Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Trung học cơ sở Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống “lạm dụng công nghệ thô...

Tài liệu Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống “lạm dụng công nghệ thông tin trong đời sống”

.DOC
10
1140
58

Mô tả:

Bài Thi Liên Môn 2014-2015 I. Tên tình huống “LẠM DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG ĐỜI SỐNG” II. Mục tiêu giải quyết tình huống Vận dụng các kiến thức liên môn để giải quyết về vấn đề nên ứng dụng không nên lạm dụng quá vào công nghệ thông tin trong đời sống, giúp mọi người không bị mất đi những điều quí giá giữa con người với con người mà máy tính không thể biết được. III .Tổng quan về các nghiên cứu có liên quan để giải quyết tình huống Để giải quyết được tình huống ta cần áp dụng một số môn học như sau : - Về GDCD : Giáo dục đức tính tốt cho con người, thói quen không ỉ lại vào internet và những người xung quanh. - Về Tin Học : +Loại bỏ những thiết bị được coi là không cần thiết như game, mạng xã hội, ….trên các cổng Internet giúp cho chúng ta không nghiện ngập dẫn đến con đường bỏ học. + Ngăn chặn các đường Internet mang tính chất đồi trụy, những thứ không lành mạnh ảnh hưởng tới con em chúng ta. -Về Văn Học : +Khai thác nội dung “ lạm dụng công nghệ thông tin”. +Thuyết minh về lợi ích cũng như tác hại của việc lạm dụng công nghệ thông tin. IV . Giải pháp giải quyết tình huống - Tìm hiểu chung về việc lạm dụng công nghệ thông tin trên thế giới và ở Việt Nam. - Nêu nên sự quan trọng của việc quá lạm dụng công nghệ thông tin. - Nêu nên một số lợi ích nhưng bên cạnh đó là tác hại của việc lạm dụng công nghệ thông tin. - Nói nên tình trạng của việc lạm dụng Internet và cách khắc phục những tình trạng đó. - Ý thức của mọi người về việc hạn chế sử dụng công nghệ thông tin trong đời sống. V .Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống Xuất hiện ở Việt Nam chưa lâu song Internet đã có tác động đáng kể đến đời sống văn hóa của người dân nói chung và lứa tuổi thanh thiếu niên nói riêng. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin ( trong đó có Internet ) các cơ quan Đảng, nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu và đưa Internet đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về Internet; có biện pháp để ngăn chặn những hành vi lợi dụng Internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, vi phạm các quy định của pháp luật và để bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet. Hiện nay công nghệ thông tin đã thâm nhập ngày càng sâu vào đời sống văn hóa của nhân dân các dân tộc trên khắp cả nước. Mặt tích cực của quá trình này là Internet đã có ảnh hưởng rất mạnh đến cách thức tiếp cận, lựa chọn và xử lý thông tin phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa - chính trị. Trong đời sống cá nhân, cộng đồng, Internet đem lại cho người sử dụng những lợi ích to lớn, nó mở ra cơ hội kinh doanh trên phạm vi rộng. Nó cũng cho phép người sử dụng cơ hội giao lưu với nhiều nền văn hóa. Nhu cầu đào tạo cũng được đáp ứng với những dịch vụ đào tạo từ xa qua mạng internet. Song số người tham gia truy cập Internet nhiều nhất vẫn là giới trẻ. Việc sử dụng, khai thác công nghệ thông tin vào mục đích học tập, nghiên cứu, làm giàu tri thức đã được các em học sinh - sinh viên khai thác hiệu quả, thiết thực. Bên cạnh đó mục đích giải trí cũng được học sinh sinh viên quan tâm nhiều vì Internet không chỉ có khả năng chuyển tải thông tin như báo in, mà còn truyền tải