Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Truyện đồng thoại của tô hoài và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học...

Tài liệu Truyện đồng thoại của tô hoài và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học

.PDF
110
6032
68

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN THỊ THOA TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA TÔ HOÀI VÀ Ý NGHĨA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI HỌC SINH TIỂU HỌC Chuyên ngành: Giáo dục học (bậc tiểu học) Mã số : 60 14 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Công Hảo HÀ NỘI, 2014 1 LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Có được kết quả này, trước tiên tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Công Hảo, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Sau đại học, các thầy cô giáo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, trang bị cho tôi những kiến thức chuyên ngành cần thiết và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và giáo viên khối 4 trường Tiểu học Nguyễn Trãi - Quận Thanh Xuân đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã quan tâm và giúp đỡ tôi hoàn thiện công trình nhỏ này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 2 LỜI CAM ĐOAN Đề tài “Truyện đồng thoại của Tô Hoài và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học’’ được chúng tôi nghiên cứu và hoàn thành trên cơ sở kế thừa và phát huy những công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả khác cộng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân. Tôi xin cam đoan kết quả của đề tài này không trùng với bất cứ một công trình nghiên cứu nào khác đã công bố. Tác giả Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 3 MỤC LỤC Trang Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt.................................................. 4 MỞ ĐẦU............................................................................................... 5 NỘI DUNG........................................................................................... 13 Chƣơng 1: Truyện đồng thoại và truyện đồng thoại của Tô Hoài 13 viết cho thiếu nhi 1.1. Truyện đồng thoại trong văn học thiếu nhi …………………….. 13 1.2. Truyện đồng thoại của Tô Hoài ……………………………….. 21 Chƣơng 2: Ý nghĩa giáo dục của truyện đồng thoại của Tô Hoài 45 đối với học sinh tiểu học 2.1. Ý nghĩa giáo dục của truyện đồng thoại của Tô Hoài…………… 45 2.2. Vai trò của những bài học đạo đức trong những tác phẩm đồng thoại đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của HSTH…….. 67 Chƣơng 3: Việc dạy học truyện đồng thoại của Tô Hoài trong 72 chƣơng trình tiểu học 3.1. Vị trí của tác phẩm đồng thoại và truyện đồng thoại của Tô Hoài 72 trong chương trình tiểu học 3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm ………………………………………. 74 KẾT LUẬN…………………………………………………………….. 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………. 87 PHỤ LỤC ……………………………………………………………… 90 Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 4 Phụ lục viết tắt trong Luận văn 1. Đối chứng: ĐC 2. Học sinh: HS 3. Học sinh tiểu học: HSTH 4. Nhà xuất bản: NXB 5. Thực nghiệm: TN 6. Văn học thiếu nhi: VHTN Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học thiếu nhi là những sáng tác phù hợp với tâm lí lứa tuổi của trẻ em, được “nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ” và xuất phát từ cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, tự nhiên “như trẻ thơ”. Mỗi lần sáng tác cho các em là một lần người viết được sống lại tuổi thơ của mình và hòa đồng tâm hồn với trẻ thơ. Thế giới xung quanh trẻ luôn vui tươi, trong trẻo và đầy nhân ái; niềm vui như là một lẽ sống tự nhiên - từ cách nhìn, cách nghe, cách cảm, cách nghĩ, trí tưởng tượng… đều mang những niềm vui vô cùng đặc biệt, phù hợp với tâm hồn ngây thơ của trẻ. Văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ em cả về đạo đức, trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ. Không những thế, các tác phẩm văn học thiếu nhi phù hợp với thị hiếu, tâm lí các em và hướng dẫn tới cái đẹp chân - thiện - mĩ. Những hình tượng nghệ thuật, giàu giá trị nhân văn kết hợp vần điệu, nhạc điệu do các nhà văn dày công sáng tạo trong tác phẩm sẽ gây được những ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn trẻ thơ, tác động nhẹ nhàng đến nhận thức, tư tưởng tình cảm ở trẻ. Ngoài ra, văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nó như một nguời bạn đồng hành cùng trẻ thơ, cung cấp cho các em một vốn từ ngữ đa dạng, đặc biệt là những từ ngữ nghệ thuật. Khi trẻ thường xuyên tiếp xúc với các tác phẩm VHTN, vốn từ ngữ của các em phong phú và sống động hơn. Các em tự hình thành cho mình khả năng diễn đạt một vấn đề một cách mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm bởi đã được học cách diễn đạt sinh động ấy trong tác phẩm. Những tác phẩm văn học thiếu nhi giàu chất thơ, hài hước, dí dỏm, ngắn gọn, trong sáng, dễ hiểu, giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu sẽ có sức lôi cuốn đặc biệt và có vai trò vô cùng quan Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 6 trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh (HS), đặc biệt là học sinh tiểu học (HSTH). Một trong những tác giả nổi tiếng trong làng văn học viết cho thiếu nhi là Tô Hoài. Ông là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã nhận xét: “So với các cây bút đương thời, Tô Hoài có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất, sống đến đâu viết đến đấy. Việc viết lách đối với ông là một thứ lao động hàng ngày”. Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”. Quả thật, Tô Hoài đã miệt mài sáng tác 70 năm nay và đã cho ra đời gần 200 đầu sách. Ông thành công ở nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, truyện đồng thoại, tiểu thuyết, kịch, hồi kí, chân dung văn học, đặc biệt là truyện đồng thoại. Trong văn nghiệp của Tô Hoài, truyện đồng thoại là một mảng sáng tác đặc sắc, không chỉ trẻ em mà người lớn cũng đem lòng yêu thích. Với tài năng thiên phú, Tô Hoài đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm sinh động, hấp dẫn như Dế Mèn phiêu lưu ký, Võ sĩ Bọ Ngựa, Chim chích lạc rừng... Những tác phẩm như thế đã góp phần quan trọng vào việc định vị cái đẹp vào tâm hồn tuổi thơ. Truyện đồng thoại của Tô Hoài không chỉ hấp dẫn đối với thiếu nhi trong nước mà còn hấp dẫn với cả thiếu nhi nước ngoài. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Trong nhà trường, các tác phẩm của ông cũng được trích dẫn để giảng dạy; tất cả đều mang lại cho tuổi thơ một thế giới sinh động, trong sáng, cuốn hút. Trong trường tiểu học cũng vậy, các tác phẩm của Tô Hoài được đưa vào giảng dạy luôn chứa đựng những bài học đạo đức sâu sắc, có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Chọn nghiên cứu đề tài “Truyện đồng thoại của Tô Hoài và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học”, chúng tôi mong muốn có cái nhìn đầy đủ, Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 7 trọn vẹn về những ý nghĩa giáo dục trong truyện đồng thoại của Tô Hoài đối với lứa tuổi học sinh nói chung và học sinh tiểu học nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề Từ những năm đầu thế kỷ XX, truyện đồng thoại được nhiều tác giả nghiên cứu và có những đánh giá sâu sắc. Có nhiều công trình nghiên cứu về đặc trưng, chức năng của thể loại truyện đồng thoại như: Tìm hiểu đặc điểm của đồng thoại của Vân Thanh, Lại nói về truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Võ Quảng, Về sức tưởng tượng của đồng thoại của Nguyễn Kiên và Truyện đồng thoại viết cho lứa tuổi nhi đồng của Định Hải. Trong các công trình trên