Mục lục
1. Những vấn đề pháp lý cơ bản về tổ chức quốc tế
1.1. Định nghĩa
1.2. Đặc điểm
1.2. Phân loại
2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế
2.1. Hoạt động xây dựng pháp luật trực tiếp của các tổ chức quốc tế
2.1.1. Kí kết điều ước quốc tế
2.1.1. Chấp nhận tập quán quốc tế
2.2. Hoạt động xây dựng gián tiếp của các tôt chức quốc tế
2.2.1. Hoạt động đưa ra sáng kiến
2.2.2. Hoạt động bảo trợ kí kết các điều ước quốc tế
2.2.3. Tổ chức quốc tế tham gia soạn thảo các điều ước quốc tế
2.3.Tổ chức quốc tế lập nên các thiết chế để giám sát thực hiện điều
ước quốc tế mà tổ chức bảo trợ kí kết
Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một trong những chủ thể của luật
quốc tế. Ngày nay, các tổ chức liên chính phủ ngày càng hoàn thiện cả về cơ
cấu tổ chức, phạm vi và chức năng hoạt động. Sự phát triển của các tổ chức
quốc tế thể hiện ở vai trò và những đặc trưng về cách thức thành lập, cơ cấu tổ
chức, giá trị pháp lý của các văn bản do tổ chức quốc tế ban hành. Đặc biệt,
các tổ chức quốc tế liên chính phủ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế. Sau đây, bài viết xin đi sâu
vào bình luận về vấn đề này.
-------------------------
1. Những vấn đề pháp lý cơ bản về tổ chức quốc tế
Hiện tại tổ chức quốc tế là thuật ngữ pháp lý được sử dụng rộng rãi và
liên quan đến cả hai loại tổ chức quốc tế - tổ chức quốc tế liên chính phủ (liên
quốc gia) và tổ chức quốc tế phi chính phủ. Trong khuôn khổ của luật tổ chức
quốc tế, căn cứ theo điểm i, khoản 1 Điều 2 Công ước Viên về luật điều ước
quốc tế, thuật ngữ tổ chức quốc tế dùng để chỉ các tổ chức mà liên kết các
quốc gia hay “tổ chức quốc tế liên chính phủ” để có sự phân biệt với các tổ
chức quốc tế phi chính phủ (là loại hình hoạt động đóng vai trò quan trọng
trong đời sống quốc tế nhưng không được thừa nhận là chủ thể của luật quốc
tế).
1.1. Định nghĩa.
Tổ chức quốc tế là thực thể liên kết các quốc gia và các chủ thể khác
của luật quốc tế, hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế, có quyền năng chủ
thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan để duy trì hoạt động thương xuyên
theo đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức đó.
Tổ chức quốc tế là thực thể tồn tại dưới những tên gọi khác nhau, như
Tổ chức hiến chương Bắc đại tây dương – NATO, Tổ chức thống nhất Châu
Phi, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN, Quỹ tiền tệ quốc tế IMF,
Liên hợp quốc…
1.2. Đặc điểm.
* Là liên kết của các chủ thể luật quốc tế.
Thành viên của mô hình liên kết tạo thành tổ chức quốc tế chủ yếu là
các quốc gia độc lâp, có chủ quyền. Đặc điểm này được quy định ngay trong
điều ước quốc tế về thành lập tổ chức quốc tế đó. Đây cũng là điểm phân biệt
với tổ chức quốc tế phia chính phủ và các nhà nước liên bang (chẳng hạn như
thành viên của các tổ chức quốc tế phi chính phủ là các tổ chức, cá nhân mang
quốc tịch khác nhau). Ngoài ra, một số tổ chức quốc tế thừa nhận tư cách
thành viên của loại hình lãnh thổ hải quan (như Hồng Kông, Ma Cao…), của
một số liên minh thuế quan và một tổ chức quốc tế khác tham gia tại tổ chức
quốc tế đó, ví dụ như trường hợp EU là thành viên của WTO.
* Hình thành trên cơ sở một điều ước quốc tế kí kết giữa các thành viên
tham gia tổ chức đó.
Đây là cơ sở pháp lý hình thành nên tổ chức quốc tế và duy trì sự phối
hợp hoạt động giữa các quốc gia thành viên bình đẳng về chủ quyền và quyền
lợi. Các điều ước quốc tế này có thể có nhiều tên gọi khác nhau, như hiến
chương, quy chế, hiệp ước… Nhưng về bản chất có ý nghĩa là điều lệ của một
tổ chức quốc tế cụ thể với những quy định về mục đích, nguyên tắc, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của tổ chức quốc tế. Ngoài ra, trong điều lệ thường có các
quy định về quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế của các quốc gia thành viên
cũng như của tổ chức quốc tế này trong các mối quan hệ đối nội và đối ngoại.
Do tính chất của tổ chức quốc tế là một liên kết mang tính lâu dài nên các
điều lệ của tổ chức quốc tế thường là các điều ước quốc tế vô thời hạn.
* Có cơ cấu thường trực để duy trì mọi hoạt động chức năng.
Để tồn tại và phát triển đồng thời có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ
mà các quốc gia thành viên trao cho, các tổ chức quốc tế phải có cơ cấu tổ
chức nhất định. Các cơ quan của tổ chức quốc tế gồm các cơ quan chính và bổ
trợ. Các cơ quan chính của tổ chức quốc tế bao gồm: các cơ quan toàn thể (có
chức năng hoạch định chính sách), các cơ quan chấp hành và các cơ quan
chính (như ban thư kí mà đứng đầu là tổng thư kí). Để đảm bảo duy trì mọi
hoạt động chức năng, tổ chức quốc tế phải có trụ sở làm việc với một quốc gia
thành viên hoặc quốc gia trung lập, không phải là thành viên. Đây có thể là
một đặc điểm để có thể phân biệt tổ chức quốc tế với các hình thức hợp tác
khác hiện nay, như diễn đàn, các hội nghị quốc tế.
* Có quyền năng chủ thể hạn chế của luật quốc tế.
Về mặt pháp lý, tổ chức quốc tế là chủ thể của luật quốc tế. Khác với
quốc gia, tổ chức quốc tế có được quyền năng chủ thể luật quốc tế không phải
căn cứ vào thuộc tính tự nhiên vốn có là chủ quyền, mà do các quốc gia thừa
nhận trao cho va do sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên.Tòa cũng làm
sang tỏ thêm lý thuyết về quyền năng chủ thể, khẳng định tổ chức quốc tế là
một chủ thể phái sinh của Luật quốc tế. Trong kết luận tư vấn ngày 11-4-1949
về Bồi thường các thiệt hại gây ra cho hoạt động của Liên hợp quốc, Tòa đã
đi đến kết luận rằng “Tổ chức (Liên hợp quốc) có quyền năng chủ thể. Điều
đó không có nghĩa là nói Tổ chức là một quốc gia, nó hoàn toàn không đúng
vậy, hoặc quyền năn chủ thể của nó, các quyền và nghĩa vụ của nó cũng giống
như các quyền và nghĩa vụ của quốc gia. Càng không đúng khi nói rằng tổ
chức là một “siêu quốc gia”, dù nghĩa của cách biểu thị này như thế nào. Điều
này cũng không hàm ý rằng tất cả các quyền và nghĩa vụ của Tổ chức phải
được tìm thấy trên trường quốc tế, càng không phái rằng các quyền va nghĩa
vụ của quốc gia không được đặt ở đó. Điều này có nghĩa rằng Tổ chức là một
chủ thể của Luật quốc tế, rằng nó có khả năng là bên thụ hưởng các quyền và
nghĩa vụ quốc tế và nó có khả năng thể hiện các quyền của mình và yêu sách
quốc tế”.
Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức quốc tế được xác định cụ
thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó, số lượng các quyền và nghĩa vụ
của các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ không giống nhau. Quốc gia sẽ có thể
tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế nào xuất phát từ lợi ích của chính
mình. Còn tổ chức quốc tế không tự xác định được phạm vi quyền và nghĩa
vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham gia trong phạm vi
quyền hạn được các thành viên trao cho. Do đó, tổ chức quốc tế là chủ thể
phái sinh (có quyền năng chủ thể bị hạn chế). VD: WIPO không được tham
gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề an ninh, quốc phòng,
thương mại...theo thỏa thuận của các thành viên, WIPO chỉ tham gia các điều
ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
1.3. Phân loại:
* Theo tiêu chuẩn thành viên: Tổ chức quốc tế toàn cầu (Ví dụ Liên
hợp quốc, sau 60 năm tồn tại và phát triển, hiện nay Liên hợp quốc đã thực sự
trở thành cơ quan trung tâm trong quan hệ quốc tế với bộ máy các cơ quan,
các tổ chức quốc tế liên chính phủ đảm trách hầu như tất cả các lĩnh vực trong
đời sống quốc tế); Tổ chức quốc tế liên khu vực ( Ví dụ: NATO- khối liên
minh quân sự Bắc đại tây dương); và Tổ chức quốc tế khu vực (Ví dụ như
ASEAN- Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á).
* Theo phạm vi hoạt động: bao gồm Tổ chức quốc tế chung và tổ chức
quốc tế chuyên môn.
2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ đóng một vai trò quan
trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật quốc tế.
Sở dĩ chúng ta có thể khẳng định như vậy là do những hoạt động xây
dựng và hoàn thiện hệ thống quốc tế của các tổ chức quốc tế liên chính phủ
được thực hiện một cách có hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp
phần vào việc thúc đẩy việc hợp tác, cùng phát triển giữa các quốc gia trên
toàn thế giới. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của tổ chức
quốc tế liên chính phủ được thể hiện thông qua ba hoạt động chủ yếu được
trình bày dưới đây. Bên cạnh đó, bài viết xin minh họa bằng các hoạt động
thực tế của một số tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc và Tòa án công lý quốc
tế.
2.1. Hoạt động xây dựng pháp luật trực tiếp của các tổ chức quốc
tế.
Để xây dựng và hoàn thiện hế thống pháp luật quốc tế, không thể
không nhắc đến những hoạt động xây dựng pháp luật trực tiếp của các Tổ
chức quốc tế. Các tổ chức quốc tế kí kết các điều ước quốc tế hoặc chấp nhận
các tập quán quốc tế để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức quốc tế
trong khuôn khổ thẩm quyền mà các quốc gia thành viên trao cho tổ chức.
2.1.1. Kí kết điều ước quốc tế.
- Ký kết điều ước là một quá trình phức tạp, nó chỉ diễn ra khi các bên
tham gia được thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng vá dứt khoát. Đó là
sự gặp gỡ của các bên về các vấn đề của điều ước. Do đó, để có thể đạt được
kết quả là việc ký kết điều ước các bên phải vượct qua nhiều giai đoạn với
nhiều thủ tục khác nhau như: đàm phán để đi đến soạn thảo điều ước và các
thủ tục ký cũng như nhiều thủ tục khác nhằm làm cho điều ước phát sinh hiệu
lực.
- Tổ chức quốc tế cũng là một thực thể được thừa nhận có năng lực kí
kết điều ước quốc tế. Năng lực kí kết điều ước quốc tế là một vấn đề hết sức
quan trọng trong luật quốc tế do tính chất liên quan chặt chẽ của nó với việc
xác định quyền năng chủ thể vì chỉ có chủ thể của luật quốc tế mới có năng
lực này. Tuy nhiên, nếu quốc gia, trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, có năng
lực kí kết điều ước đầy đủ thì tổ chức quốc tế có năng lực kí kết điều ước
quốc tế hạn chế. Tính chất hạn chế của năng lực kí kết điều ước quốc tế của tổ
chức quốc tế được xác định bởi hiến chương hay điều lệ thành lập của tổ chức
quốc tế đó. Nói một cách chính xác hơn, việc tổ chức quốc tế có năng lực kí
kết điều ước hạn chế là do các quốc gia thành viên chỉ chuyển gia một phần
năng lực kí kết điều ước mà không phải là toàn bộ năng lực đó. Có thể gọi sự
chuyển giao này là sự hợp nhất chủ quyền của các quốc gia thành viên trong
một tổ chức về một số vấn đề thuộc một hay một số lĩnh vực nhất định của
quan hệ pháp lý quốc tế hy sự triển khai chủ quyền của các quốc gia thành
viên trên thực tế.
Thông thường, trong quan hệ với quốc gia, tổ chức quốc tế có thể kí kết
các điều ước quốc tế ở dạng các thỏa thuận về trụ sở của tổ chức (Ví dụ: thỏa
thuận được kí kết giữa Liên hợp quốc và Mỹ về trụ sở của Liên hợp quốc
ngày 26 tháng 6 năm 1947; Thỏa thuận của trụ sở của Liên hợp quốc và Thụy
Sĩ tháng 6 năm 1946…); hoặc các thỏa thuận về quyền ưu đãi và miễn trừ
dành cho các cơ quan của tổ chức quốc tế và thành viên của các cơ quan đó
đặt trên lãnh thổ các quốc gia. Các tổ chưc quốc tế cũng có thể tham gia vào
quá trình soạn thảo và kí kết các điều ước quốc tế giữa các quốc gia. Điều 2
Phụ lục XI Công ước 1982 về luật biển quốc tế quy định: “Một tổ chức quốc
tế có thể kí kết Công ước, nếu đa số thành viên của tổ chức này là những bên
kí kết Công ước…”.
Thực tế, không phải khi nào năng lực kí kết điều ước quốc tế của các tổ
chức cũng được xác định rõ trong điều ước hay hiến chương thành lập. Trong
những trường hợp như vậy, năng lực kí kết điều ước thường được xác định
trên cơ sở của mục đích, nguyên tắc hoạt động của tổ chức quốc tế đó. Trong
kết luận tư vấn về bồi thường thiệt hại gây ra cho hoạt động của Liên hợp
quốc, Tòa án pháp lý quốc tế đã xác định rằng các tổ chức quốc tế có năng lực
ký kết các điều ước quốc tế nhằm duy trì hoạt động của tổ chức, phù hợp với
mục tiêu và tôn chỉ của tổ chức.
Năng lực kí kết điều ước không chỉ được thừa nhận đối với các tổ chức
quốc tế mà cơ quan của một tổ chức quốc tế cũng có thể được thừa nhận là có
năng lực này nếu điều lệ hoặc hiến chương thành lập của tổ chức đó quy định.
Chẳng hạn, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trên cơ sở của Điều 43 Hiến
chương, có quyền kí kết các thỏa thuận cho việc duy trì hòa bình và an ninh
quốc tế với một hoặc một nhóm các quốc gia thành viên nhằm thành lập các
lực lượng vũ trang quốc tế, cung cấp sự yểm trợ và mọi phương tiện khác cho
lực lượng này.
Việc kí kết điều ước sẽ tạo ra những hành lang pháp lý để giải quyết
các vấn đề trong tình hình thế giới. Các tổ chức chính phủ với tư cách là chủ
thể của luật quốc tế có quyền kí kết các điều ước quốc tế và có nghĩa vụ phải
thực hiện theo các điều ước đã kí với quốc gia, các tổ chức quốc tế khác.
2.1.2. Chấp nhận các tập quán quốc tế.
Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng quy tắc xử sự chung,
hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế
thừa nhận là luật.
Tòa án công lý quốc tế đã khẳng định nguyên tắc tập quán và điều ước
là hai nguồn độc lập, tương đương nhau của luật quốc tế ; mọi văn kiện quốc
tế cần phải được giải thích và áp dụng trong khuôn khổ hệ thống pháp lý có
hiệu lực vào thời điểm tiến hành giải thích. Điều ước và tập quán quốc tế, về
nguyên tắc, được coi là cách thức chủ yếu xây dựng quy phạm pháp luật quốc
tế bắt buộc, hay còn gọi là luật “cứng” (“hard” law). Mặc dù điều ước quốc tế
được xem là phương thức làm luật phổ biến trong lĩnh vực môi trường, các
quốc gia có thể ưa chuộng tập quán vì một số lý do. Không có những thủ tục
phê chuẩn phức tạp như điều ước quốc tế, những quy tắc tập quán là cách
thức dễ dàng hơn để đạt được sự thống nhất toàn cầu, bởi vì các chủ thể chủ
động có thể bảo đảm sự mặc nhận từ phía các chủ thể thụ động – một thuận
lợi đặc biệt trong giải quyết những vấn đề mà nhiều quốc gia quan tâm. Điều
38, Khoản 1, Điểm b, Quy chế Tòa án Quốc tế quy định 2 yếu tố hình thành
tập quán quốc tế là sự áp dụng thường xuyên của quốc gia và được thừa nhận
là quy phạm pháp lý bắt buộc (opinio juris). Và như thế, việc chấp nhận các
tập quán quốc tế của các Tổ chức quốc tế Liên chính phủ sẽ có vai trò vô cùng
quan trọng làm hoàn thiện thêm hệ thống pháp luật quốc tế.
Để được công nhận là tập quán quốc tế, một quy tắc phải được các
quốc gia (chủ thể chủ yếu của luật quốc tế) hoặc các tổ chức quốc tế liên
chính phủ (các chủ thể phái sinh của luật quốc tế) thừa nhận và áp dụng
thường xuyên, mà sự áp dụng thường xuyên thì hiếm khi có thể chứng minh
rõ ràng. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, có thể chứng minh thông qua tài
liệu chuẩn bị cho các thủ tục khác, ví dụ phê chuẩn điều ước; đàm phán điều
ước và tham gia các hội nghị quốc tế; xây dựng pháp luật quốc gia; phán
quyết tại tòa án quốc gia; bầu cử trong Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và các
tổ chức quốc tế khác; phát biểu của bộ trưởng và đại diện chính phủ hoặc
ngoại giao; văn kiện chính thức về ngoại giao; ý kiến tư vấn của luật sư; ý
kiến bào chữa của luật sư trước tòa án quốc gia và quốc tế. Điều đáng lưu ý
nhất trong đó khi chúng ta phân tích và bình luận về vai trò của tổ chức quốc
tế liên chính phủ là phán quyết của tòa án hoặc trọng tài đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành và thừa nhận một tập quán quốc tế.
Có thể minh chứng thông qua ví dụ sau đây. Nguyên tắc cơ bản trong
quan hệ song phương về môi trường được hình thành từ phán quyết trọng tài
đối với tranh chấp Trail Smelter 2 năm 1941 “không quốc gia nào có quyền
sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình để phát tán khói gây thiệt
hại nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và người dân của quốc gia khác”.
Nguyên tắc này được mở rộng và nhấn mạnh trong Tuyên bố Stockholm “các
quốc gia có trách nhiệm bảo đảm những hoạt động thuộc chủ quyền quốc gia
không gây thiệt hại đến môi trường của các quốc gia khác hoặc các khu vực
vượt quá giới hạn chủ quyền quốc gia” (Nguyên tắc 21). Một loạt các văn bản
quốc tế, cả cưỡng chế lẫn khuyến nghị, đều ghi nhận nguyên tắc này, điển
hình là ý kiến tư vấn của Tòa án Quốc tế ngày 08/7/1996: “môi trường không
phải là khái niệm trừu tượng, mà thể hiện một không gian nhằm bảo đảm chất
lượng cuộc sống và sức khỏe của con người, kể cả những thế hệ chưa được
sinh ra. Do đó, các quốc gia có nghĩa vụ bảo đảm những hoạt động trong
phạm vi chủ quyền quốc gia phải được tiến hành theo cách thức tôn trọng môi
trường quốc gia khác hoặc những khu vực vượt quá giới hạn chủ quyền quốc
gia. Đây trở thành một cách giải thích luật quốc tế trong những vấn đề môi
trường”.
Từ đó, nghĩa vụ của quốc gia thông báo cho quốc gia khác về hiểm họa
môi trường cũng được thừa nhận, về bản chất, là một quy tắc tập quán.
Nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi nhận năm 1974, trong một văn bản
khuyến nghị của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD –
Organization for Economic Cooperation and Development) của khối các quốc
gia công nghiệp phát triển. Sau khi xuất hiện ở rất nhiều văn bản, cả khuyến
nghị lẫn cưỡng chế, năm 1982, Công ước Luật biển đã chính thức quy định
“khi biết được môi trường biển đang có nguy cơ sắp phải chịu thiệt hại hay đã
bị thiệt hại do ô nhiễm, các quốc gia phải thông báo cho quốc gia có nguy cơ
phải chịu những tổn thất, cũng như thông báo cho các tổ chức có thẩm quyền”
(Điều 198). Một vấn đề quan trọng cần lưu ý là không hành động (bất hành
vi) cũng có thể được xem là sự áp dụng thường xuyên của quốc gia, ví dụ
chấp nhận một mức độ ô nhiễm hoặc các hành vi gây suy thoái môi trường
mặc nhiên được hiểu rằng các quốc gia thừa nhận điều đó phù hợp với luật
quốc tế.
2.2. Hoạt động xây dựng pháp luật gián tiếp
2.2.1. Hoạt động đưa ra sáng kiến.
Tình hình thế giới và ở các khu vực luôn luôn có nhiều sự biến
đối và phát triển không ngừng, từ đó, phát sinh ra nhiều vấn đề nổi cộm, “làm
đau đầu những nhà chính trị tài ba nhất của các quốc gia” và gây ra những sự
bất ổn trong tình hình đời sống của con người. Do đó, cần có những sáng
kiến, góp phần xây dựng những điều ước quốc tế, nhằm tạo ra hành lang pháp
lý để giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích hợp lý và đang gây bức xúc
và tranh cãi cho nhiều quốc gia trên thế giới. Quay ngược lại thời gian, sau
chiến tranh thế giới thứ hai, ngày càng có nhiều tranh cãi, tranh chấp liên
quan đến việc sử dụng những nguồn lợi biển. Trước những khác biệt liên
quan đến những yêu sách chủ quyền đối với biển và đại dương, cộng đồng
quốc tế đã có những nỗ lực nhằm pháp điển hóa luật pháp quốc tế về biển,
Liên hợp quốc nhận thấy tầm quan trọng về một Công ước Biển nên đã tích
cực đề xuất những sáng kiến để xây dựng một Công ước Biển thống nhất giữa
các quốc gia, nhằm giảm những mâu thuẫn giữa các quốc gia về lợi ích từ
biển, xoa dịu những căng thẳng quốc tế không đang có giữa các quốc gia trên
thế giới, thề hiện thông qua 3 hội nghị về Luật biển do Liên hợp quốc triệu
tập.
Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển lần đầu tiên được triệu tập năm
1956 sau khi vấn đề này đã được thảo luận tại Đại hội đồng. Đến năm 1958
hội nghị đầu tiên đã thông qua 4 Công ước Luật biển trên cơ sở dự thảo do Ủy
ban luật pháp quốc tế xây dựng (4 Công ước này được gọi là 4 Công ước Gene-vơ, điều chỉnh những quy định về lãnh hải, vùng tiếp giáp, biển cả, thềm
lục địa và việc đánh cá, bảo vệ các nguồn tài nguyên sinh vật biển). Tuy nhiên
Hội nghị Liên hợp quốc về luật biển lần thứ nhất đã không đưa ra được thỏa
thuận cả gói. Hội nghị lần thứ hai được triệu tập nhưng các quốc gia không
đạt được bất cứ thỏa thuận nào. Hội nghị về LHQ về luật biển lần thứ 3 được
triệu tập trong năm 1973. Sau 9 năm đàm phán, đến năm 1982 Hội nghị đã đạt
được một thỏa thuận cả gói là Công ước Luật biển năm 1982. Hội nghị này là
nơi đại diện các quốc gia trên thế giới trực tiếp đàm phán về những quy định
liên quan đến luật biển.
Cũng có thể lấy một ví dụ khác như sau, sau chiến tranh Thế giới II,
nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới
đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn
như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt
chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức
Thương mại Quốc tế (WTO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc
Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc triệu
tập một "Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm" với mục tiêu
dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến
chương thành lập WTO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại
thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi
hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
2.1.2. Bảo trợ để kí kết điều ước quốc tế.
Thông thường, bảo trợ kí kết điều ước quốc tế là tổ chức quốc tế sẽ tổ
chức các diễn đàn, các hội nghị để các bên thương lượng và kí kết điều ước
quốc tế, như các Hội nghị luật biển của Liên hợp quốc, Hội nghị để kí Công
ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia…
Các tổ chức quốc tế, do sự tham gia của nhiều quốc gia, cho nên có uy
tín đối với thế giới. Việc kí kết các điều ước quốc tế là một trong những hoạt
động quan trọng nhất trong các quan hệ quốc tế, chính vì vậy, các tổ chức
quốc tế thường đứng ra bảo trợ việc kí kết điều ước quốc tế. Hầu như các điều
ước quốc tế, sau khi được Tổ chức quốc tế đó soạn thảo, đi đến sự nhất trí cao
của nhiều quốc gia sẽ do chính Tổ chức quốc tế đó bảo trợ, nhằm đảm bảo
tiến trình mạch lạc, nhất quán của việc kí kết.
Minh chứng cho việc bảo trợ kí kết, chúng ta có thế lấy ví dụ như Công
ước quốc tế về Quyền trẻ em do Liên hợp quốc bảo trợ kí kết.
2.1.3. Tổ chức quốc tế tham gia soạn thảo các điều ước quốc tế.
Các tổ chức quốc tế có những đóng góp quan trọng và tích cực trong
việc tham gia soạn thảo các điều ước quốc tế. Nhìn chung, sau khi đã đề xuất
những sáng kiến về điều ước quốc tế, những đề xuất đó cần được cụ thể hóa
bằng các văn bản điều ước quốc tế, để thông qua đàm phán, các điều ước đó
sẽ được kí kết. Việc soạn thảo các điều ước quốc tế như một hành động hiện
thực hóa các ý kiến đề xuất, đòi hỏi những yêu cầu cao về mặt chuyên môn và
cần phải nhận được sự ủng hộ của các quốc gia. Việc soạn thảo văn bản điều
ước, đối với điều ước đa phương việc soạn thảo điều ước do các bên cử ra
đảm nhiệm, đối với điều ước song phưong có thể được hai bên cùng cử người
tiến hành hoặc có thể giao cho một trong hai bên cùng soạn thảo, sau đó hai
bên cùng thảo luận, bàn bạc và đi đến thống nhất. Văn bản điều ước đã soạn
thảo nếu được các bên nhất trí đối với điều ước song phương, đối với điều
ước đa phương đa số các bên nhất trí thì văn bản đó sẽ được thông qua. Trên
thực tế do tính phức tạp của văn bản mà phải xem xét, sủa chữa văn bản nhiều
lần trên cơ sở các ý kiến đưa ra trong các cuộc thảo luận
Có thể lấy ví dụ để minh chứng cho vai trò quan trọng của các tổ chức
quốc tế liên chính phủ như sau: Hội đồng kinh tế và xã hội Liên hợp quốc
(ECOSOC) là cơ quan thúc đẩy việc xây dựng, pháp điển hóa luật quốc tế về
nhân quyền, nhân đạo. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, ECOSOC đã thành
lập nhiều ủy ban trực thuộc. Ủy ban về nhân quyền (CHR) được ECOSOC
thành lập năm 1946 nhằm chuẩn bị cho những kiến nghị, những báo cáo liên
quan đến những công ước quốc tế, những tuyên bố về các quyền tự do về kinh
tế, dân sự, quyền phụ nữ, quyền tự do thông tin, việc bảo vệ những dân tộc
thiểu số, ngăn ngừa việc phân biệt dựa trên cơ sở chủng tộc, giới tính, màu da,
ngôn ngữ, tôn giáo và những vấn đề liên quan đến quyền con người khác. Ủy
ban nhân quyền đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng những văn kiện
quốc tế về nhân quyền. Thông thường, Ủy ban thành lập nhóm làm việc mở
cho tất cả những chính phủ, những tổ chức quốc tế có quy chế tư vấn cùng
tham gia nhằm xây dựng một văn kiện quốc tế về nhân quyền. Khi hoàn thành
công việc, nhóm làm việc này sẽ đệ trình dự thảo lên Ủy ban nhân quyền, sau
đó lên Đại hội đồng Liên hợp quốc để thông qua.Năm 1948, Ủy ban đã soạn
thảo Tuyên bố toàn cầu về nhân quyền, một văn kiện quan trọng liên quan đến
việc bảo vệ quyền tự do cơ bản của con người. Ủy ban cũng đã soạn thảo và
đệ trình Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên bố của Liên hợp quốc
về quyền các dân tộc thiểu số, Tuyên bố về quyền, trách nhiệm của cá nhân,
tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ những quyền được công nhận
toàn cầu và những tự do cơ bản
2.3. Tổ chức quốc tế cũng lập nên các thiết chế để giám sát thực
hiện điều ước quốc tế mà tổ chức bảo trợ kí kết
Sau khi các điều ước được kí kết giữa các tổ chức quốc tế hoặc giữa các
tổ chức với các quốc gia, điều quan trọng nhất là nhằm mục đích làm cho các
điều ước quốc tế được thực thi nghiêm tuc, các bên tham gia được hưởng các
quyền và lợi ích đồng thời cũng nghiêm túc tuân theo các nghĩa vụ nằm trong
khuôn khổ những nội dung đã kí kết. Nhằm làm được điều đó, không những
đòi hỏi các quốc gia phải nghiêm túc thực hiện mà còn đòi hỏi phải có các
thiết chế giám sát để điều ước quốc tế được thực hiên nghiêm túc và có hiệu
quả. Các tổ chức quốc tế đã thiết lập nên các thiết chế để giám sát thực hiện
điều ước quốc tế mà tổ chức bảo trợ kí kết. Điều này vô cùng có ý nghĩa cả về
mặt pháp lý lẫn thực tiễn.
Việc thiết lập các thiết chế giám sát thực hiện điều ước quốc tế được
thực hiện đặc biệt là ở các điều ước quốc tế về Môi trường và Quyền con
người.
-------------------Trên đây là những bình luận về vai trò của Tổ chức quốc tế liên chính
phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế. Qua đó,
chúng ta có thể hiểu thêm được phần nào về tổ chức quốc tế liên chính phủ và
những chức năng của các tổ chức đó.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nôi, Giáo trình Luật quốc tế. Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2007
2. Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb.
ĐHQG, Hà Nội, 1997.
3. Lê Mai Anh và Trân Văn Thắng, Luật quốc tế- Lý luận và thực tiễn,
Nxb, Giáo dục, Hà Nội, 2001.
4. Trường Đh Luật Hà Nội, Tạp chí luật học “ Đặc sa kỉ niệm 60 năm
ngày thành lâp Liên hợp quốc.
5. TS. Nguyễn Hồng Tao, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
6. Một số trang web
- Xem thêm -