được cả âm thanh, hình ảnh sống động như phát thanh, truyền hình. Trong đời sống xã hội, Internet đã ngày càng thể hiện rõ vai trò, nó được xem như là một công cụ hữu hiệu để phổ biến văn hóa, những giá trị của nhân loại đã tích lũy qua hàng nghìn năm lịch sử. Công nghệ thông tin đã giúp cá nhân, xã hội, cộng đồng, quốc gia lưu trữ trong ngân hàng dữ liệu, trở thành tài sản vô giá của nhân loại làm cho sự tác động và ảnh hưởng của thông tin đã vượt ra khỏi biên giới của các quốc gia, dân tộc và một số bất cập khác chưa được biết đến… 1. Nhu cầu của giáo viên… khác xa với thực tế trường học… Vừa qua, Mạng cộng đồng giáo viên Violet kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu thiết bị giảng dạy - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và Công ty TNHH Intel Việt Nam thực hiện một khảo sát trực tuyến về nhu cầu và thói quen sử dụng CNTT trong giảng dạy của giáo viên Việt Nam. Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 7/10/2013, với đối tượng khảo sát là 10 nghìn giáo viên trên cả nước. Kết quả, gần 100% giáo viên đã ứng dụng CNTT để phục vụ công việc giảng dạy. Cụ thể, 52/100 giáo viên được hỏi cho biết sử dụng các thiết bị CNTT để làm việc và giảng dạy; 50,1% giáo viên sử dụng các thiết bị CNTT trong quá trình làm việc, giảng dạy tại trường học và trên 81,4% sử dụng thiết bị CNTT tại nhà với lượng thời gian là hơn 5h/tuần. Mặc dù vậy, qua thực tiễn giảng dạy cho thấy, nếu lạm dụng quá mức, sử dụng không linh hoạt, phù hợp, các phương tiện dạy học hiện đại có thể gây ra những “tác dụng phụ” không mong muốn, làm giảm đi quá trình tương tác cần thiết giữa thầy và trò.Do đó, cần sử dụng công nghệ, các phương tiện dạy học hiện đại sao cho phù hợp là vấn đề cần được quan tâm. Trong những năm qua, các phương tiện dạy học hiện đại được sử dụng và dần trở nên quen thuộc trong các tiết dạy của giáo viên, nhất là ở những đơn vị trường học đóng trên các địa bàn có điều kiện kinh tế thuận lợi.Không thể phủ nhận những tiện ích mang lại từ việc ứng dụng các phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học. Khi sử dụng giáo án điện tử với những môn học, tiết dạy phù hợp, bài giảng của giáo viên có tính trực quan hơn. Cần ứng dụng thiết bị khoa học công nghệ hiện đại vào việc giảng dạy sao cho phù hợp. Những hình ảnh, đoạn video clips, đoạn nhạc xen ngang làm cho giờ học trở nên sinh động, có khả năng cuốn hút, tạo hứng thú cho người học. Với việc ứng dụng công nghệ thông tin, trong một tiết dạy, khối lượng kiến thức có thể được truyền đạt tới học sinh nhiều hơn. Với những bài giảng điện tử, giáo viên giảm được đáng kể thời gian ghi bảng hoặc đọc cho học sinh chép. Thay cho thời gian đọc chép hay ghi bảng, giáo viên có thể lấy thêm nhiều ví dụ minh họa, dẫn dắt học sinh tiếp cận với các kiến thức phong phú hơn. Mặt khác, việc ứng dụng các thiết bị dạy học hiện đại vào quá trình giáo dục cũng là cơ hội giúp giáo viên và học sinh có điều kiện tiếp cận được với các phương tiện giảng dạy và học tập tiên tiến trên thế giới. Đây cũng là động lực để cả giáo viên và học sinh đều phải học tập, nâng cao trình độ công nghệ thông tin của bản thân nhằm bắt kịp xu hướng của thời đại. Bên cạnh đó, sử dụng công nghệ hiện đại đúng cách mang lại nhiều hiệu quả tích cực là điều không phải bàn cãi. Tuy nhiên, nếu sử dụng không phù hợp, lạm dụng quá mức sẽ dẫn tới phản tác dụng. Trong quá trình giáo dục, học sinh là nhân tố trung tâm, người giáo viên phải đóng vai trò khơi gợi, dẫn dắt học sinh tiếp cận với tri thức. Muốn làm được điều này, quá trình tiếp xúc, tương tác giữa thầy và trò là không thể thiếu. Quá trình này không chỉ giúp học sinh dễ dàng tiếp cận với kiến thức mà còn giúp học sinh cảm nhận được tình cảm, sự khích lệ, động viên của thầy cô. Cũng thông qua quá trình tương tác này, sự uốn nắn của giáo viên đối với học sinh từ những hành động nhỏ nhất như: tư thế ngồi, cách viết, cách đọc,… sẽ được thực hiện. Với vai trò quan trọng này của người giáo viên, máy móc, thiết bị dù hiện đại tới đâu cũng không thể thay thế được. 2. Đổi mới phương pháp dạy và học….còn nhiều bất cập… Tham gia một tiết học Hình học với phương pháp ứng dụng bài giảng điện tử của một số trường, mới thấy được sự hào hứng của các em học sinh. Giáo viên sử dụng trình chiếu slide powerpoint, giao diện trên màn hình máy chiếu lần lượt thay đổi; những hình khối minh họa trong không gian ba chiều giúp các em dễ dàng hình dung và tiếp thu bài giảng. Một em học sinh cấp II cho biết: “Những bài giảng điện tử như thế này luôn tạo hứng thú cho chúng em. Bởi không còn lệ thuộc vào sách giáo khoa nhiều, mà chúng em còn được nghe, nhìn nên dễ dàng hiểu bài và ghi nhớ kiến thức”. Theo Thầy giáo – một giáo viên nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy môn Toán “Với đặc thù của môn học tự nhiên có nhiều công thức, hình khối nên khi sử dụng các hiệu ứng CNTT thì giáo viên chỉ đóng vai trò người hướng dẫn, đặt vấn đề, còn học sinh chủ động xây dựng bài, giải quyết vấn đề. Ngoài ra, sử dụng giáo án điện tử, giáo viên không phải mất nhiều thời gian trình bày hình vẽ trên lớp, nên sẽ có nhiều thời gian hơn cho việc thuyết trình, học sinh phát biểu ý kiến. Bởi vậy công việc của người giáo viên sẽ giảm bớt, đồng thời tạo thói quen chủ động tiếp thu bài giảng cho các em”. Nhận thấy những lợi ích về mặt trực quan sinh động mà giáo án điện tử mang lại nên nhà trường đã quy định các tổ bộ môn trong trường chọn lọc ra những bài giảng phù hợp với phương pháp hỗ trợ của ứng dụng CNTT và phân công các giáo viên soạn bằng hình thức bài giảng điện tử. Đây cũng là yếu tố được đưa vào để xem xét khi bình xét thi đua của giáo viên cuối năm của nhà trường. Có thể khẳng định rằng trong khoảng 5 năm trở lại đây việc ứng dụng CNTT ở các cấp học, bậc học trên địa bàn toàn tỉnh đã có hiệu quả nhất định. Đến thời điểm này cơ bản các trường học ở tỉnh ta đã được kết nối mạng internet tạo thuận lợi để các trường học trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh ứng dụng CNTT; tạo ra phong trào sử dụng ứng dụng CNTT trong các nhà trường. Nhiều giáo viên đã xây dựng được hệ thống giáo án điện tử, mang lại nhiều lợi ích trong việc hỗ trợ dạy và học, góp phần thay đổi phương pháp đọc, chép truyền thống. Tuy nhiên, để soạn được giáo án điện tử cho một bài học trên lớp là một việc làm không đơn giản; đòi hỏi ngoài việc nắm vững kiến thức trong sách giáo khoa, giáo viên cần phải có kỹ năng sử dụng được các phần mềm Tin học thành thạo như trình diễn PowerPoint, E - learning. Đây chính là trở ngại lớn đối với nhiều giáo viên hiện nay. Trình độ Tin học còn hạn chế cũng chính là một trong những lý do khiến nhiều giáo viên hiện nay gặp khó khăn trong việc sử dụng các ứng dụng CNTT. Khi được hỏi về vấn đề này, một giáo viên cho biết thêm, soạn giáo án điện tử vừa tốn nhiều thời gian, trình độ Tin học lại hạn chế nên ít giáo viên “mặn mà” với việc này mà chủ yếu vẫn là gõ văn bản trên máy tính thay vì viết tay như trước đây. Chỉ thỉnh thoảng có tiết thao giảng chúng tôi mới soạn giáo án điện tử để dạy, nhưng cũng phải nhờ cậy đến giáo viên Tin học hỗ trợ. Mặt khác, khó khăn chung của các trường học hiện nay chính là thiếu cơ sở vật chất trang, thiết bị phục vụ bài giảng điện tử; điều này cũng là những trở ngại lớn trong việc khuyến khích giáo viên ứng dụng CNTT để nâng cao chất lượng bài giảng. “Giáo án điện tử đóng vai trò là phương tiện bổ trợ cho giáo viên khi giảng dạy, thế nhưng khó khăn hiện nay là còn có một số giáo viên vì chưa hiểu rõ nên đã sử dụng bài giảng điện tử, để thay thế hoàn toàn bài giảng của mình. Thực tế là không phải bài giảng nào, bộ môn nào cũng sử dụng được giáo án điện tử, vì vậy có những bài giảng không mang lại hiệu quả. Để hạn chế việc lạm dụng CNTT trong soạn giáo án của giáo viên, từ đầu năm học này ngành Giáo dục đã triển khai cho tất cả các trường học rà soát lại năng lực về CNTT của các giáo viên; những giáo viên chưa đủ khả năng sử dụng các kỹ năng Tin học thì không soạn giáo án điện tử. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một nhu cầu bức thiết, trong đó có việc ứng dụng các phần mềm để soạn bài giảng điện tử. Tuy nhiên, để phương pháp dạy và học mới này mang lại hiệu quả, đòi hỏi bản thân mỗi giáo viên phải tự trau dồi các kỹ năng, trình độ Tin học đáp ứng yêu cầu tự xây dựng được bài giảng điện tử. Mặt khác, người giáo viên cần xác định CNTT là công cụ hỗ trợ bài giảng, phục vụ mục đích tham khảo; từ đó kết hợp phương pháp dạy truyền thống để mang lại hiệu quả thực sự trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy chứ không nên chạy theo phong trào. 3. Internet trong giới trẻ Với nhiều người, Internet là một thứ không thể thiếu; một thói quen không kiểm soát nổi. Riêng tại Việt Nam đã có khoảng 15-20 triệu người mắc "bệnh” này. Theo giáo sư trường ĐH Quốc Gia, bốn triệu chứng nghiện Internet chính là: quên thời gian, sao lãng ăn uống và ngủ; tức giận, căng thẳng, bồn chồn khi không thể lên mạng; cần trang bị máy tính mạnh hơn, nhiều phần mềm mới; biểu hiện trầm cảm, hay cáu giận và tách biệt với xã hội. Nghiện Internet – một hành vi gây căng thẳng cho cuộc sống của chính nạn nhân và cho cả gia đình, bạn bè, đồng nghiệp – là một căn bệnh tâm lý đang lan tràn trên toàn thế giới. Hiện nay, có khoảng 70% người có thể đã bị nghiện Internet, số người nghiện net có thể lên đến 80%; trong số đó có từ độ tuổi học sinh cho đến độ tuổi trưởng thành. Chơi game trực tuyến và mạng xã hội là một dạng của nghiện Internet và đang lan tràn nhanh chóng trong giới trẻ. Internet mang theo cùng nó những lợi ích nhưng cả các tác hại. Trong đó có tình trạng vì quá mê mệt Internet mà các con nghiện xao lãng chuyện học hành, thậm chí bỏ học. Họ giảm tiếp xúc với gia đình, bè bạn, sống cô lập trước màn hình máy tính, lặn vào những "chatroom" hay chơi những trò chơi bạo lực. Nói về các con nghiện này, giám đốc bệnh viện - chuyên gia điều trị các loại nghiện thâm niên 20 năm, cho rằng các thiếu niên mắc bệnh này thường là những em có vấn đề về thái độ hành xử, mặc cảm. Họ lên Internet để củng cố sự tự tin. Chính ở trên thế giới mạng, họ có cảm giác chín chắn, thành công. Các con nghiện Internet thường đau khổ vì trầm uất, sợ sệt và không sẵn lòng giao tiếp với người khác. Nhiều em mắc bệnh rối loạn giấc ngủ, tê cóng hai tay. Tuy nhiên, Internet chỉ là chất xúc tác chứ không phải là nguyên nhân gây nghiện. Hầu hết những em gặp trục trặc trong cách hành xử hay thiếu tự tin chỉ bị cơn nghiện Internet làm trầm trọng thêm, mà trong quá khứ, không có Internet, chúng có thể tìm tới tội ác, ma túy, có khi tự tử để đối phó với những vấn đề của mình. Để xử lý vấn đề này, chính phủ Việt Nam đã đồng ý sử dụng phần mềm “ Chống nghiện NET “ do một sinh viên Đà Nẵng sáng tạo ra. Phần mềm giúp người lớn có thể kiểm soát được con em mình. 4. Khi trẻ nhỏ “lạm dụng” thiết bị công nghệ Trong thời đại ngày nay, những thiết bị công nghệ nhỏ gọn, tiện ích không chỉ là "vật bất li thân" của người lớn mà còn trở thành những món đồ chơi có sức hút kì diệu đối với trẻ em ở bất kì độ tuổi nào. Tuy nhiên, đã và đang xuất hiện tình trạng gia tăng đáng báo động của việc để trẻ lạm dụng chơi đồ công nghệ. Đến những gia đình có trẻ nhỏ hiện nay, nhất là ở thành phố và bố mẹ còn trẻ, sẽ dễ dàng bắt gặp cảnh trẻ con miệng vừa ăn tay vừa mân mê nghịch ipad, điện thoại di động, miệng thì vẫn há mà mắt thì cứ dán chặt vào những thiết bị công nghệ. Rồi thì bố mải xem ti vi, mẹ tập trung vào laptop, còn con say sưa với ipad, mỗi người đắm mình vào một thế giới riêng, chẳng ai nói với ai lời nào... Rõ ràng, đã và đang tiềm ẩn một vết rạn nguy hiểm trong mối quan hệ tương tác giữa bố mẹ và con cái. Cuộc sống ngày càng nhiều áp lực và gánh nặng cơm áo gạo tiền đè trĩu lên vai đã khiến không ít những ông bố, bà mẹ sẵn sàng trao niềm hạnh phúc được chơi cùng con, tâm sự cùng con cho iphone, ipad. Thấy con chơi ngoan, ít khóc, đỡ mè nheo, bố mẹ có thêm thời gian nghỉ ngơi và làm những công việc khác nên họ lại càng tăng cường cho con tiếp xúc, chơi những đồ công nghệ. Thậm chí, nhiều ông bố, bà mẹ trẻ hiện nay còn chẳng thiết hát ru hay kể chuyện cổ tích cho con nghe bởi chỉ cần bấm nút "play" trên những ứng dụng đã được cài đặt sẵn trên các thiết bị công nghệ thì mọi thứ ngay lập tức sẽ được thực hiện mà chẳng tốn ít công sức nào... Họ những tưởng, các tiện ích khoa học công nghệ đang làm cho việc nuôi con của họ trở nên dễ dàng hơn, thuận tiện hơn, song kì thực, sự quá lạm dụng này lại đang khiến con họ phải đối mặt với những nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả sự phát triển thể chất, nhân cách và trí tuệ. Sự xuất hiện của những đồ chơi công nghệ nếu chiếm quá nhiều quỹ thời gian của con trẻ sẽ khiến mức độ giao lưu tình cảm giữa cha mẹ và con cái bị giảm sút, mối quan hệ gia đình lẽ ra cần thắt chặt sẽ trở nên lỏng lẻo. Đây là tiền đề dẫn tới sự hình thành lối sống ích kỉ, cá nhân chủ nghĩa ở các em. Lâu dần, trẻ em sẽ không còn chú ý đến những người chung quanh hay những sự việc diễn ra trong thế giới thực nữa mà chỉ "co" mình trong thế giới "ảo" với những đồ công nghệ. Điều này lí giải tại sao tỉ lệ trẻ bị trầm cảm và mắc bệnh tự kỉ ở Việt Nam nói riêng (nhất là ở vùng thành thị) và thế giới nói chung đang có chiều hướng tăng cao. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, việc cho con trẻ tiếp cận quá nhiều với đồ công nghệ cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ lười vận động, suy giảm chức năng miễn dịch, thể trạng yếu ớt và có nguy cơ béo phì. Bên cạnh đó, việc cho trẻ tiếp cận, sử dụng đồ công nghệ thiếu sự kiểm soát của người lớn còn dẫn tới nhiều hệ lụy đáng tiếc khác khi các em truy cập vào những nội dung bạo lực và khiêu dâm trên mạng. Theo thống kê của hãng Kaspersky vào cuối tháng 10/2013, trên thế giới mỗi giờ có đến hơn 160 nghìn lượt truy cập cố gắng tìm vào các trang web "người lớn" được thực hiện bởi trẻ em, trong đó đa số được thực hiện vào khoảng cuối tối, gần đêm, quãng thời gian mà nhiều trẻ được bố mẹ đưa về phòng riêng để đi ngủ. Kết quả này được xác nhận thông qua dữ liệu thu thập trên toàn thế giới bằng công nghệ an ninh mạng của Kaspersky. Chỉ riêng con số này cũng đã đủ sức báo động cho tình trạng trẻ em truy cập vào các trang web "đen". Người ta cứ tự hỏi tại sao tỉ lệ trẻ hóa tội phạm ngày càng tăng với hình thức và mức độ gây án mỗi lúc một dã man hơn, tại sao tỉ lệ nạo phá thai ở trẻ chưa đến tuổi vị thành niên có xu hướng tăng dần? Một trong những nguyên nhân không thể phủ nhận chính là tác động từ việc tiếp xúc quá sớm, quá nhiều với những thông tin không lành mạnh trên mạng thông qua các thiết bị công nghệ. Hơn lúc nào hết, những bậc phụ huynh cần hết sức tỉnh táo khi lựa chọn và định hướng việc sử dụng đồ chơi công nghệ cho con. Nếu không muốn con mình trở thành nô lệ của công nghệ, ngay từ khi con còn nhỏ, những người làm cha, làm mẹ đã cần phải thiết lập một chế độ sử dụng đồ công nghệ hợp lí cho trẻ nhỏ. Sống trong kỉ nguyên số, không thể cấm đoán hoàn toàn con trẻ tiếp cận với công nghệ, song sự tiếp cận đó phải được giới hạn trong chừng mực với sự định hướng, giám sát của phụ huynh. Bố mẹ cũng không được ỷ vào tính năng đa dạng của công nghệ để dùng các thiết bị công nghệ thay mình dỗ dành, giao lưu với con cái.Thiết nghĩ, trẻ em là tương lai, song tương lai đó chắc chắn sẽ không mang tính bền vững nếu trẻ em chỉ đắm mình và trở nên nghiện sử dụng các thiết bị công nghệ mà thiếu đi nền tảng giáo dục vững chắc xuất phát từ trách nhiệm, sự quan tâm, yêu thương từ gia đình, nhà trường và xã hội. VI. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống Có thể nói rằng sự phát triển và phổ biến của Internet là một xu hướng khách quan của tiến trình phát triển xã hội. Nó là kết quả trực tiếp của sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại, của nhu cầu tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế. Internet tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội trong mọi lĩnh vực, nâng cao chất lượng đời sống xã hội. Internet đối với đời sống văn hóa của học sinh, sinh viên là một trong những vấn đề quan trọng, phải có những biện pháp hữu hiệu, thiết thực để học sinh, sinh viên nhận thức đúng đắn bản chất của loại hình truyền thông này. Qua những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực mà Internet mang lại, cùng đưa ra các giải pháp trên, sẽ giúp cho những người quản lý, các nhà hoạch định chính sách có những giải pháp hữu hiệu để quản lý và phát triển Internet một cách đúng hướng, góp phần xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là học sinh những thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước. Các ý kiến trên đều được lấy từ những kinh nghiệm đời sống và dựa vào các cơ sở giải quyết của nhà nước. Nếu biết cách áp dụng và giải quyết đúng đắn, kịp thời và hợp lý với từng người thì chúng ta sẽ ứng dụng tốt mà không bị lạm dụng công nghệ thông tin trong đời sống. Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội, đem lại những lợi ích tốt cho đời sống. Nhưng nếu không sử dụng đúng cách hay quá lạm dụng vào nó thì việc dùng nó trong đời sống là không tốt. Trên đây là một số học hỏi của bản thân tôi về công nghệ thông tin và những hiểu biết dựa trên những gì đã được học, được đọc và được biết về nó. Tôi mong rằng các ý kiến trên sẽ được áp dụng vào thực tiễn và đem lại hiệu quả tốt cho mọi người. Chúc cho những người đã, đang và sẽ lạm dụng nó có những biện pháp để tránh va vào nó khi không cần thiết.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan