Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Văn hóa ứng xử của người phụ nữ việt miền tây nam bộ trong quan hệ gia đình và x...

Tài liệu Văn hóa ứng xử của người phụ nữ việt miền tây nam bộ trong quan hệ gia đình và xã hội (trường hợp tỉnh tiền giang)

.PDF
27
250
102

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----oOo----- LƯU CÔNG MINH VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT MIỀN TÂY NAM BỘ TRONG QUAN HỆ GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI (TRƯỜNG HỢP TỈNH TIỀN GIANG) Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC Mã số: 62.31.70.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2020 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG HCM. Cán bộ hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. PHAN AN 2. TS. MAI MỸ DUYÊN Phản biện độc lập: 1. 2. Phản biện: 1. 2. 3. Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp cơ sở đào tạo tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQGHCM vào ngày……….. tháng………năm……… Có thể tìm hiểu luận án tại: NHỮNG CÔNG BỐ KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN 1. Lưu Công Minh. (2019 a). Vai trò, tính cách của phụ nữ Việt dưới góc nhìn văn hóa giới. Tạp chí Khoa học Giáo dục, số Đặc Biệt, 6/2019, trang 297-301, (ISN 0868-3662). 2. Lưu Công Minh. (2019 b). Những đóng góp của phụ nữ Việt miền Tây Nam Bộ cho đất nước. Tạp chí Khoa học ĐH Sài Gòn, số 6 , 3/2019, trang 53-59 (ISN 1859-3208). 3. Lưu Công Minh. (2019 c). Phụ nữ Việt miền Tây Nam Bộ trong quan hệ gia đình. Tạp chí Khoa học ĐH Sư Phạm Tp. HCM (ISN 1859-3100). 1 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Văn hóa ứng xử được hiểu là hành vi giao tiếp, cách đối nhân xử thế của con người trong đời sống. Văn hóa ứng xử thể hiện trình độ học vấn và nhận thức của cá nhân, cộng đồng và rộng hơn nữa là dân tộc. Văn hóa ứng xử thể hiện bên ngoài qua các hành vi như giao tiếp trong cộng đồng xã hội và thể hiện bên trong qua các chuẩn mực, giá trị đạo đức, văn hóa. Nghiên cứu về văn hóa ứng xử để thấy được sự biến đổi của nó trong bối cảnh xã hội hiện nay cũng góp phần phản ánh và thấy được sự phát triển nói chung của xã hội trên bình diện văn hóa, văn minh. Những nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt ở miền Tây Nam Bộ đã để lại nhiều dấu ấn trong đời sống văn hóa và được phản ánh rất rõ nét qua “thi, ca, nhạc, họa”, qua những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu văn hóa học, tâm lý học, xã hội học. Trong đời sống hiện nay, văn hóa ứng xử của phụ nữ Việt ở Tây Nam Bộ không chỉ thể hiện dấu ấn sự tương tác của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh mà còn là cơ sở nền tảng cho sự phát triển của gia đình, xã hội, cao hơn là sự phát triển của cả vùng miền có những đặc trưng riêng vốn có như Tây Nam Bộ. Tiền Giang, vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, đa dạng về tự nhiên, đa dạng về kinh tế và văn hóa; là nơi sinh ra những người phụ nữ cho đời sau tự hào về quê hương xứ sở của mình. Tuy vậy, dưới tác động của nền kinh tế thị trường và giao lưu văn hóa, không chỉ kinh tế mà các vấn đề về văn hóa nói chung, văn hóa giới và văn hóa ứng xử của người phụ nữ nói riêng ở Tiền Giang đang có những biến đổi nhất định. Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa ứng xử của người phụ nữ nơi đây trong gia đình và xã hội. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn: “Văn hóa ứng xử của người phụ nữ Việt miền Tây Nam Bộ trong quan hệ gia đình và xã hội (Trường hợp tỉnh Tiền Giang)” để làm đề tài nghiên cứu của luận án. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 2.1. Các công trình nghiên cứu về vùng đất Tây Nam Bộ và văn hóa vùng Tây Nam Bộ. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu: Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam; Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Tây Nam Bộ (từ khởi thủy đến năm 1945) của tập thể tác giả do Trần Đức Cường chủ biên; Vùng Văn hóa Nam Bộ: Định vị và 2 đặc trưng văn hóa của Lý Tùng Hiếu; Văn hóa và cư dân đồng bằng Sông Cửu Long của Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1990... 2.2. Các công trình nghiên cứu về gia đình và văn hóa ứng xử trong gia đình: Có thể kể đến các công trình tiêu biểu: Phạm Minh Thảo, Văn hóa ứng xử của người Việt (2003); Gia đình học (2009) của tác giả Đặng Cảnh Khanh – Lê Thị Quý; Sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hôn nhân gia đình giữa các thế hệ người Việt Nam hiện nay của Lê Thi (2009); Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình (2003) của Nguyễn Linh Khiếu; Nguyễn Hữu Minh, Các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam: Các vấn đề cần quan tâm (Xã hội học số 4 (120), 2012)… 2.3. Các công trình nghiên cứu về phụ nữ Tây Nam Bộ và phụ nữ Tiền Giang. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu: Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ của Trần Ngọc Thêm chủ biên (2014); “Tìm hiểu giá trị văn hóa của người Việt ở Nam Bộ: Trường hợp người con gái Út” (2015) của Phan An; “Tìm hiểu ý thức, tình cảm, thái độ giao tiếp của người Nam Bộ qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh” (2015) của Nguyễn Văn Nở, Huỳnh Thị Lan Phương; “Người phụ nữ trong văn hóa người Việt miền Tây Nam Bộ (qua tư liệu ca dao)" của Phan Thị Kim Anh (2019);... Trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước, luận án sẽ tập trung làm rõ văn hoá ứng xử của người phụ nữ Việt ở Tiền Giang trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận án hướng đến làm rõ đặc điểm văn hóa ứng xử của phụ nữ ở miền Tây Nam Bộ, cụ thể là ở Tiền Giang, trong xây dựng gia đình và hoạt động xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ: Làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của đề tài; Nghiên cứu văn hóa ứng xử của phụ nữ ở Tiền Giang thông qua các mối quan hệ trong gia đình và các mối quan hệ xã hội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: 3 Văn hoá ứng xử của người phụ nữ Việt từ 18 tuổi trở lên ở Tiền Giang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian: Từ năm 2007 đến nay (2018); Phạm vi không gian: Tỉnh Tiền Giang. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tổng hợp, phân tích và thống kê; Phương pháp điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi; Phương pháp phỏng vấn sâu; Phương pháp phỏng vấn chuyên gia; tiếp cận theo hướng liên ngành. 6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 6.1. Câu hỏi nghiên cứu: Luận án tập trung làm rõ các câu hỏi: Vai trò, vị thế của phụ nữ ở Tiền Giang nói riêng và Tây Nam Bộ nói chung được xác lập dựa trên những điều kiện gì? Văn hóa ứng xử của phụ nữ ở Tiền Giang trong quan hệ gia đình có gì đặc biệt? Văn hóa ứng xử của phụ nữ ở Tiền Giang trong các mối quan hệ xã hội được thể hiện ra sao và ý nghĩa của nó?… 6.2. Giả thuyết nghiên cứu: Những đặc trưng về điều kiện tự nhiên cũng như đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của miền Tây Nam Bộ tác động rất lớn đến văn hóa ứng xử của người phụ nữ ở Tiền Giang, biểu hiện thông qua các hoạt động, các mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Những đóng góp của họ trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội cần được khẳng định và phát huy trong tiến trình giao lưu và hội nhập quốc tế. 7. Đóng góp của đề tài 7.1. Về mặt khoa học: Luận án góp một phần nhỏ bổ sung tri thức vào lý luận của văn hóa học Việt Nam, làm cơ sở cho việc nghiên cứu và soạn thảo các công trình về văn hóa; khẳng định những giá trị văn hóa ứng xử bền vững, phổ biến, nổi trội của người phụ nữ Tiền Giang trong gia đình và xã hội; khẳng định hướng tiếp cận nghiên cứu văn hóa ứng xử là một trong những con đường phù hợp mang lại giá trị khoa học và có ý nghĩa thiết thực. 7.2. Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần cung cấp những cứ liệu quan trọng nhằm khẳng định vai trò, vị thế của phụ nữ Tiền Giang trong việc thúc đẩy sự phát 4 triển của gia đình và xã hội thông qua văn hóa ứng xử. Luận án cung cấp các thông tin hữu ích giúp các cấp, các ngành liên quan có thêm góc nhìn nhằm đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy vai trò, vị thế của mình trong thời kỳ hội nhập. 8. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung của luận án được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về địa bàn nghiên cứu; Chương 2: Văn hóa ứng xử của phụ nữ Việt ở tỉnh Tiền Giang trong mối quan hệ với gia đình; Chương 3: Văn hóa ứng xử của người phụ nữ Việt ở tỉnh Tiền giang trong mối quan hệ xã hội CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài a. Văn hóa và văn hoá ứng xử Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người và môi trường xã hội của mình (Trần Ngọc Thêm, 1996, tr.27). Văn hóa ứng xử là hệ thống tinh tuyển những nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người và các đối tượng khác nhau, thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý,… trong quá trình phát triển và hoàn thiện đời sống, đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa, trở thành chuẩn mực của cá nhân, nhóm xã hội, toàn bộ xã hội; phù hợp với đời sống xã hội, với đặc trưng, bản sắc của văn hóa một dân tộc, một quốc gia,… được cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã hội, thừa nhận và làm theo. b. Gia đình và văn hoá gia đình Dưới góc độ văn hóa học, theo quan điểm của chúng tôi “gia đình là một tổ chức cơ sở gắn bó với nhau bằng huyết thống, tình nghĩa, xây dựng thành một tổ ấm tinh thần và vật chất để giáo dục con cái, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc”. Văn hóa gia đình là dạng đặc thù của văn hóa cộng đồng bao gồm tổng thể sống động các hoạt động sống của gia đình mang đặc trưng văn hóa bị chi phối bởi các giá trị, chuẩn mực, truyền thống, thị hiếu của một cộng đồng mà các 5 thành viên trong gia đình đã chọn lựa và ứng xử với nhau trong gia đình và ngoài xã hội. 1.1.2. Lý thuyết nghiên cứu Địa văn hóa: L thuyết địa văn hoá coi trọng đến vai trò của các điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa lí đối với việc hình thành và phát triển của nền văn hoá (và cả kinh tế – địa kinh tế) của mỗi cộng đồng, tộc người, và rộng hơn là của mỗi quốc gia, đất nước. Luận án dựa vào các điều kiện địa lý, khí hậu (vị thế đại văn hoá, chính trị, kinh tế của Tiền Giang) để nghiên cứu về sắc thái văn hóa ứng xử trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế của tỉnh; đặt trong mối quan hệ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sử dụng lý thuyết địa văn hóa để khẳng định và phân tích văn hóa ứng xử của người phụ nữ Tiền Giang được hình thành dựa trên khía cạnh con người tương tác với thiên nhiên, văn hóa tương tác với địa lý. Lý thuyết chức năng (Functionalism). Lí thuyết này xem xét xã hội như một hệ thống phức tạp, trong đó các bộ phận vừa có mối quan hệ với nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển và ổn định. Trong nghiên cứu về văn hoá, quan điểm của thuyết chức năng coi trọng sự khác biệt về văn hoá. Thuyết này khẳng định: Nhờ sự khác biệt mà trong từng bộ phận/thành tố xã hội có sự bổ sung cho nhau để vận hành một cách ổn định. Giới và vấn đề giới trong nghiên cứu văn hoá: Khái niệm “Giới” dùng để chỉ sự khác biệt về vai trò xã hội giữa nam và nữ trên bình diện vai trò, thái độ ứng xử và các giá trị của họ. Văn hóa giới (cultural gender) là một khái niệm rộng, trong đó quy định sự khác nhau của vai trò nam và nữ trong một nền văn hoá. Theo Phan Thị Kim Anh, văn hoá giới “là văn hóa về những yếu tố của giới khác nhau giữa các nền văn hóa và bên trong các nền văn hóa. Việc thể hiện giới tính hay vai trò giới là một nhóm các chuẩn mực hành vi gắn liền với nam giới hay nữ giới được nền văn hóa xã hội quy định và chấp nhận”. 1.1.3. Quan điểm của Nhà nước về công tác phụ nữ thời kỳ đổi mới Quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ được thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thể hiện quá trình phát triển về mặt nhận thức của Đảng ta về vấn đề phụ nữ, góp phần đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và phấn đấu “đến năm 2020, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. 6 1.2. Khái lược về miền Tây Nam Bộ 1.2.1. Điều kiện lịch sử, tự nhiên, kinh tế – xã hội miền Tây Nam Bộ Miền Tây Nam Bộ được hình thành gắn bó với quá trình khai hoang của người Việt và việc xác lập chủ quyền của Nhà nước phong kiến cách đây hơn 300 năm trước. Vùng đồng bằng sông Cửu Long là một bình nguyên rộng lớn của Việt Nam, đây là vựa lúa của miền Nam Việt Nam. Đất đai miền châu thổ Cửu Long hầu hết là đất phù sa. Tuy nhiên, cũng như bất cứ một châu thổ nào, thành phần lý học của đất rất biến thiên. Các đất ven sông thường là thịt pha cát, cũng như các dãy duyên hải xưa cũ, chạy song song với bờ Biển Đông (còn gọi là giồng). Đất đai xa bờ sông có thành phần sét nặng, ẩm, đọng nước. Ngoài ra, còn có đất phèn, đất mặn, đất than bùn,… 1.2.2. Khái lược về tỉnh Tiền Giang Năm 1753, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho lập đạo Trường Đồn gồm đất Mỹ Tho và Cao Lãnh rộng đến biên giới Cao Miên. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam thống nhất, hai bờ Nam Bắc được nối liền. Năm 1976, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho hợp nhất thành tỉnh mới là Tiền Giang. Ngày 01 tháng 3 năm 1976, tỉnh Tiền Giang chính thức đi vào hoạt động cho đến tận ngày nay. Thực vật tự nhiên ở Tiền Giang mang đặc trưng chủ yếu của hệ thực vật vùng ngập mặn ven biển, bao gồm: Rừng ngập mặn phân bố ven biển, hệ thực vật rừng nước lợ và hệ thực vật vùng đất phèn hoang. Tài nguyên động vật chủ yếu của Tiền Giang là thủy sản, bao gồm các loài thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Trên địa bàn tỉnh có khoảng 157 loài tảo, 66 loài động vật đáy thuộc khu vực nội địa... Tiền Giang là tỉnh nghèo khoáng sản, đây là đặc điểm chung của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Các loại khoáng sản chính của tỉnh gồm có: Than bùn, đất sét để làm gốm, cát sông. 1.3. Vai trò, vị thế của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Việt ở Tiền Giang 1.3.1. Vai trò, vị thế của phụ nữ Việt trong gia đình Có thể nói đến các vai trò chính của người phụ nữ trong gia đình như:Vai trò làm vợ; Vai trò làm mẹ; Vai trò tham gia sản xuất tạo thu nhập cho gia đình; Vai trò làm dâu. Vai trò nào, người phụ nữ cũng đều cho thấy sự ảnh hưởng và tính chất quan trọng của mình đối với gia đình và các thành viên trong gia đình. Tóm lại, trong quá trình phát triển của 7 xã hội, nếu vị trí, vai trò của phụ nữ trong đời sống kinh tế, chính trị thể hiện có lúc rất mờ nhạt, còn vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình luôn thể hiện đậm nét, xuyên suốt qua hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn phát triển của xã hội mà vai trò phụ nữ đối với gia đình mình và gia đình chồng được thể hiện ở mức độ khác nhau. 1.3.2. Vai trò, vị thế của phụ nữ Việt trong xã hội hiện nay Phụ nữ Việt Nam đã trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau của dân tộc và đất nước. Từ những người được xem là lệ thuộc, thụ động trong gia đình, phụ nữ Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ để ngang hàng, bình quyền với nam giới trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Phụ nữ đã dần khẳng định mình ở các vai trò lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức không chỉ về mặt số lượng mà còn cả về chất lượng. Phụ nữ Việt Nam ngày nay đã có mặt trong hầu hết các lĩnh vực, trong an ninh, quân đội, trong xây dựng, kinh doanh; giỏi việc nước đảm đang việc nhà, đem lại sự bình quyền nam nữ, đóng góp nhiều cho xã hội, cho công cuộc phát triển của đất nước. Tiền Giang với dân số hơn 1,7 triệu người, trong đó Phụ nữ chiếm trên 50%. Hệ thống tổ chức Hội hiện có 11 Hội Phụ nữ cấp huyện và 4 đơn vị trực thuộc. Phong trào phụ nữ toàn tỉnh Tỉnh Tiền Giang hiện nay có đổi mới và phát triển, công tác tuyên truyền, nâng cao kiến thức về pháp luật, bình đẳng giới được quan tâm; nhận thức về chính trị, kinh tế – xã hội có chuyển biến tích cực; nhiều mô hình hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững có hiệu quả, phụ nữ tham gia ngày càng tích cực các phong trào thi đua yêu nước nhất là phong trào thi đua phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc và cuộc vận động “Xây dựng Gia đình 5 không, 3 sạch’’, tham gia xây dựng nông thôn mới... góp phần tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh nhà. CHƯƠNG 2: VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA PHỤ NỮ VIỆT Ở TỈNH TIỀN GIANG TRONG QUAN HỆ GIA ĐÌNH 2.1. Văn hoá ứng xử của người phụ nữ Việt ở tỉnh Tiền Giang với các thành viên trong gia đình 2.1.1. Với chồng a. Trong quản lý kinh tế gia đình 8 Người phụ nữ trong gia đình với truyền thống văn hoá người Việt vẫn được xem là người "tay hòm chìa khoá". Hiện nay, lực lượng tham gia lao động trong hoạt động kinh tế gia đình phát triển đáng kể chiếm khoảng 70% lực lượng lao động xã hội. Qua số liệu khảo sát tại Tỉnh Tiền Giang, hiện có khoảng 35,6% phụ nữ làm việc nội trợ trong gia đình, 64,4% phụ nữ có công việc tạo thu nhập bên ngoài. Tỷ lệ phụ nữ có công việc bên ngoài tại thành phố Mỹ Tho cao hơn các huyện. Từ các khảo sát trên cho thấy: Trong mối quan hệ vợ chồng đối với vấn đề quản lý kinh tế gia đình, để có thể nâng cao quyền quyết định của mình người phụ nữ cần khéo léo trong ứng xử với người bạn đời của mình. Văn hóa ứng xử giúp phụ nữ nâng cao vai trò vị thế của mình trong quản lý kinh tế gia đình. b. Trong tổ chức đời sống gia đình Điều kiện địa hình, khí hậu là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến tính cách, thói quen của con người và tình trạng gia đình. Tổ chức đời sống gia đình của người Việt vùng Tây Nam Bộ có vai trò quan trọng hơn hẳn so với cộng đồng người Việt vùng Bắc Bộ và Trung Bộ. Nếu như người miền Bắc chú trọng tập thể làng xã thì người Tây Nam Bộ chú trọng đến gia đình. Người phụ nữ ở Tiền Giang không quá chú trọng đến lễ nghi, hình thức nên các mối quan hệ trong gia đình rất nhẹ nhàng và vai trò của người vợ – người mẹ cũng không kém phần quan trọng trong gia đình như người cha. Số liệu cho thấy, những người vợ có vai trò quyết định khoảng 70% đối với công việc mua thức ăn, mua quần áo, mua văn hóa phẩm; gần 50% trong các công việc như: Trang trí nhà cửa, phân công việc trong gia đình; và khoảng 20% trong các công việc khác. c. Trong quan hệ tình cảm Nét văn hóa đặc trưng trong đời sống gia đình của phụ nữ ở Tiền Giang là họ rất xem trọng tình cảm, thủy chung, nhưng họ không ghen tuông quá đỗi. Người phụ nữ Tiền Giang nói chung họ rất giàu tình cảm, dường như tình cảm chế ngự lý trí nên đôi khi trong đời sống vợ chồng xảy ra xung đột họ rất dễ bỏ qua, tha thứ cho chồng con. Người phụ nữ ở Tiền Giang do tính cách vốn phóng khoáng, giản dị, hiền lành nên họ rất dịu dàng, tình cảm. Trong đời sống hôn nhân gia đình họ luôn là người làm nên mái ấm của gia đình, nồng nàn và đầy yêu thương. Do ảnh hưởng bởi đặc điểm địa lý vùng miền, điều kiện sản xuất kinh tế, đa số người phụ nữ Tiền Giang gắn bó với ruộng đồng, từ đó hình 9 thành nên đức tính chịu thương chịu khó trong cuộc sống. Họ không ngại nắng mưa, tảo tần dành trọn tấm lòng cho gia đình, thầm lặng hy sinh cho hạnh phúc của gia đình. Người phụ nữ Tiền Giang luôn nhún nhường không so đo thiệt hơn với chồng trong những lúc cãi vã. Họ luôn tìm cách dung hòa bầu khí trong gia đình để tránh xảy ra xung đột, mang lại không khí hòa thuận trên dưới an bình. 2.1.2. Với con cái a. Trong chăm sóc hàng ngày Trong nét văn hóa đậm chất miền Tây, người mẹ luôn là chiếc cầu nối các thành viên trong gia đình qua bàn tay chu đáo khéo léo, tỉ mỉ. Tiền Giang nổi tiếng với hương vị đồng quê hay miệt vườn. Bữa cơm hằng ngày không quá cầu kỳ cao lương mỹ vị, nhưng thay vào đó là những con cá đồng mà họ vừa bắt được, nắm rau sau vườn như bài hát “còn thương rau đắng mọc sau hè” cũng đã đủ mang lại cho họ bữa cơm ấp cúng, đậm hương vị đồng quê. Người Tiền Giang nức tiếng bữa cơm cá kho tộ với canh chua. Kết quả khảo sát tại tỉnh Tiền Giang về thời gian làm các việc gia đình của chị em phụ nữ như sau: Đối với phụ nữ tại các huyện thị xã công việc gia đình chiếm 24,9% thời gian 24 tiếng tương đương 7,05 giờ/ngày. Đối với phụ nữ thành phố Mỹ Tho công việc gia đình hằng ngày chiếm 57,1% gần gấp đôi phụ nữ vùng huyện, thời gian nhiều nhất dành cho việc chăm sóc con và chăm sóc ông bà. Tổng thời gian làm việc gia đình hằng ngày là 10,03 giờ/ngày. b. Trong việc giáo dục Ngày xưa, người Tiền Giang hay giáo dục con cái qua những lời ru, tiếng hát hay những câu chuyện, điển tích... Ngày nay, mặc dù không chịu nhiều ảnh hưởng của nét văn hóa xóm làng, cộng đồng nhưng người phụ nữ Tiền Giang cũng giáo dục con cái trong tinh thần tình làng nghĩa xóm. Giáo dục con cái tinh thần tương trợ, giúp đỡ xóm làng khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống. Sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái trong gia đình không chỉ dừng lại ở việc dạy dỗ, khuyên bảo, xử phạt mà còn phải khen thưởng hay khuyến khích động viên. Nhìn chung, trong giáo dục con cái người phụ nữ Tiền Giang hiện đại thường dịu dàng, nhẹ nhàng, họ thường xuyên áp dụng các phương thức giáo dục con cái tiên tiến. Họ không quá gay gắt nghiêm khắc, không dùng đòn roi để răn đe con cái như thế hệ đi trước mà họ dùng điều đơn giản nhất để con hiểu và sống tốt đó chính là làm gương. 10 2.1.3. Ứng xử với cha mẹ hai bên a. Với cha mẹ ruột Ngày xưa để giáo dục chữ hiếu cho con cái, người ta thường phải nhắc nhở về bổn phận và trách nhiệm. Nét cơ bản trong văn hóa gia đình người Việt ở Tiền Giang là họ sống tình cảm, bình đẳng giới. Người phụ nữ Tiền Giang thích ở với cha mẹ ruột, không muốn theo chồng, vì vậy miền Tây thường hay có ở rể, con rể cũng được xem như là con ruột trong gia đình. Có khi sau cưới hỏi, con gái về nhà chồng ở được vài tháng hay vài năm họ muốn dọn về nhà cha mẹ ruột ở vì họ thấy thoải mái khi ở gia đình, bên cạnh đó người con gái cũng có thời gian chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ lúc xế chiều. b. Với cha mẹ chồng Về nét đặc trưng cơ bản của con dâu ở Tiền Giang cũng giống như những nàng dâu vùng miền khác. Với sự thay đổi cơ bản của xã hội và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội cũng đã thay đổi nên vai trò, chức năng làm dâu cũng khác. Nàng dâu ở Tiền Giang thời hiện đại đã thoát khỏi thân phận “ăn gửi, ở nhờ”. Họ được tự chủ hơn trong gia đình, có tiếng nói hơn bên nhà chồng. Nàng dâu ấy cũng được chấp nhận là thành viên trong gia đình chứ không phải là “người làm mướn không công”. Nhưng nàng dâu hiện tại lại vấp phải những mâu thuẫn mới trong gia đình bên nhà chồng, có khi sự hiện đại hóa của bản thân các nàng dâu lại làm cho gia đình bên chồng bất mãn do sự ngông cuồng, thiếu lễ giáo, đức độ trong hành vi, lời nói và thiếu tôn trọng cha mẹ chồng. Các nàng dâu ở Tiền Giang tuy sống riêng nhưng họ vẫn quan tâm, chăm sóc và tỏ lòng kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ chồng vì cha mẹ chồng là người sinh và chăm sóc chồng mình khôn lớn và cũng là ông bà của con mình. 2.1.4. Với anh chị em a. Với anh chị em ruột thịt Người phụ nữ miền Tây lúc xưa họ không được cha mẹ chia cho của cải trong gia đình cũng như quyền thừa kế “nhất trưởng nam nhì con trai út”, họ không có tài sản hay của cải nào cha mẹ cho do quan niệm "lấy chồng theo chồng" nên không được chia phần gia tài, họ chỉ được quà mừng trong ngày cưới gọi là của hồi môn, ngoài ra họ không được chia nhà cửa hay đất đai. Nhưng người phụ nữ vẫn xem trọng tình cảm anh chị em ruột thịt trong gia đình, không vì gia tài mà chia rẽ hay xung đột, kiện 11 tụng nhau. Nhưng xét theo khía cạnh khác thì người miền Tây Nam Bộ vốn dĩ sống tình cảm, nên dù sao đi nữa họ cũng rất quý trọng tình cảm ruột thịt trong gia đình. Khi anh chị em gặp khó khăn, hoạn nạn họ sẵn lòng giúp đỡ. Chúng ta ít thấy những trường hợp anh em vì tài sản thừa kế mà tàn sát hay kiện tụng nhau, "cạn tàu ráo máng" với nhau... b. Với anh chị em bên chồng Nếu như anh em rể người miền Tây hay gọi là cột chèo thường rất gần gũi và khắng khít với nhau, tỏ ra thân thiết thì chị em chồng, hay em dâu ngược lại chẳng mấy khi hòa thuận với nhau. Chị em dâu hay chị em chồng thường không hòa thuận do nhiều nguyên nhân như sự khác biệt về địa vị, quan niệm, lợi ích kinh tế, cách phân chia công việc trong gia đình… Các mối quan hệ họ hàng bên nhà chồng, họ cũng dành thời gian thăm viếng, khi hiếu hỉ hay tang chế họ dành thời gian đến để phụ giúp, vào các ngày lễ Tết họ cũng tặng chút quà lấy thảo với dòng họ hay lì xì cho con cháu, phụ nữ Tiền Giang biết khéo léo tạo mối quan hệ tốt đẹp với họ hàng bên chồng và rộng lượng giúp đỡ trong khả năng cho phép. 2.2. Văn hóa ứng xử của phụ nữ Việt ở tỉnh Tiền Giang trong các nghi lễ truyền thống ở gia đình 2.2.1. Trong lễ tết truyền thống và nghi lễ thờ cúng tổ tiên Quá trình khảo sát, chúng tôi được biết, việc chuẩn bị bị cho lễ tết của người Tiền Giang cũng giống với người miền Tây nói chung. Những ngày giáp tết, họ bắt đầu dọn dẹp nhà cửa và mua sắm. Công việc này được cả nhà cùng làm, trong đó việc dọn dẹp nhà cửa không chỉ có người phụ nữ mà cả người đàn ông. Riêng việc chợ búa những ngày giáp tết thì vai trò người phụ nữ nổi bật, việc cúng kiếng lại là của đàn ông. Nếu nhìn một cách sâu hơn, ta có thể thấy sự phân chia vừa bình đẳng vừa mang tính chất giới trong việc chuẩn bị mâm lễ tết cúng ông bà của người Tiền Giang nói riêng và người miền Tây nói chung. Việc đi chợ ngày tết, làm mâm cơm cúng ông bà ngày 30 tết dường như làm một nhiệm vụ mang tính thiên chức nữ giới. Khi chúng tôi hỏi về điều này, và sự vất vả của công việc nội trợ ngày tết, hầu như không có một than vãn hay trách cứ nào về sự vất vả của hai công việc nói trên. Dường như tính mặc định/ thiên chức nữ đã được phát huy cao độ trong công việc, không gian, thời gian này. Người phụ nữ dồn tất cả sức lực, tình yêu thương gia đình, lòng kính trọng, hiếu thảo của mình để chuẩn bị mâm cỗ ngày tết. Họ làm với tất cả hạnh phúc lẫn trách nhiệm, xem như một trách nhiệm vinh quang 12 hơn là công việc thông thường. Bên cạnh đó, việc dọn dẹp bàn thờ và bày mâm ngũ quả và cúng bái trong nhà lại thuộc về “đặc quyền” của đàn ông. Họ cũng làm việc này với tất cả lòng thành kính, ngưỡng vọng và hiếu thảo hướng về ông bà tổ tiên. Nếu quan sát kỹ hơn, các vấn đề về văn hoá truyền thống cũng như có tính giáo dục con cái sẽ rất cao qua các công việc, nghi thức của mâm cỗ ngày tết. Qua việc thờ cúng ông bà, tổ tiên bằng việc làm gương, luôn thành kính đều đặn nhang khói mà vô hình dung người phụ nữ Tiền Giang đã khéo léo răn dạy con cháu luôn tưởng nhớ đến công ơn của ông bà, tổ tiên. Người phụ nữ có vai trò quan trọng trong việc lan tỏa niềm tin về sự phù hộ chở che của ông bà, tổ tiên đến với thế hệ con cháu nhằm giúp con cháu hướng thiện, sống tốt với gia đình và những người xung quanh. 2.2.2. Trong các nghi lễ chu kỳ đời người Trong các gia đình ở Tiền Giang, đối với việc đặt tên con thường do ông bà nội đặt. Tuy vậy, việc này được tham khảo kỹ lưỡng bên nhà ngoại để tránh trùng tên với những người lớn. Trong các nghi lễ cưới xin cho con, vai trò của người phụ nữ cũng hết sức được chú trọng. Nhìn một cách hệ thống, đám cưới của người Việt phản ánh 2 quy tắc ứng xử cơ bản: Quy tắc ứng xử trong gia đình, dòng tộc và Quy tắc ứng xử trong cộng đồng. Với tư cách là một trong các sự kiện trọng đại của đời người (lấy vợ/chồng, sinh con, làm nhà), đám cưới của người Việt là vấn đề đặc biệt quan trọng không chỉ của cá nhân mà còn là của gia đình, gia tộc. Trong đám cưới và qua đám cưới, các quy tắc ứng xử trong gia đình, gia tộc được thể hiện qua các nghi lễ; lòng hiếu thảo và nhớ ơn tiên tổ, ông bà cha mẹ. Ở đây, vai trò cố kết gia đình, gia tộc của người phụ nữ một lần nữa được đặc biệt thể hiện. Ma chay (tang lễ): Cũng giống như trong phong tục hôn nhân, người Việt ở Tiền Giang có những nét đặc trưng riêng. Khi có người thân trong gia đình mất, họ thường hay chôn trong phần đất của gia đình hoặc ngay bên nhà vì họ quan niệm rằng linh hồn của người chết sẽ chứng kiến sự thay đổi, phù hộ cho con cháu và họ cũng được nhìn thấy người chết hằng ngày. Trong hình thức phát tang, người Việt ở Tiền Giang không có nghi lễ phức tạp, những tập tục rườm rà. Phong tục người Việt ở Tiền Giang có xu hướng làm cho không khí đám tang nhẹ nhàng, con cháu của những người đã mất thường không khóc than, kể lể, rên xiết như người miền Bắc hay miền Trung. Nhìn chung, phong tục và ứng xử trong nghi lễ ma chay của người Việt ở Tiền Giang phản ánh những nét cơ bản của phong tục người Việt 13 nói chung, đồng thời cũng có những sắc thái giản tiện, phương Nam trong cách tổ chức. 2.3. Nét đặc trưng văn hóa ứng xử của phụ nữ Việt ở tỉnh Tiền Giang trong quan hệ gia đình 2.3.1. Văn hóa ứng xử thiết thực, bình đẳng và tương trợ trong quan hệ vợ chồng Nét đặc trưng văn hoá ứng xử của người phụ nữ Tiền Giang trong gia đình trước hết phải nói đến việc ứng xử trong mối quan hệ vợ chồng. Ở phương diện này phải kể đến tính thiết thực, tương trợ và bình đẳng của người phụ nữ trong mối quan hệ với chồng. Quan hệ vợ chồng của người Tây Nam Bộ nói chung và người Tiền Giang nói riêng quan tâm đến các giá trị thiết thực, linh hoạt, hỗ trợ nhau trong đời sống nhiều hơn là tính lễ nghĩa. Theo đó, trong sinh hoạt, từ ăn uống, (từ cách ngồi ăn trong gia đình cho đến thái độ và cách ăn, người phụ nữ vẫn nặng về tính phục vụ, chăm sóc) hay các vấn đề về giáo dục con cái, vai trò của người đàn ông vẫn có tiếng nói quyết định. Trong quá trình khảo sát văn hoá ứng xử của người phụ nữ Việt ở Tiền Giang, chúng tôi tuyệt nhiên không thấy gia đình nào quá gia trưởng kiểu chồng chúa vợ tôi hoặc kiểu lễ nghi khách sáo trong cách xưng hô, giao tiếp vợ chồng. Người phụ nữ Tiền Giang gọi chồng mình bằng ông và xưng tui cũng một biểu hiện của sự bình đẳng này. Tính bình đẳng còn được thể hiện ngay cả trong quan hệ luyến ái vợ chồng. Khái niệm cắn răng, nhắm mắt “chiều chồng” cũng ít khi tồn tại trong đa số người phụ nữ Tiền Giang. Khi chúng tôi hỏi: Trong đời sống vợ chồng, trước cô có phải thường xuyên chịu đựng hay cố chiều chồng quan hệ khi bản thân mình không thích hoặc chưa sẵn sàng? Đa số người phụ nữ được hỏi đều trả lời là không. Họ chỉ thực hiện việc đó khi họ thích và bày tỏ thái độ dứt khoát khi mình không thích. 2.3.2. Văn hóa ứng xử linh hoạt, bình đẳng trong việc phụng dưỡng cha mẹ hai bên Trong mối quan hệ với gia đình gia tộc họ hàng nội ngoại, đặc biệt là gia đình bên ngoại, người phụ nữ Việt ở Tiền Giang cũng có những ứng xử khá đặc biệt. Một số nơi ở Tây Nam Bộ và Tiền Giang, nhiều phụ nữ khi đi lấy chồng, ngoài việc chăm lo cho gia đình bên chồng, họ vẫn về chăm lo cho gia đình mình, thậm chí rước bố mẹ về phụng dưỡng mà không sợ anh em (ruột thịt) hay hàng xóm láng giềng dị nghị. Nhiều cô, khi bố mẹ mất, họ rước ảnh, lập bàn thờ ở nhà mình và hoàn toàn nhận 14 được sự đồng thuận của chồng và con. Thêm một minh chứng nữa cho lối ứng xử bình đẳng, tương đồng giữa nội ngoại, vợ chồng mà người phụ nữ Tây Nam Bộ thể hiện. Nhìn chung, trên nền tảng tư tưởng trọng tình của người Việt, khi vào vùng đất mới, người Tiền Giang nói riêng và Tây Nam Bộ nói chung đã thể hiện một sắc thái trọng tình, phóng khoáng rất Nam Bộ. Họ đơn giản, bổ bã mà không hời hợt; cụ thể, thực tế chứ không cầu kỳ. Rõ ràng, tính thẳng, thật, chân tình của người miền Tây đã vượt qua những rào cản và khuôn khổ của lễ giáo nhưng vẫn giữ được nét căn cốt nghĩa tình của người Việt nói chung. CHƯƠNG 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA PHỤ NỮ VIỆT Ở TỈNH TIỀN GIANG TRONG QUAN HỆ XÃ HỘI 3.1. Văn hóa ứng xử của phụ nữ Việt ở Tiền Giang trong quan hệ ở nơi cư trú và nơi làm việc 3.1.1. Trong cộng đồng dân cư nơi cư trú Người dân Tiền Giang có nét đặc trưng là cởi mở, gần gũi họ chủ động giao tiếp với những người không quen biết, họ rất dễ gần gũi. Nhất là các chị em rất dễ làm quen chỉ qua mấy câu giao tiếp, xã giao họ cũng có thể trở thành thân quen. Việc họp mặt vào những ngày hội họp của huyện xã, hay liên hoan tất niên của năm họ cũng không tổ chức trang trọng, kiểu cách. Người phụ nữ Tiền Giang họ rất quý trọng bạn bè, hiếu khách, cởi mở chào đón khi có khách đến nhà. Khi có khách đến chơi nhà dù gia cảnh có khó khăn đến mấy họ cũng cố gắng đãi khách cho tươm tất “bắt con cá lóc nướng trui – làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa”. Họ quý trọng cái tình hơn tiền bạc vật chất, nhất là các bà vợ phải làm cho chồng hãnh diện trước bạn bè, không để chồng bị mang tiếng keo kiệt khi có khách viếng thăm. Người phụ nữ Tiền Giang rất quý nhân nghĩa, gặp người có hoàn cảnh khó khăn dù không quen biết họ sẵn lòng giúp đỡ, khi có người lỡ đường cậy nhờ họ đều vui vẻ chỉ dẫn. Vì họ quan niệm rằng giúp đỡ người khác để lỡ mai cũng có người giúp mình khi gặp khó khăn, hay “cha mẹ ở đời để đức cho con”. 3.1.2. Trong quan hệ với chính quyền địa phương Phụ nữ Tiền Giang nói chung đã có một truyền thống lịch sử vẻ vang. Họ đã tham gia tranh đấu, đưa vị thế của họ ngang tầm với nam giới, họ đã hi sinh cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp lớn lao, vẻ vang của quê hương, dân tộc. 15 Những sự thay đổi của xã hội, đã tác động đến những người phụ nữ Tiền Giang, họ cũng thay đổi cách nhìn, tư tưởng, cũng tích cực học hỏi, đào tạo bản thân để nâng cao trình độ, nâng cao trách nhiệm tham gia vào công tác quản lý với chính quyền sở tại. Nhiều phụ nữ cũng đã khẳng định được bản thân, xóa bỏ những mặc cảm tự ti về giới tính, họ đã làm tốt các công tác được giao phó. Khi phụ nữ làm lãnh đạo chính quyền thì những người phụ nữ tại địa phương được quan tâm nhiều hơn. Họ cũng quan tâm đến nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của chị em: điều kiện sống, lao động, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, nghỉ ngơi, giải trí… dần dần được cải thiện tích cực, hầu hết họ coi đó là trách nhiệm của mình nên phải chu toàn cho tốt, góp phần đem lại sung túc cho cuộc sống của chị em nơi thôn xóm. 3.1.3. Trong cơ quan – Đoàn thể Thống kê cho biết, phụ nữ Tiền Giang làm các công việc tại cơ quan nhà nước và hiện họ là công nhân, viên chức nhà nước. Số người làm việc tại trụ sở xã, huyện, thành phố là 75 người, chiếm 27,7% số người được phỏng vấn. Các nghề khác như: công nhân chiếm 5,0%; làm nông chiếm 6,9%, làm nội trợ chiếm 35,6%. Như vậy, công việc làm nông chị em chiếm vị trí thấp nhất do nghề này đòi hỏi nhiều sức lực. Phụ nữ Tiền Giang cũng tham gia tích cực vào đoàn viên, đoàn thể. Họ hăng hái thực những nghị định, nghị quyết, chương trình, kế hoạch của Đảng, của nhà nước, của lực lượng công an. Họ cũng được định hướng lý tưởng, giác ngộ cách mạng, ý thức trách nhiệm với công tác được giao. Họ cũng chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức đa dạng các chương trình hoạt động nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, các hoạt động chính trị, xã hội khuyến khích tinh thần đoàn viên, hội viên. Nhiều đoàn viên đã thể hiện năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm, ý thức tự lực tự cường họ đã trở thành những cán bộ mẫu mực, có uy tín. 3.2. Văn hóa ứng xử của phụ nữ Việt ở tỉnh Tiền Giang trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng 3.2.1. Trong hoạt động lễ hội Lễ hội là một sự kiện, một hiện tượng văn hoá có tính cộng đồng nẩy sinh trong quá trình hình thành và phát triển của một cộng đồng tộc người nói chung. Lễ hội, tuỳ vào tính chất, loại hình có thể có nhiều giá trị, song có những giá trị chung là sự cố kết cộng đồng trong các loại hình lễ hội. Trong quá trình điền dã, khảo sát, chúng tôi không thấy có nhiều khác biệt trong văn hoá ứng xử của người phụ nữ Tiền Giang ở hai loại hình lễ hội này. Đặc điểm chung về vai trò của nữ giới trong các hoạt động lễ hội 16 là sự chuẩn bị hậu cần, trong khi đó nam giới lại chuẩn bị về các nghi thức cúng kiếng. Điều này được thể hiện rõ trong Lễ hội Nghinh Ông Vàm Láng. Một điểm chung mà chúng tôi ghi nhận được về vai trò nổi bật của người phụ nữ trong các lễ hội nói trên là công tác chuẩn bị, hậu cần. Cũng có những sự phân công mang tính đoàn thể, song nhìn chung, những người phụ nữ khi thực hiện các công việc này đều trên tinh thần tự nguyện, bằng tâm, tấm lòng hướng đến các giá trị truyền thống. Họ chung tay dọn dẹp, làm vệ sinh xung quanh các khu di tích, đền thờ; cùng nhau chuẩn bị các đồ tế lễ, trang trí và các công tác chuẩn bị khác. Trong lễ hội, người phụ nữ cũng tham gia trực tiếp vào các nghi lễ như: lễ rước, cúng tế trong lễ Nghinh Ông ở Vàm Láng (Mùng 9 và Mùng 10 tháng 3 Âm lịch); tham gia tái hiện đội quan đánh giặc của Trương Định (20 tháng 8 Âm lịch)… Bên cạnh đó, người phụ nữ cũng tham gia tích cực vào các trò chơi như bịt mặt đập bình; kéo co…, các hoạt động thể dục thể thao được tổ chức trong lễ hội. Như vậy, nhìn từ vai trò giới, gần như không có sự phân biệt về giới trong các hoạt động lễ hội mang tính tâm linh, cộng đồng. Cụ thể hơn, trên một phương diện văn hoá ứng xử, người phụ nữ Tiền Giang khi tham gia các hoạt động lễ hội tại địa phương luôn có ý thức về tâm thế, hành vi và cả sự giao tiếp. Họ không quá cầu kỳ về trang phục khi đến tham dự các hoạt động lễ hội nhưng qua khảo sát của chúng tôi, hầu như không có sự cẩu thả hay ăn mặc phản cảm nào của người phụ nữ ở các địa điểm diễn ra lễ hội. (Hiện tượng mà những năm gần đây khá phổ biến ở một số nơi khác). Quan sát lễ cúng tại lễ Nghing Ông ở Vàm Láng ngày 13 và 14/4/2019 (nhằm ngày mùng 9 và 10/3 âm lịch) vừa qua, chúng tôi nhận thấy: Những người phụ nữ đến tham gia lễ đều ăn mặc giản dị (không khác so với ngày thường); đồ lễ cúng tế cũng theo dạng cây nhà lá vườn, có gì mang nấy. Ngay cả những mâm xôi (nhiều màu: xanh, trắng, đỏ, tím) được những người phụ nữ chuẩn bị cũng rất “chất phác” về hình thức, (theo kiểu chú trọng đến nội dung hơn hình thức bên ngoài); Khi hành lễ, họ cũng hành lễ mộc mạc, ít bài bản, chỉ thắp hương, khấn vái những điều (có lẽ đã chuẩn bị trước). Điều này khác với người phụ nữ miền Bắc, khi tham gia lễ hội, họ chuẩn bị khá chỉn chu từ khăn áo, mủ đến các vật lễ dâng cúng cũng được chuẩn bị và trang trí hết sức cận thận, sắc màu bắt mắt; khi hành lễ thì rất cầu kỳ (quỳ rạp, vái lạy, khấn…) và thời gian hành lễ cũng lâu hơn…. Những lễ hội này tạo cho những phụ nữ người Việt ở Tiền Giang mỗi khi tham gia đều tìm thấy cho mình sự hồn nhiên, hưng phấn tràn 17 ngập cảm xúc vui tươi, lạc quan, yêu đời nhờ không khí vừa trang nghiêm nhưng cũng đầy rộn ràng, tưng bừng, náo nhiệt. Ở đây, mỗi cá nhân tham gia lễ hội có thể xóa bỏ được những buồn phiền của cuộc sống hàng ngày, những khó khăn vất vả trong mưu sinh để hòa mình vào không khí của lễ hội, hòa nhịp vào thiên nhiên và thể hiện niềm tin đối với thần linh. 3.2.2. Trong hoạt động tôn giáo – tín ngưỡng Phật giáo: Các phụ nữ ở Tiền Giang cũng tham gia học hỏi, tìm hiểu Phật pháp, một số người còn tham gia vào các lớp đào tạo trở thành Ni cô hay Ni giới. Tiền Giang là một trong những vùng đất thành lập Ni giới rất sớm ở miền Tây để tu tập trong đời sống hiện đại. Tiền Giang cũng là mảnh đất có nhiều vị danh Ni đóng góp cho sự phát triển của Ni giới trong xã hội hiện đại. Nói về vai trò và vị thế của người phụ nữ trong đời sống văn hoá, phật giáo có lẽ cần phải nói thêm những căn rễ văn hoá lịch sử của nó. Điều này không chỉ ảnh hưởng từ huyền thoại về Đức phật (sau nhiều ngày đói lả, có một thiếu nữ tên là Sujata (Tu–xà–đa) dâng cho mình một bữa ăn thịnh soạn: một bát cơm nấu với sữa. Sau đó Gautama (Cồ–đàm) ngồi xuống dưới một gốc cây, lắng sâu vào thiền định, đạt được Giác Ngộ (bodhi) và thành Phật) mà ngay cả trong kinh Phật cũng có nhiều tư tưởng về bình đẳng và dành cho nữ giới sự quan tâm nhất định. Trở lại với văn hoá ứng xử của người phụ nữ Việt ở Tiền Giang trong các hoạt động phật giáo, chúng ta rất dễ nhận ra tinh thần nhập thế của phật giáo kết hợp với tư tưởng khoan dung giàu thiên tính nữ như nhẫn nhục, ôn hòa, bao dung, độ lượng nhưng cũng không kém phần thông minh, nhạy bén. Người phụ nữ ở Tiền Giang trong các hoạt động thiện nguyện, văn hoá, tôn giáo đều thể hiện thái độ ứng xử này. Đó không chỉ là sự kết nối đạo và đời mà còn thể hiện một văn hoá ứng xử mang đậm bản sắc phụ nữ Việt trên vùng đất phương Nam. Công giáo: Chị em phụ nữ tại Tiền Giang cũng tích cực tham gia vào các hoạt động tại giáo xứ, nhà thờ nơi họ sinh sống. Họ cũng hăng hái tham gia vào các tổ chức Công giáo tại họ đạo như: hội phạt tạ Thánh Tâm Chúa, Hội các bà mẹ Công giáo, Hội Legio, hội trợ tử… để như là cánh tay nối dài của giáo xứ, phụ giúp các linh mục chăm sóc – viếng thăm các gia đình trong họ đạo, thăm hỏi những gia đình khó khăn, hỗ trợ chăm sóc những người già tàn tật, neo đơn. Bên cạnh đó, họ cũng tổ chức những buổi đọc kinh cầu nguyện tại gia đình giúp tăng thêm tinh thần đoàn kết giữa giáo dân trong họ đạo. Ngoài ra các chị em cũng tham gia
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan