ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------
NGUYỄN THỊ NGA
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa khọc: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Nga
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 1
2. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 5
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
5. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ,VAI TRÒ CỦA
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................... 7
1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý và vị trí, vai trò của trợ giúp viên
pháp lý trong tố tụng hình sự.................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý ......................................................... 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự .............. 9
1.2. Cơ sở, ý nghĩa quy định về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp
lýtrong luật tố tụng hình sự .....................................................................16
1.3. Quyền và nghĩa vụ của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự .22
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................24
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.........25
2.1. Pháp luật về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự25
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước 2015.....................................................25
2.1.2. Giai đoạn từ 2015 đến nay................................................................38
2.2. Thực tiễn về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng
hình sự trên địa bàn tỉnh Lai Châu..........................................................51
2.2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế, xã hội ở Lai Châu có ảnh hưởng đến hoạt
động trợ giúp pháp lý cũng như vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý ...........51
2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm TGPL tỉnh Lai Châu53
2.2.3. Hoạt động trợ giúp pháp lý của trợ giúp viên pháp lý Trung tâm TGPL
tỉnh Lai Châu trong tố tụng hình sự ............................................................55
2.2.4. Một số hạn chế, tồn tạivà nguyên nhân ..............................................63
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................68
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................................69
3.1. Cơ sở, yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về trợ giúp viên pháp lý
trong tố tụng hình sự ...............................................................................69
3.2. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý..........................................................71
3.3. Hoàn thiện pháp luật.........................................................................71
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TGVPL trong TTHS73
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TGPL
TGVPL
TTHS
Trợ giúp pháp lý
Trợ giúp viên pháp lý
Tố tụng hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng
Bảng 1:
Tên bảng
Tình hình TGPL của Trung tâm trợ giúp pháp lý Lai
Châu
Trang
56
Bảng 2:
Tình hình tham gia tố tụng hình sự của TGVPL
58
Bảng 3:
Vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
60
Bảng 4:
Tỷ lệ số lượng vụ án có TGVPL từ giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử
Số hiệu biểu đồ
Biểu đồ 1:
Tên bảng
Tình hình tham gia của TGVPL trong tố tụng hình
sự tỉnh Lai Châu
62
Trang
58
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trợ giúp pháp
lý (TGPL) gắn với quá trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối
quan hệ xã hội đã giúp nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghèo, người
thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây là một quá trình giáo
dục ý thức pháp luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà
nước và xã hội và các trước chủ thể khác, để từ đó họ nhận thấy được những
hành vi được phép làm và những hành vi không được phép làm. Đặc biệt,
thông qua những vụ việc cụ thể, TGPL đã giúp những nhóm người này nắm
bắt được nội dung pháp luật và cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ
thể trong cuộc sống để các chủ thể này nắm được nội dung các văn bản pháp
luật, hiểu và vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính xác, tích cực để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan hệ xã hội.
TGPL còn thể hiện nguyên tắc của Hiến pháp “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật”, “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Trên cơ sở này,
Luật TGPL và Luật TTHS đã khẳng định vị trí, vai trò của TGPL đối với các
đối tượng yếu thế khi tham gia TTHS, đồng thời góp phần bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của những người yếu thế trong các vụ án hình
sự. Thông qua hoạt động của mình, TGPL giúp người nghèo, những đối tượng
chính sách, đối tượng yếu thế khác nâng cao nhận thức vềquyền và các biện
pháp bảo vệ quyền khi tham gia tố tụng, đồng thời cũng giúp họ hiểu biết hơn
về pháp luật, hiểu rõ các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Trải qua hơn 20 năm triển khai thực hiện hoạt động TGPL Nhà nước, với
sự ra đời của Luật TGPL 2006 và luật trợ giúp 2017 đã đạt được những thành
quả đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối
tượng chính sách và các đối tượng yếu thế trong xã hội đối với các vụ án hình
1
sự, dân sự, hành chính...Trong đó, vị trí, vai trò của Trợ giúp viên pháp lý
(TGVPL) khi tham gia TTHS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối
tượng được trợ giúp trong các vụ án hình sự thể hiện rõ nét nhất quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động truy tố, xét xử của Viện kiểm sát, Tòa án, phục
vụ chiến lược cải cách tư pháp.
Năm 2015, Quốc Hội đã ban hành mới 04 đạo luật tư pháp về hình sự
như Bộ luật hình sự; Bộ Luật TTHS; Luật thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018. Căn cứ vào
vị trí, vai trò của TGVPL theo Luật TGPL năm 2017 và trên cơ sở nhiệm vụ,
quyền hạn của TGVPL được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 cần
phải tiếp tục có những góc nhìn mới, chuyên sâu hơn về chế định này trong
TTHS nhằm bảo vệ được tối đa quyền lợi chính đáng cho nhóm đối tượng yếu
thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần giải quyết vụ án hình sự nhanh
chóng, đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm, nâng cao vị thế của
TGVPL trong hoạt động TTHS.
Như vậy, với việc ban hành Luật TGPL, Luật TTHS và những văn bản
pháp luật khác đã hình thành khung pháp lý cho hoạt động của TGVPL khi
tham gia TTHS. Trên thực tế, ở Việt Nam, TGPL đã đạt được một số thành
tựu như: góp phần giúp người nghèo, đối tượng chính sách và những đối
tượng có hoàn cảnh đặc biết khác được tiếp cận pháp luật, từ đó góp phần xây
dựng lối sống và hình thành lối làm việc theo pháp luật. Đây là hoạt động
mang tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với yêu cầu phát triển, hội nhập quốc tế
của Việt Nam, góp phần bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
vẫn còn một số hạn chế tồn tại trong quá trình TGPL khi áp dụng chế định
TGPL trên thực tiễn. Chẳng hạn như các quy định về quyền hạn, trách nhiệm
của TGVPL còn chưa đây đủ, rõ ràng dẫn đến khó áp dụng; Số lượng vụ việc
yêu cầu TGPL ngày càng tăng, trong khi đó số lượng người thực hiện TGPL
2
còn thiếu và yếu về kỹ năng, kinh nghiệm tham gia tố tụng, thường xuyên
biến động.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Lai Châu, việc tiếp tục nghiên cứu
các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của TGVPL,
đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
tham gia TTHS của TGVPL có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng. Vì vậy,
Học viên lựa chọn đề tài “Vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong hoạt
động tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận văn thạc sĩ của mình.
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn sẽ làm rõ những lý luận về vị trí, vai trò của TGVPL trong tố
tụng hình sự; thông qua việc nghiên cứu thực tế, luận văn đưa ra những giải
pháp để hoàn thiện pháp luật để khẳng định vị trí, vai trò của TGVPL trong
hoạt động tố tụng hình sự.
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của TGVPL trong
TTHS, như: các khái niệm để làm rõ vị trí, vai trò của TGVPL trong pháp
luật TTHS ...;
- Phân tích, nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật về vị trí, vai
trò của TGVPL trong hoạt động TTHS Việt Nam;
- Làm rõ thực tiễn thực hiện vai trò của TGVPL trên địa bàn tỉnh Lai
Châu,qua đó nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, sự cần thiết của
TGVPL trong hoạt động TTHS hiện nay. Từ đó chỉ ra được những nguyên
nhân của thực trạng hoạt động của TGVPL trong TTHS;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của TGVPL trong các vụ án hình sự.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến Trợ giúp viên pháp lý trong TTHS như: Bàn về khái niệm trợ giúp pháp
3
lý / Tạ Thị Minh Lý // Nhà nước và Pháp luật. Số 10/2005, tr. 77 – 83; Bàn về
phạm vi điều chỉnh của Luật TGPL / Đỗ Xuân Lân // Dân chủ và Pháp luật.
Số 2/2006, tr. 18 – 20; Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
TGPL / Cù Thu Anh // Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề: Bảo đảm quyền
con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp /2014, tr. 92 – 106; Bảo
đảm quyền được TGPL của công dân / Hoàng Văn Nghĩa // Nghiên cứu lập
pháp. Số 15/2009, tr. 5 – 11; Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong
điều kiện đổi mới : luận án tiến sĩ luật học (2008) - Tạ Minh Lý; Người hướng
dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Lộc, PGS. TS. Thái Vĩnh Thắng; Hoàn thiện
pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam : luận văn thạc sĩ luật học
(2004)/ Vũ Hồng Tuyến; PGS. TS. Hoàng Thế Liên hướng dẫn; Hoàn thiện
pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam hiện
nay: luận văn thạc sĩ luật học (2012) / Nguyễn Thị Hồng Kiên ; PGS. TS.
Nguyễn Minh Đoan hướng dẫn; Pháp luật về TGPL và thực tiễn thi hành tại
tỉnh Bắc Kạn: luận văn thạc sĩ luật học (2017) / Lường Đức Thắng ; TS. Đoàn
Thị Tố Uyên hướng dẫn; và các công trình nghiên cứu khác liên quan đến vị
trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động TTHS.
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về vị trí, vai
trò của TGVPL trong hoạt động TTHS Việt Nam, nhất là các quy định trong
Bộ luật TTHS năm 2015 và Luật TGPL năm 2017. Các công trình nghiên cứu
trên đây chỉ nghiên cứu, đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến vị trí, vai
trò của TGVPL mà chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và hệ
thống về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động TTHS Việt Nam, do đó
mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn không trùng lặp với
các công trình đã công bố.
Trước yêu cầu hoàn thiện các quy định về vị trí, vai trò của TGVPL
trong hoạt động TTHS Việt Nam, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về
chế định này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những định hướng
của Luận văn hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện
4
các quy định pháp luật Việt Nam về chế định TGVPL trong hoạt động TTHS,
nhằm mục đích góp phần tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững
công tác TGPL theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, hiệu lực. Tác giả hy
vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ là
một tài liệu tham khảo có giá trị.
2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu về lý luận, thực trạng quy định
pháp luật về TGVPL và thực tiễn áp dụng áp dụng quy định về TGVPL trong
hoạt động TTHS.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến Chế định
TGVPL trong Bộ luật TTHS năm 2015; Luật TGPL năm 2017; đồng thời
nghiên cứu thực tiễn hoạt động TGPL đối với các vụ án hình sự trên địa bàn
tỉnh Lai Châu (từ năm 2014 đến tháng 6/2019) để phân tích, làm rõ và đạt được
mục đích nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã dựa trên cơ sở phương pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin
với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong mối tương quan với tình
hính kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu, luận văn còn dựa trên cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác để phục vụ việc
nghiên cứu của mình như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp phân
tích để phân tích các quy định về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động
TTHS để chỉ rõ, giải thích về nội dung của các quy định đó. Đồng thời, tác
giả sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm tổng hợp, kế thừa lại những kết quả
của các công trình nghiên cứu liên quan từ trước đến nay trên cơ sở sự kế thừa
có chọn lọc. Trên cơ sở các phân tích, bình luận để thể hiện góc nhìn mới,
trực diện vấn đề về nội dung nghiên cứu theo pháp luật hiện hành.
5
Phương pháp so sánh: Đề tài thực hiện việc so sánh các quy định pháp
luật hiện hành với các quy định từ thời trước đây, đồng thời so sánh các với
quan điểm của một số nhà nghiên cứu nội dung có liên quan để phân tích, đưa
ra quan điểm riêng của tác giả về vấn đề nghiên cứu.
Và các phương pháp khác nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng
hình sự.
- Chương 2: Pháp luật và thực tiễn về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp
lý trong tố tụng hình sự.
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự.
6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ,VAI TRÒ CỦA
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý và vị trí, vai trò của trợ giúp viên
pháp lý trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý
Các quy phạm pháp luật về TGPL xác định 5 lĩnh vực pháp luật được
TGPL bao gồm: Hình sự và TTHS; Dân sự, hôn nhân gia đình và tố tụng;
Hành chính, khiếu nại tố cáo; Lao động, việc làm; Đất đai, nhà ở. Về hình
thức TGPL cũng được quy phạm hóa như: Tư vấn pháp luật; Tham gia tố
tụng; Đại diện ngoài tố tụng, Hòa giải, kiến nghị và các hình thức TGPL khác
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, góp phần đảm
bảo công bằng xã hội.
Để hiểu rõ khái niệm về trợ giúp viên pháp lý, trước hết cần hiểu khái
niệm “trợ giúp pháp lý” là gì?. Theo từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn nhữ học,
NXB Đà Nẵng, “trợ giúp” được hiểu là giúp đỡ, “pháp lý” được hiểu là
“nguyên lý về pháp luật” [36] .
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, 1999 thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc
gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến”.
Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách Khoa – Nxb Tư pháp, 2006 cho
rằng pháp lý là những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp
luật của một quốc gia, “pháp lý” chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị
pháp lý bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm
trù, khái niệm lý luận về pháp luật [35]. Như vậy có nhiều cách gọi khác nhau
về thuật ngữ này nhưng cụm từ “trợ giúp” đều có nội dung nói đến sự giúp
đỡ, bảo trợ, hỗ trợ.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được đề cập trong một số văn
kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước từ năm 1995, như Thông báo
7
số 485/CV-CPTW về ý kiến chỉ đạo Ban Bí thư TW Đảng ngày 31/5/1995
của Văn phòng TW Đảng, lần đầu tiền được ghi nhậnchủ trương của Đảng về
giúp đỡ pháp luật miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách; Quyết
định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
tổ chức TGPL cho người ngèo và đối tượng chính sách.
Luật TGPL năm 2006 đã đưa ra khái niệm trợ giúp pháp lý tại Điều 3
như sau“trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được TGPL theo quy định của Luật ngày, giúp người được TGPL bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và
vi phạm pháp luật”.
Luật TGPL năm 2017 (có hiệu lực từ 01/01/2018) quy định ngắn gọn
hơn về khái niệm TGPL như sau: “trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ
pháp lý miễn phí cho người được TGPL trong vụ việc TGPL theo quy định
của Luật này, góp phần đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong tiếp
cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”.
Có thể thấy, Luật TGPL năm 2006 và năm 2017 chỉ đưa ra khái niệm
chung về TGPL. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Liên hợp quốc quy định
“trợ giúp pháp lý bao gồm tư vấn pháp lý, hỗ trợ và đại diện cho người bị
tạm giam, bị bắt hoặc bị tù giam, bị tình nghi hay bị cáo buộc, hoặc bị buộc
tội và cho các nạn nhân, nhân chứng trong quá trình TTHS, được cung cấp
miễn phí cho những người không có đủ điều kiện hoặc khi lợi ích công lý
đòi hỏi như vậy. Hơn nữa, TGPL cũng có chủ đích bao hàm các khái niệm
về giáo dục pháp luật, tiếp cận thông tin pháp lí và các dịch vụ khác được
cung cấp cho các đối tượng thông qua các cơ chế giải quyết tranh chấp và
quá trình tư pháp phục hồi” [27]. Theo đó, khái niệm theo quy định của
Liên hợp quốc đã chỉ rõ về các hình thức TGPL, đối tượng được TGPL và
mục đích của TGPL trong TTHS.
8
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm TGPL,
nhưng nhìn chung, các quan điểm về TGPL đều cho rằng TGPL nhằm giúp
đỡ về mặt pháp lý cho đối tượng được TGPL mà người được trợ giúp
không phải mất chi phí của dịch vụ mà mình thụ hưởng. Tuy nhiên, trên
quan điểm tổng thể thì TGVPL cần được đề cập ở những khía cạnh sau
đây: TGVPL là người thực hiện chức năng TGPL và địa vị pháp lý của
TGVPL được quy định trong văn bản pháp luật của nhà nước; Khi thực
hiện TGPL trong TTHS, TGVPL có quyền và nghĩa vụ như luật sư bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự; Đối tượng của TGVPL hỗ trợ
là những người yếu thế, khó khăn.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm “trợ giúp viên pháp lý”
như sau: TGVPL là người thực hiện các công việc pháp lý nhằm giúp đỡ, hỗ
trợ về mặt pháp lý cho người được TGPL nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho người được TGPL, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
1.1.2. Vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
1.1.2.1. Vị trí của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
Trong quá trình trợ giúp pháp lý, TGVPL đóng vai trò là người hướng
dẫn pháp luật, đảm bảo cho người được TGPL đều được tiếp cận, sử dụng
pháp luật miễn phí trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo
điều kiện để công lý và công bằng xã hội được thực thi, thúc đẩy công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cho người dân biết. Để thực hiện vai trò đó, TGVPL
có vị trí nhất định trong quá trình TTHS. Vị trí của TGVPLlà tổng hợp các
các quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của TGVPL được Nhà nước, pháp
luật trao để thực hiện vai tròTGPL của mình. Chẳng hạn như, TGVPL có
nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và hoạt động nghiệp vụ
TGPL qua tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và thực
hiện các hình thức TGPL khác cho những đối tượng được TGPL (như người
nghèo, người có công với cách mạng, người già, người khuyết tật, người dân
tộc thiểu số, .v.v).
9
Trong quá trình tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người được TGPL trong quá trình tố tụng, TGVPL có mối quan hệ khăng
khít với cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ này được thể hiện trách
nhiệm của TGVPL và cơ quan tiến hành tố tụng, như:
Trong giai đoạn trước khi tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có
trách nhiệm giải thích, thông báo, thông tin về TGPL; đăng ký, từ chối, hủy
bỏ việc đăng ký bào chữa; từ chối việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự theo Thực hiện việc thống kê vào Sổ theo dõi vụ việc
TGPL trong hoạt động tố tụng quy định; Niêm yết Bảng thông tin về TGPL,
đặt Hộp tin TGPL; phát miễn phí tờ gấp pháp luật, đơn yêu cầu TGPL; Đề
nghị Trung tâm, Chi nhánh phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông và
hướng dẫn về TGPL. Có thể thấy, giai đoạn này được thực hiện trước khi
TGVPL tham gia tố tụng. Đây cũng là cơ sở để TGVPL có thể thực hiện các
quyền và nghĩa vụ khác trong quá trình tố tụng để thực hiện hoạt động TGPL
của mình.
Trong giai đoạn tham gia tố tụng, nếu phát hiện nếu phát hiện người thực
hiện TGPL có hành vi vi phạm pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng xử lý theo quy định của pháp luật và thông báo cho tổ chức thực hiện
TGPL để kịp thời xử lý theo thẩm quyền và thay thế người thực hiện TGPL.
Ngoài ra, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giao các văn bản tố tụng
cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng trong vụ án, vụ việc theo quy
định của pháp luật về tố tụng; bảo đảm cho người thực hiện TGPL khi tham
gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL theo quy định
của pháp luật về tố tụng và pháp luật về TGPL. Có thể thấy, ở giai đoạn này,
việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ kịp thời của cơ quan tiến hành tố tụng
có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả cũng như chất lượng TGPL của
TGVPL. Đơn cử như, việc giao các văn bản tố tụng cho TGVPL tham gia tố
tụng trong vụ án không kịp thời, chậm chễ sẽ rút ngắn thời gian nghiên cứu,
10
tư vấn, hỗ trợ cho người được TGPL của TGVPL dẫn đến ảnh hưởng đến chất
lượng TGPL của vụ việc. Hơn nữa, trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng
không thực hiện việc phối hợp hoặc phối hợp không đầy đủ với TGVPL trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
của TGVPL trong đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
Bên cạnh đó, trong hoạt động tham gia tố tụng, hoạt động TGPL của
TGVPL cần được sự phối hợp của Trại tạm giam, Nhà tạm giữ để tạo điều
kiện trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa, cấp giấychứng nhận
người bảo vệ, tạo điều kiện trong việc gặp gỡ, trao đổi với đối tượng, phô tô
tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tham gia các hoạt động khác.
Như vậy, TGVPL là người có thể thực hiện đầy đủ các hình thức TGPL,
trong đó có tham gia tố tụng như luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người được TGPL trong quá trình tố tụng. Do vậy, pháp luật hiện hành
quy định các tiêu chuẩn, điều kiện của TGVPL tương đương như luật sư,
điểm khác biệt là Trợ giúp viên pháp lý chưa có quy định về chế độ tập sự
hành nghề như luật sư, không phải trải qua kỳ thi hết tập sự hành nghề luật sư
và do đó không được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư.
Như vậy, về cơ bản, hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp
lý gần giống như của luật sư, tuy nhiên, có một số điểm khác nhau cơ bản
sau: Thứ nhất, luật sư thực hiện hoạt động tố tụng cho nhiều đối tượng, trong
khi đó, đối tượng của Trợ giúp viên pháp lý thu hẹp chỉ những người thuộc
diện được TGPL theo pháp luật TGPL mới được hưởng dịch vụ pháp lý
này. Thứ hai, luật sư thực hiện hoạt động tố tụng ở tất cả các lĩnh vực, còn
Trợ giúp viên pháp lý thực hiện hoạt động tố tụng ở các lĩnh vực, trừ lĩnh vực
kinh doanh, thương mại. Thứ ba, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư là
hoạt động có thu phí, còn hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp
lý là hoạt động miễn phí.
Tuy nhiên sự khác nhau này là do quy định của pháp luật và xuất phát từ
tính chất miễn phí, bản chất nhân đạo của hoạt động TGPL chứ không phải do
trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý.
11
1.1.2.2. Vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
Vai trò của TGVPL trong TTHS được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đảm bảo quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
28/11/2013, được xem là một bản Hiến pháp tiến bộ với nhiều sửa đổi, bổ
sung, ghi nhận về chế định quyền con người. Chẳng hạn Điều 13, 14 Hiến
pháp ghi nhận cả 3 nghĩa vụ của nhà nước theo Luật nhân quyền quốc tế, bao
gồm các nghĩa vụ “tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm” quyền con người, quyền
công dân [31]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan nhà nước phải
thực hiện đầy đủ và nghiêm túc nghĩa vụ bảo vệ quyền con người.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ghi nhận “Mọi người
đều bình đẳng trước các toà án, cơ quan tài phán và có quyền được hưởng
một cách đầy đủ, bình đẳng quyền được bào chữa, ngay cả khi họ không có
điều kiện chi trả”[22].
Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế, kế hoạch
hành động, các tuyên bố quốc tế nhằm ghi nhận việc đảm bảo quyền con
người. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, Việt Nam tham gia với vai trò là
thành viên của nhiều Công ước quốc tế về quyền con người[16]. Do vậy, yêu
cầu Nhà nước có vai trò bảo đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người,
quyền công dân cho người ngheo, nhóm người yếu thế, có hoàn cảnh đặc biệt,
dễ tổn thương trong xã hội để những người này bình đẳng với các chủ thể
khác trong đời sống xã hội và pháp luật. Nhà nước cần có trách nhiệm cung
ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yêu cho nhóm người này, đồng thời kiểm soát
hoạt động này nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng với các đối tượng khác
trong quản lý xã hội.
Vì vậy, việc TGVPL tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
được TGPL đã góp phần thi hành dân chủ, giải phóng con người mọi áp bức,
bất công, tôn trọng nhân quyền. Đây là một chính sách góp phần bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ của người nghèo, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương không
12
chỉ thực hiện trên thực tế quyền con người mà còn giúp họ thực hiện đầy đủ
trên thực tế quyền và nghĩa vụ, giúp họ có điều kiện sử dụng pháp luật để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp; coi con người là động lực vừa là mục tiêu của
sự phát triển. Bởi vì họ là đối tượng yếu thế, không có đủ năng lực, điều kiện
nắm bắt, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, vì thế, hơn
ai hết, người nghèo, những người yếu thế, khó khăn trong xã hội phải được
quan tâm, giúp đỡ. Sự hỗ trợ những đối tượng này góp phần tạo sự công bằng
trong tiếp cận công lý.
Thứ hai, đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án khách quan, công bằng
Trong hoạt động TGPL, TGVPL đóng vai trò là người hướng dẫn pháp
luật, bảo đảm cho người được TGPL đều được tiếp cận, sử dụng pháp luật
miễn phí trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện
để công lý và công bằng xã hội được thực thi, thúc đẩy công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người dân biết quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp
luật TGPL... bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, mà
trước hết là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua
hoạt động TGPL. Người tham gia tố tụng được pháp luật ghi nhận cho rất
nhiều quyền như quyên bào chữa, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, quyền tranh luận. Đây là những quyền con người đã được nâng lên
thành các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS. Quyền được xét xử công bằng là
một trong số các quyền rất quan trọng, được ghi nhận trong pháp luật nhân
quyền quốc tế và Công ước quốc tết về các quyền dân sự và chính trị năm
1966. Theo đó, quyền được xét xử công bằng là một trong những yếu tố then
chốt bảo vệ quyền con người và là một phương tiện tố tụng để đảm bảo pháp
chế. Để thực hiện tốt quyền này, đòi hỏi các bên tham gia tranh tụng, đặc biệt
là bên bị buộc tội, phải được tạo những điều kiện và cơ hội như nhau trong
việc thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ để tranh tụng tại phiên tòa. Và
với sự hỗ trợ, tư vấn của người thực hiện TGPL, những hoạt động này sẽ
được sử dụng triệt để và hiệu quả hơn khi tham gia TTHS cũng như bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL[34].
13
Bên cạnh đó, trong hoạt động tham gia tố tụng của TGVPL còn góp phần
xác định sự thật khách quan của vụ việc được nhanh chóng, chính xác, tránh
làm oan người vô tội, để lọt tội phạm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết công việc công bằng và đúng pháp luật; góp phần tích cực thực hiện cải
cách tư pháp, mở rộng điều kiện để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trước toà,
bảo đảm cho người nghèo, đối tượng chính sách, người già cô đơn, trẻ em
không nơi nương tựa, dân tộc thiểu số,... không có điều kiện thuê luật sư cũng
được TGVPL bảo vệ, bào chữa quyền và lợi ích hợp pháp miễn phí cho họ
trước các cơ quan tố tụng.
Thứ ba, thực hiện chức năng của nhà nước
TGVPL có thể thực hiện TGPL bằng nhiều hình thức khác nhau, như: Tư
vấn pháp luật; Tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của
đương sự trong vụ án hình sự; thực hiện các hình thức TGPL khác.
Trong quá trình thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tố tụng, TGVPL tham
gia với tư cách đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người được TGPL là người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hình sự, góp phần đảm bảo xây dựng thủ tục TTHS công bằng, khách
quan. Theo đó, những người tham gia tố tụng với cùng một tư cách được
hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ như nhau. Tuy nhiên, có nhiều lí do
như sự khó khăn về tài chính, đặc tính dễ bị tổn thương, sự khiếm khuyết về
thể chất và nhận tức nên không thể tự mình thực hiện các quyền tố tụng hoặc
nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với những
người này, sự tham gia của TGVPL là bắt buộc trong hoạt động TTHS. Điều
này, thể hiện trách nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo sự công bằng và
thể hiện tính nhân văn của pháp luật TTHS, góp phần nâng cao công tác quản
lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp và lĩnh vực văn hóa – xã hội.
Ngoài ra, TGVPL đóng vai trò là người hướng dẫn pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, góp phần tạo điều kiện
14
- Xem thêm -