các tác giả trên đều khẳng định: Truyện đồng thoại phản ánh cuộc sống không theo quy luật tả thực mà theo quy luật của tưởng tượng. Theo họ, nhờ tưởng tượng mà cuộc sống trong truyện đồng thoại hiện lên rõ hơn, lộng lẫy hơn, có sức khái quát cao hơn. Nhờ đó, thể loại này dễ dàng bắt nhịp với tuổi thơ, tham gia rất sớm vào quá trình hình thành nhân cách của mỗi con người. Khi nói về đặc trưng của truyện đồng thoại, các tác giả trên cũng bàn đến vấn đề nhân vật. Theo họ, hệ thống nhân vật của truyện đồng thoại rất đa dạng, nhưng trọng tâm vẫn là loài vật, và chúng được miêu tả theo một số nguyên tắc nhất định: nhân cách hóa, cách điệu hóa...Nhân vật của đồng thoại không chỉ là người mà còn đủ cả các loài vật, loài có xương sống hoặc không có xương sống, biết nhảy, biết bay, biết lội (...), là các loài cây cỏ hoa quả mọc ở bất cứ khí hậu nào. Cả từ cây kim sợi chỉ cho đến đoàn tàu, chiếc cầu sắt, đều có thể biến thành nhân vật của đồng thoại. Ngoài ra, bàn về vai trò, chức năng giáo dục của truyện đồng thoại, còn có các tác giả Ngô Quân Miện, Lã Thị Bắc Lý và Nguyễn Ánh Tuyết. Tác giả Ngô Quân Miện nhận thấy: “Việc đưa những tình cảm, tư tưởng cao đẹp vào Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 8 tâm hồn các em nhi đồng qua con đường đồng thoại là con đường có hiệu quả hơn hết”. Nhà tâm lí học Nguyễn Ánh Tuyết trong Truyện đồng thoại với trẻ thơ cũng có quan điểm tương tự khi viết rằng: Truyện đồng thoại ngắn gọn, đậm chất mơ tưởng, có khả năng khơi dậy ở các em những cảm xúc thú vị, bất ngờ; đồng thời nó “khiến cho một đứa trẻ từ một thính giả thụ động biến thành một người tham gia tích cực vào các sự kiện của các nhân vật vốn chỉ là chim muông, cây cỏ hay những vật vô tri, vô giác mà trở thành người bạn thân thiết với chúng” [42, tr.253]. Bài viết Truyện đồng thoại với giáo dục mẫu giáo của Lã Thị Bắc Lý tiếp cận vấn đề theo hướng khác, đó là đi vào phân tích những tác động cụ thể như việc bồi dưỡng lòng nhân ái, cảm xúc thẩm mĩ... Trên cơ sở đó, tác giả đã chứng minh khả năng to lớn của truyện đồng thoại trong việc thực hiện chức năng giáo dục, một chức năng vốn rất được coi trọng trong văn học thiếu nhi. Nhân năm Quốc tế thiếu nhi (1980), một cuộc hội thảo toàn quốc về văn học thiếu nhi đã được Hội nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội (ngày 22 - 23/8/1981), thu hút sự tham gia đông đảo các nhà văn và nhà nghiên cứu. Tại Hội thảo này, nhà văn Nguyên Ngọc, thay mặt Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam trình bày bản báo cáo đề dẫn 35 năm văn học thiếu nhi. Báo cáo khẳng định: cùng với nhiều thể loại văn xuôi khác, truyện đồng thoại đã đạt được bước tiến mạnh mẽ, nhiều tác phẩm “có sức sống, sức tỏa sáng lâu dài”. Cũng tại Hội thảo này, nhà văn Ngô Quân Miện có bài viết riêng về truyện đồng thoại với nhan đề Đồng thoại với việc bồi dưỡng tâm hồn các em. Trong phần đầu bài viết, tác giả khẳng định, truyện đồng thoại là loại truyện thích hợp nhất với các em nhi đồng, được nhiều người quan tâm khai thác. Nhờ vậy, theo thời gian, “cái vốn đồng thoại của chúng ta ngày một thêm dày và đa dạng hơn trước”. Trong Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi Việt Nam, Vân Thanh thừa nhận: “Kể từ Dế Mèn của Tô Hoài, dòng đồng Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 9 thoại luôn chảy trong văn học thiếu nhi Việt Nam”. Năm 2011, trong luận án Tiến sĩ của Lê Nhật Ký có tên Thể loại truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại, tác giả đã khổ công sưu tập và phân loại để có đối tượng khảo sát là 1054 đồng thoại của 275 tác giả. Luận án đã đưa đến cho người đọc một cái nhìn tổng quan sâu sắc về thể loại truyện đồng thoại nói chung, trong đó tác giả đã gọi Tô Hoài là “người đi tiên phong và tạo được đỉnh cao” trong truyện đồng thoại. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài đã được rất nhiều các nhà phê bình, nghiên cứu tìm hiểu; nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông có những nhận xét, ghi nhận sâu sắc, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, dạy – học các tác phẩm của ông. Trong cuốn Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007 được tái bản nhiều lần, do Phong Lê (giới thiệu) và Vân Thanh (tuyển chọn), Phong Lê cho rằng: “Đặc sắc của Tô Hoài trước năm 1945 là truyện ngắn, gồm truyện ngắn về loài vật và truyện ngắn về cảnh và người một vùng quê ven đô - quê ngoại và cũng là quê sinh - nơi tác giả đã sinh sống suối đời cho đến hôm nay” [30, tr.17]. Ngòi bút của Tô Hoài đã miêu tả sự thay đổi của cuộc sống xung quanh mình những năm trước năm 1945. Khi nghiên cứu về Tô Hoài, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cũng nhận xét: “Tô Hoài có một khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh, hóm hỉnh và tinh tế. Khả năng này giúp anh thành công khi miêu tả những hiện tượng bên ngoài, dễ trực tiếp quan sát và cảm thụ; cảnh vật thiên nhiên, sinh hoạt hằng ngày, phong tục lễ nghi, thế giới loài vật v.v..., nhưng khả năng này rõ ràng là không đủ khi nói về đời sống tâm lí bên trong, biện chứng tâm hồn, những quy lật bản chất xã hội. Mặt khác, giống như một số nhà văn hiện thực phê phán chuyển mình sang phương pháp hiện thực chủ nghĩa, Tô Hoài miêu tả khá thành công các quan hệ gia đình, làng xóm, bạn bè, trai gái...”. Đồng Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 10 quan điểm với Phan Cự Đệ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng cho rằng: “Nhà văn có khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa”. Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài khẳng định: “Tô Hoài có một năng lực phát hiện và nắm bắt nhanh chóng thế giới khách quan”. Về ngôn ngữ giọng điệu, Vân Thanh nhận định: “Ngôn ngữ Tô Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động” [41, tr.105]. Năm 2006, Mai Thị Nhung cho ra đời cuốn sách Phong cách nghệ thuật Tô Hoài và bài viết Đặc Điểm thế giới nhân vật Tô Hoài trên Tạp chí Văn học. Trong đó, tác giả cũng đã thu thập rất nhiều ý kiến về nghệ thuật viết văn Tô Hoài. Năm 2007, cuốn Truyện ngắn Việt Nam lịch sử - thi pháp - chân dung” do nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ chủ biên đã viết về quá trình ra đời, phát triến của truyện ngắn Việt Nam cùng với những gương mặt nhà văn tiêu biểu. Trong đó, Tô Hoài đựơc nhắc đến cùng với các tác giả tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao... Người viết đã nhấn mạnh một số đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài như “lối viết thông mình, hóm hỉnh, thậm chí tinh quái, một đôi nét tâm lí và triết lí đượm sắc thái buồn pha chút mùi vị chua chát kiểu Nam Cao”; “Những con vật trong tác phẩm Tô Hoài có nét gì đó giống người, quen thuộc với người. Tô Hoài bắt rất nhanh những nét đặc trưng trong tính cách của chúng.”; “Truyện ngắn Tô Hoài chịu nhiều ảnh hưởng của văn học dân gian. Nhưng lối dẫn truyện, kết cấu truyện, giọng điệu trần thuật cũng như các thủ pháp khắc hoạ tính cách nhân vật đã thuộc về truyện ngắn hiện đại”; “Trong một số truyện, cũng giống như Nam Cao trong Chí Phèo, Tô Hoài đã sử dụng ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu của người kể chuyện hoà lẫn với giọng điệu nhân vật. Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 11 Như vậy, trong các công trình, bài viết về sự nghiệp và sáng tác của Tô Hoài, truyện đồng thoại đã được đề cập đến. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có tính hệ thống về truyện đồng thoại, đặc biệt là ý nghĩa giáo dục của truyện với trẻ thơ. Chính vì thế, chúng tôi đã lựa chọn đề tài cho luận văn của mình là “Truyện đồng thoại của Tô Hoài và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học”. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Đặc điểm truyện đồng thoại của Tô Hoài và ý nghĩa giáo dục đạo đức sâu sắc đối với HSTH. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Các truyện đồng thoại của Tô Hoài và các đoạn trích có trong chương trình tiểu học. - Giới hạn phạm vi thực nghiệm: Việc thực nghiệm (TN) được thực hiện tại trường Tiểu học Nguyễn Trãi - Quận Thanh Xuân - Hà Nội. 4. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu những ý nghĩa giáo dục trong các truyện đồng thoại của Tô Hoài nhằm giúp HSTH yêu thích hơn các tác phẩm văn học thiếu nhi nói chung đồng thời thông qua đó bồi dưỡng tâm hồn, phát triển nhân cách cho các em. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm hiểu, nghiên cứu ý nghĩa giáo dục cho HSTH trong tác phẩm đồng thoại. - Hệ thống những giá trị đạo đức cho HSTH trong tác phẩm đồng thoại. Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 12 - Ảnh hưởng của những giá trị đạo đức trong tác phẩm với sự hình thành và phát triển nhân cách cho HSTH. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận hệ thống - Phương pháp khảo sát văn bản - Phương pháp so sánh - Phương pháp thực nghiệm Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thao tác khác như phân tích, thống kê, tổng hợp, hệ thống hoá, miêu tả, … 7. Dự kiến đóng góp mới Kết quả của luận văn có thể được sử dụng để làm tư liệu trong quá trình dạy – học Tiếng Việt ở tiểu học; trong quá trình giáo dục đạo đức cho HSTH. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai trong ba chương: Chƣơng 1: Truyện đồng thoại trong văn học thiếu nhi và truyện đồng thoại của Tô Hoài Chƣơng 2: Ý nghĩa giáo dục của truyện đồng thoại của Tô Hoài đối với học sinh tiểu học Chƣơng 3: Việc dạy học truyện đồng thoại của Tô Hoài trong chương trình tiểu học Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 13 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VÀ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA TÔ HOÀI VIẾT CHO THIẾU NHI 1.1. Truyện đồng thoại trong văn học thiếu nhi 1.1.1. Văn học thiếu nhi và vai trò của văn học thiếu nhi đối với việc phát triển nhân cách cho học sinh Văn học thiếu nhi ở Việt Nam vốn khởi đầu là một nền văn học truyền miệng. Từ ngàn xưa những câu chuyện cổ tích, những bài hát ru vẫn được truyền từ đời này sang đời khác trong sinh hoạt gia đình, làng xóm của người Việt Nam. Đó là những “dòng sữa ngôn ngữ” dịu ngọt đầu tiên nuôi dưỡng tâm hồn trẻ em nước Việt. Khi bước vào tuổi nhi đồng những bài hát đồng dao gắn liền với những trò chơi dân gian là những hình thức sinh hoạt cộng đồng của trẻ em tùy theo từng vùng miền mỗi nơi có một sắc thái riêng nhưng đều tạo nên những không gian sinh động giúp trẻ em phát triển thể lực và trí tuệ hồn nhiên trong sáng. Rất nhiều những bài hát ru, những bài đồng dao là những hạt ngọc quý của tiếng Việt được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Trải qua hàng trăm năm lịch sử, Phật giáo và Nho giáo đã tạo nên một nền tảng tâm linh thấm đượm trong ứng xử văn hóa ngoài xã hội và được gìn giữ trong nề nếp gia phong của các gia đình kết đọng thành lời văn trong những bài Gia huấn ca lưu truyền trong dân gian. Có thể nói rằng đến khi có sự xuất hiện chữ Quốc ngữ, văn học thành văn dành cho trẻ em của Việt Nam mới thật sự được khai sinh. Từ đầu thế kỷ Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 14 XX học giả Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch những truyện cổ tích cho trẻ em từ văn hóa phương Tây ra chữ quốc ngữ cho phố biến trên báo chí, nhà giáo Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã soạn các cuốn sách “Truyện cổ Nước Nam”, “Tục ngữ phong dao”; “Nhi Đồng Lạc Viên” rồi các sĩ phu của Đông Kinh Nghĩa Thục, của Hội truyền bá chữ quốc ngữ đã bước đầu phổ cập trong dân chúng Tủ sách Truyền bá với nhiều câu chuyện được viết dành cho trẻ em. Trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại dưới ảnh hưởng của tổ chức Văn hóa Cứu quốc tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài xuất hiện. Lần đầu tiên thế giới tưởng tượng của cỏ cây hoa lá và những con vật bé nhỏ như con giun, cái dế ở miền nhiệt đới đã tưng bừng hiện diện trong văn học. Hình ảnh chú Dế mèn rắn rỏi và mơ mộng đi du lịch khắp nơi để cổ động thế giới đại đồng “muôn loài cùng kết anh em” đã làm sáng lên tư tưởng nhân văn Việt Nam, ghi nhận một mốc son mở đầu cho dòng chảy Văn học thiếu nhi Việt Nam hòa vào dòng chảy Văn học thiếu nhi thế giới. Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến văn hóa của trẻ em, bản thân Người đã viết thư, làm thơ gửi thiếu niên nhi đồng, học sinh cả nước nhân dịp năm học mới và trong dịp Tết Trung thu. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp trên chiến khu Việt Bắc, các nhà văn tâm huyết với trẻ em như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng… đã cho ra đời một loại sách riêng cho thiếu nhi được mang tên “Kim Đồng”. Sau khi thủ đô Hà Nội được giải phóng, năm 1957, một nhà xuất bản dành riêng cho thiếu nhi đầu tiên được ra đời ở Việt Nam: Nhà xuất bản Kim Đồng. Từ ban đầu có vài ba nhà văn viết cho thiếu nhi, cùng với sự phát triển của sách Kim Đồng, hàng chục rồi hàng trăm tác giả viết cho thiếu nhi đã xuất hiện. Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 15 Nếu Tô Hoài là người khởi đầu dòng văn xuôi cho trẻ em thì có thể nói rằng Phạm Hổ với Chú bò tìm bạn (năm 1956) và Võ Quảng với Gà mái hoa (năm 1957) là những người khởi đầu dòng thơ cho trẻ em Việt Nam. Dòng thơ này đã được tiếp nối liên tục với những sáng tác của nhiều nhà thơ tạo nên những “đồng dao” mới cho trẻ em lứa tuổi nhỏ như Định Hải (Trái đất này là của chúng mình…), Xuân Quỳnh (Truyện cổ tích về loài người…). Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, giám đốc đầu tiên của NXB Kim Đồng lại là người mở đầu cho dòng sách lịch sử cho thiếu nhi với tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng, dòng sách này được tiếp nối với những tên tuổi Hà Ân, An Cương (Lê Văn Lan), Nguyễn Đức Hiền, Nghiêm Đa Văn,…Trong những năm kháng chiến gian khổ, phong trào thiếu nhi viết văn làm thơ đã nở rộ đóng góp thêm cho văn học thiếu nhi tiếng thơ xanh non của nhà thơ nhi đồng Trần Đăng Khoa, những trang văn dịu dàng tinh tế của Trần Hoài Dương, những trang sách dạt dào xúc cảm của đời sống học trò của Lê Phương Liên… Có thể nói rằng tất cả những sáng tác của các nhà văn những năm tháng ấy đều thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, ngợi ca những tấm gương anh hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trước năm 1975, tại các đô thị ở miền Nam Việt Nam do nhu cầu đọc sách của thanh thiếu nhi, có một số nhóm bút như Tuổi hoa, Tuổi Ngọc… đã tập hợp các nhà văn thích viết cho trẻ em, xuất bản được nhiều ấn phẩm được lưu truyền trong đời sống học sinh đô thị. Đặc biệt, trong mảng sách dành cho tuổi mới lớn (lứa tuổi từ 15 đến 17, 18 tuổi), nhiều tác giả đã có những trang văn đi sâu vào đời sống tình cảm riêng tư phù hợp với tâm sinh lý của người đọc trẻ. Có những tác giả sáng tác nhiều những tác phẩm mang tính giáo dục nhẹ nhàng cho thiếu nhi như nhà văn Võ Hồng. Sau khi đất nước thống nhất, riêng với Văn học thiếu nhi, các tác giả hai miền đất nước đã sớm có sự hòa hợp thân tình. Cùng với cuộc “Nam tiến” Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 16 của Nhà xuất bản Kim Đồng, sự ra đời của Nhà xuất bản Trẻ (có tiền thân là Nhà xuất bản Măng Non) đã tạo điều kiện cho cả một vùng văn học phía Nam bừng dậy sức sống mới. Nhiều tác giả vốn viết từ trước năm 1975 như Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Kim Hài, Đoàn Thạch Biền, Nguyễn Thái Hải… đã tiếp tục sáng tác và cộng tác với Nhà xuất bản Kim Đồng, Nhà xuất bản Trẻ... Nhiều tác giả trẻ xuất hiện như Nguyễn Nhật Ánh, Lý Lan, Nguyên Hương, Lưu Thị Lương… Nhiều tác giả từ miền Bắc vào Nam đã có những đóng góp làm nên diện mạo mới cho văn học thiếu nhi như Trần Quốc Toàn, Cao Xuân Sơn, Trần Đức Tiến, Đặng Hấn… Phong trào sáng tác văn học cho thiếu nhi đã tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những thập kỷ 70, 80, xuất hiện thêm những đóng góp mới của các tác giả như Thanh Quế, Phùng Ngọc Hùng, Nguyễn Hoàng Sơn, Dương Thuấn, Vương Trọng... Những nhà văn thường viết cho người lớn như Phùng Quán, Duy Khán, Sơn Tùng, Hồ Phương, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu… cũng đã tiếp nối những nhà văn lớn như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Huy Cận… đã chắt lọc những cảm xúc tâm huyết dành cho thiếu nhi những sáng tác trong sáng để đời. Không ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của văn học thiếu nhi đối với việc giáo dục đạo đức cho trẻ, đặc biệt là học sinh tiểu học – lứa tuổi bắt đầu hình thành nhân cách. Đến với các tác phẩm văn học thiếu nhi, học sinh sẽ được phát triển toàn diện cả về trí dục, đức dục và thẩm mỹ. Mỗi tác phẩm sẽ mang đến cho các em những kiến thức chung về chủ đề mà tác giả hướng tới, đồng thời sẽ hướng các em đến các giá trị chân – thiện – mỹ. Qua đó, các em sẽ rút ra được những bài học cho riêng mình, đồng thời hoàn thiện nhân cách của mình. Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 17 1.1.2. Truyện đồng thoại và vai trò của truyện đồng thoại trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh Văn học thiếu nhi bao gồm rất nhiều các thể loại khác nhau, trong đó thể loại truyện đồng thoại chiếm một vị trí quan trọng bởi lẽ nó có sự hấp dẫn riêng về nội dung, đặc trưng về lứa tuổi và về giá trị đạo đức. Thuật ngữ truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam vốn có nguồn gốc Trung Hoa, được xác lập vào đầu thập niên 60 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó, chúng ta đang triển khai xây dựng nền văn học mới với sự chú ý đặc biệt tới độc giả thiếu nhi. Nhằm nâng cao chất lượng phong trào, nhà xuất bản Văn học đã tổ chức dịch, giới thiệu một số tài liệu nước ngoài về lí luận và kinh nghiệm sáng tác cho các em. Đó là những tài liệu: Kinh nghiệm viết cho các em (Nhiều tác giả,1960), Sáng tác đồng thoại và một số vấn đề khác (Kim Cận, 1961), Làm thơ cho các em (Nhiều tác giả, 1961)... Nhiều nhà nghiên cứu và nhà văn đã cho rằng, viết cho con trẻ cách dễ nhất là soi mình vào mắt trẻ thơ. Từ đó, một thế giới lung linh sắc màu hiện lên. Đó là những câu chuyện đồng thoại mà ở đó trẻ con có thể trò chuyện với loài vật - một khả năng mà hầu hết người lớn đều đã đánh mất. Từ đó, các em có thể học chính ngay từ bạn bè và những thứ xung quanh mình; học để lớn lên mỗi ngày cho tâm hồn được tưới tắm trong những yêu thương, chăm sóc. Khi viết đồng thoại, nhà văn rất chú ý tâm lý của lứa tuổi. Trong Làm thế nào để viết cho các em hay hơn, nhà văn Phạm Hổ nói rằng, “ở lứa tuổi bé (vườn trẻ, mẫu giáo, cấp I), các em thường rất thích truyện cổ tích, truyện đồng thoại, truyện ngụ ngôn...”. Nhà văn Cửu Thọ, qua nhiều năm làm công tác xuất bản sách cho thiếu nhi, cũng khẳng định: đối với lứa tuổi nhi đồng, loại sách được các em yêu thích hơn cả là “các truyện đồng thoại, cổ tích có tranh minh họa nhiều màu sắc”. Nhà văn Ngô Quân Miện lí giải thêm: sở dĩ truyện đồng thoại thích hợp với nhi đồng là vì “trong đó sự vật được nhìn Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 18 theo cách nhìn, cách cảm nghĩ của các em và kể lại theo cách nói của các em”... Qua một số ý kiến trên đây, chúng ta nhận thấy, các em ở lứa tuổi nhi đồng chính là lớp công chúng đặc biệt của thể loại truyện đồng thoại. Lứa tuổi này, như nhà tâm lí học Vũ Thị Nho đã nhận xét, giàu tình cảm, trí tưởng tượng phát triển mạnh và nhu cầu huyễn tưởng cao... Ở các em, bộ não đang trên đà phát triển nên sự hưng phấn thường bộc lộ ra rất mạnh. Khả năng ghi nhớ những cái cụ thể của các em tốt hơn các khái niệm trừu tượng. Do đó, tính trực quan, hình tượng là một đặc điểm quan trọng về nhận thức của lứa tuổi này. Mặt khác, trong quan hệ với thế giới xung quanh, các em luôn lấy mình là trung tâm và nhìn sự vật bằng cái nhìn nhân hóa. Cho nên, thế giới trong mắt các em luôn là những thực thể sinh động, có hồn người. Chúng ta sẽ không lạ khi nhìn thấy các em chơi với búp bê, ru búp bê ngủ, hát cho búp bê nghe... Bản thân các em rất yêu thương loài vật, đối xử với loài vật như bầu bạn. Trong quan niệm của các em, con vật nào cũng biết yêu, biết ghét, có cảm nghĩ, nói năng như con người. Những đặc điểm tâm lí như vậy đã giúp các em tìm thấy ở truyện đồng thoại những điều phù hợp với lứa tuổi của mình. Có thể nói tới ba điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, các em vốn giàu tưởng tượng, nhất là tưởng tượng hoang đường, ưa thích cái mới lạ, không thích những gì tầm thường tẻ nhạt, đúng như nhà tâm lí học người Nga M. Arnauđôp đã viết trong tác phẩm Tâm lí học sáng tạo văn học: “Sáng tác hoang đường thích hợp với tư duy trẻ em (...), những gì làm xúc động mạnh mẽ là phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và sự nhạy cảm phải hoạt động”. Nhà văn Nga K. Pauxtốpxki cũng có nhận xét tương tự: “Với tuổi thơ, mặt trời nóng bỏng hơn, cỏ rậm hơn, mưa to hơn, trời tối hơn và con người nào cũng thật thú vị...”. Là một thể loại giàu tưởng tượng, truyện đồng thoại đáp ứng được yêu cầu này của các độc giả thiếu nhi. Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa 19 Thứ hai, nhân hóa là một hình thức nghệ thuật đặc thù của truyện đồng thoại. Hơn nữa, nhân cách hóa trong truyện đồng thoại được dựa trên cách nhìn, cách cảm của trẻ em. Cho nên, đọc truyện đồng thoại, các em dễ hòa đồng với các nhân vật của mình. Các em dễ dàng nghe được, thấy được những gì mà người lớn không thể nghe thấy, khi cùng tiếp nhận truyện đồng thoại. Thứ ba, truyện đồng thoại có khả năng khơi dậy ở các em những tình cảm tốt đẹp, những cảm xúc thú vị qua những tình huống, những chi tiết vui tươi, bất ngờ. Đặc biệt, nó có khả năng giúp cho các em hóa thân vào nhân vật, xóa nhòa ranh giới giữa hư và thực, cảm nhận thế giới đồng thoại như cuộc sống của chính mình. Thể loại truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại đã trải hơn nửa thế kỉ phát triển. Điều đó cũng có nghĩa là, nó cũng đã có hơn nửa thế kỉ gắn bó với đời sống tinh thần của trẻ em Việt Nam, trẻ em ở một số nước trên thế giới. Truyện đồng thoại đến với các em theo nhiều con đường, nhiều hình thức khác nhau, bầu bạn với các em lúc ở nhà, khi ở trường, lúc vui chơi, hay trước khi đi ngủ. Nó thỏa mãn các em hai nhu cầu chủ yếu là giải trí và giáo dục. Thực tế cho thấy, thể loại truyện đồng thoại đã có một số tác phẩm gây được ảnh hưởng ở nước ngoài. Điển hình là truyện Dế Mèn phiêu lưu k ý của nhà văn Tô Hoài. Năm 1959, truyện Dế Mèn phiêu lưu ký đã được M.Tkachov chuyển ngữ thành công sang tiếng Nga. Nhờ giữ được cá tính của thể văn, nên “Dế Mèn phiêu lưu ký đã hết nhẵn trong vài tiếng đồng hồ sau khi đưa ra bán”. Các độc giả nhỏ tuổi ở nước Nga xa xôi đã đọc rất kĩ tác phẩm của Tô Hoài. Thậm chí, có em đã viết thư cho nhà văn để nêu lên mối băn khoăn vì sao răng con Dế Mèn không có màu nâu như con dế ở bên Nga... Sau Dế Mèn phiêu lưu ký, một số tác phẩm khác của Tô Hoài (Ba anh em, Dê và Lợn, Đám cưới chuột), Nguyễn Đình Thi (Cái Tết của Mèo con), Luận văn Thạc sỹ - Nguyễn Thị Thoa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan