nam, hoạt động thực hành quyền công tố bao gồm: Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do BLTTHS quy định; Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của BLTTHS; Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. 11 Trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, các hoạt động phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân hay trong trường hợp cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm. Đối với những nguồn tin phức tạp, cần thời gian giải quyết thì Viện kiểm sát có thể ra quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định của BLTTHS. Ngoài ra, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn này, nếu phát hiện thấy các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra hay cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ các quyết định đó. Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp điều tra như lấy lời khai, nhận dạng, đối chất, trưng cầu giám định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam để thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc truy tố của Viện kiểm sát. Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát trực tiếp quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hay phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn mà Cơ quan điều tra đã áp dụng. Kết thúc điều tra, nếu đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, Viện kiểm sát ban hành cáo trạng truy tố người thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và ngược lại khi không chứng minh được tội phạm và người phạm tội thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án. Có thể thấy, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố là quyết định việc truy tố bị can. Khi quyết định việc truy tố, Viện kiểm sát phải cân nhắc nhiều mặt, đảm bảo truy tố chính xác, nhanh chóng, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên thực hiện việc buộc tội người phạm tội như công bố cáo trạng, tham gia xét hỏi, luận tội đối với bị cáo, 12 tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên kiểm sát bản án có đúng người, đúng tội và đúng pháp luật không. Nếu Tòa án tuyên bản án có oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm thì Viện kiểm sát kháng nghị bản án của Tòa án. Phạm vi thực hành quyền công tố được bắt đầu từ khi có nguồn tin báo, tố giác về tội phạm và kết thúc khi quá trình TTHS đối với vụ án đó chấm dứt. Một vụ án hình sự được kết thúc bằng bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng cũng có thể vụ án kết thúc sớm hơn, bởi không phải mọi vụ án được điều tra, truy tố đều được đưa ra xét xử. Khi có căn cứ cho rằng tội phạm không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc hành vi không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì vụ án sẽ được đình chỉ. Lúc này, quyền công tố sẽ kết thúc và khi quyền công tố kết thúc thì hoạt động thực hành quyền công tố cũng chấm dứt. 1.2. Khái niệm và đặc điểm của truy tố bị can trong tố tụng hình sự 1.2.1. Khái niệm của truy tố bị can Truy tố bị can là hoạt động thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát sau khi kết thúc giai đoạn điều tra, với nội dung là đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Theo đó, khi nhận hồ sơ vụ án cùng bản kết luân điều tra từ Cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát sẽ kiểm tra, đánh giá những tài liệu, chứng cứ được Cơ quan điều tra thu thập có hợp pháp và đầy đủ hay không. Đồng thời, trong giai đoạn này, Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết nhằm đánh giá khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trước đó. Trường hợp những tài liệu, chứng cứ đó được thu thập đầy đủ và đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố trong trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trên thế giới hiện nay có hai nguyên tắc truy tố thường được vận dụng, đó là nguyên tắc truy tố bắt buộc và nguyên tắc tùy nghi truy tố. Nguyên tắc truy tố bắt buộc được áp dụng ở một số nước theo hệ thống luật lục địa. Theo đó khi có đầy đủ bằng chứng về hành vi phạm tội, cơ quan công tố bắt buộc phải truy tố người đó ra 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan