Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính theo pháp luật hành chính việt nam ...

Tài liệu Vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính theo pháp luật hành chính việt nam hiện nay

.PDF
72
163
102

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRỌNG TIẾN VỊ TRÍ VIỆC LÀM TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Hà Nội - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRỌNG TIẾN VỊ TRÍ VIỆC LÀM TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ NGÂN Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện trên cơ sở hệ thống hóa kiến thức về nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Thị Ngân. Các số liệu, kết quả được trình bày trung thực. Luận văn của tôi có tham khảo một số sách, báo, tạp chí và đã được trích dẫn, ghi chú đầy đủ. Hà Nội, tháng 9 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Trọng Tiến MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: KHÁI NIỆM VỀ VỊ TRÍ VIỆC LÀM TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ................................. 8 1.1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước............................................. 8 1.2. Khái niệm công chức ......................................................................... 10 1.3. Vị trí việc làm .................................................................................... 11 1.4. Kinh nghiệm xác định VTVL ở một số quốc gia .............................. 23 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ VIỆC LÀM TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH ................................................ 29 2.1. Các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục xác định vị trí việc làm ............................................................................................................. 29 2.2. Kết quả công tác xác định vị trí việc làm .......................................... 34 2.3. Đánh giá chung .................................................................................. 48 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ VIỆC LÀM TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH ........................................................... 53 3.1. Quan điểm trong xác định VTVL ...................................................... 53 3.2. Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng xác định vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính ..................................................... 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 62 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT - Cán bộ, công chức : CBCC - Ủy ban nhân dân : UBND - Hội dồng nhân dân : HĐND - Vị trí việc làm : VTVL - Cơ quan hành chính : CQHC - Đào tạo, bồi dưỡng : ĐTBD - Xã hội chủ nghĩa : XHCN - Cải cách hành chính : CCHC DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Đối với khung danh mục chung của bộ, ngành Trung ương .......... 35 Bảng 2.2: Đối với khung danh mục chung của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương............................................................................ 36 Bảng 2.3: Đối với danh mục VTVL của từng cơ quan, đơn vị thuộc, trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.................. 37 Bảng 2.4: Đối với danh mục VTVL của từng cơ quan, đơn vị thuộc, trực thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương..................... 38 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó có xác định VTVL là một công việc quan trọng. Việc xác định VTVL có ý nghĩa đối với việc xác định biên chế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị cũng như sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức. Vấn đề này đã và đang nhận được sự quan tâm cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn vận hành các cơ quan hành chính. Thực tế đã chứng minh, triển khai thành công quản lý kết quả công việc thường gắn với vấn đề “VTVL” và “khung năng lực”. Đây cũng chính là các vấn đề mấu chốt trong cải cách chế độ công vụ, công chức cũng như cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay ở Việt Nam. Phù hợp với Nghị quyết Đại hội X của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật CBCC, tạo ra bước tiến mới, mang tính cách mạng về cải cách chế độ công vụ, công chức. Tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có việc xây dựng cơ cấu đội ngũ CBCC với VTVL gắn với việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức” ban hành kèm theo Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 với những nội dung đẩy mạnh phân cấp quản lý và hoàn thiện việc tổ chức công vụ gọn nhẹ; giảm quy mô công vụ, tránh chồng chéo, tiếp tục tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC; đề ra mục tiêu xây dựng và được phê duyệt Danh mục VTVL và cơ 1 cấu công chức theo ngạch ở các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước cũng đã đề ra một trong số những giải pháp xác định rõ vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh công chức trong từng cơ quan của Nhà nước để làm căn cứ tuyển dụng và bố trí sử dụng CBCC; trên cơ sở xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, VTVL và cơ cấu công chức của từng cơ quan nhà nước, các cơ quan, đơn vị tiến hành rà soát lại đội ngũ công chức, đối chiếu với các tiêu chuẩn để bố trí lại đội ngũ công chức cho phù hợp. Để cụ thể hóa các nhiệm vụ, mục tiêu nêu trên, tại Khoản 3 Điều 7 Luật CBCC năm 2008 giải thích thuật ngữ về VTVL, theo đó VTVL là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đó cũng là căn cứ để sắp xếp lại đội ngũ CBCC; phát hiện các chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; nghiên cứu lại việc phân cấp quản lý CBCC; kiểm nghiệm lại tiêu chuẩn, chức danh, cải cách tiền lương… Do vậy, xác định VTVL được coi là nhiệm vụ bắt buộc đối với tất cả các bộ, ngành và địa phương để thực hiện đổi mới cơ chế quản lý CBCC. Việc xác định VTVL và cơ cấu công chức trong cơ quan nhà nước nói chung và CQHC nhà nước nói riêng hiện nay phải bảo đảm nguyên tắc quản lý và sử dụng công chức cần phải được kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh và VTVL, chỉ tiêu biên chế… Nhằm tạo cơ sở pháp lý và thúc đẩy triển khai thực hiện thành công các mục tiêu quan trọng nêu trên, ngày 22/4/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 36/2013/NĐ-CP về VTVL và cơ cấu ngạch công chức. Ngay sau đó, ngày 25/6/2013, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 05/2013/TT-BNV 2 nhằm hướng dẫn xác định VTVL và cơ cấu ngạch công chức theo tinh thần của Nghị định số 36/2013/NĐ-CP. Có thể nói, xác định VTVL và cơ cấu ngạch công chức là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của CCHC ở Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới. Đồng thời, VTVL cũng là tiền đề để xác định khung năng lực và triển khai đánh giá kết quả công việc công chức theo tinh thần “quản lý theo kết quả”, gắn chặt kết quả của cá nhân với kết quả của cả cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việc xác định VTVL và cơ cấu ngạch công chức trong cơ quan nhà nước nói chung và CQHC nhà nước nói riêng hiện nay phải bảo đảm nguyên tắc quản lý và sử dụng CBCC được kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh và VTVL, chỉ tiêu biên chế… Đây là vấn đề cấp thiết đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên trong thời gian qua, thực tế triển khai thực hiện quy định của Luật CBCC và các văn bản quy định về VTVL trong các CQHC nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong xác định VTVL trên các mặt từ nhận thức đến thể chế, triển khai thực hiện như về nhận thức của người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa đầy đủ, chưa trọng tâm, sát với yêu cầu trong chỉ đạo, điều hành; phương pháp triển khai xác định VTVL chưa khoa học, hình thức; công tác kiểm tra, hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền chưa thường xuyên, chưa có chế tài xử lý trách nhiệm đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị triển khai xây dựng Đề án VTVL không hiệu quả, không đáp ứng được các mục tiêu đề ra. Để khắc phục những hạn chế, nguyên nhân nêu trên, cần thực hiện nhiều biện pháp, nhiệm vụ, trong đó có tổng kết, đánh giá những tác động của xác định VTVL trong các cơ quan nhà nước nói chung và với CQHC nhà nước nói riêng nhằm điều chỉnh những điểm chưa hợp lý, thiếu minh bạch, đảm bảo thuận lợi hơn cho quá trình áp dụng xác định VTVL. Với lý do đó nên tác giả chọn đề tài “Vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính theo pháp luật hành chính Việt Nam hiện nay” làm Luận văn thạc sĩ của mình. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trước khi Luật CBCC năm 2008 ban hành có rất ít các công trình nghiên cứu về VTVL. Tới giai đoạn sau 2008 đến nay mới có một số văn bản, công trình nghiên cứu khoa học, bài báo viết về chủ đề xác định VTVL như: - Các đề án xác định VTVL và cơ cấu ngạch công chức của các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Chuyên đề về “Kỹ năng lãnh đạo, quản lý và phát triển nhân sự của lãnh đạo cấp phòng” nằm trong chương trình đào tạo chức danh cấp phòng do Bộ Nội vụ ban hành năm 2013; - Tác giả Vũ Duy Yên có một số bài báo đăng trên các Tạp chí khoa học như: Quản lý nhà nước, Tâm lý học có nghiên cứu về một số khía cạnh của năng lực công chức như xác định những kỹ năng cần thiết của Chủ tịch UBND xã và nhu cầu đào tạo các kỹ năng này (Tạp chí Tâm lý học, 2007); xác định những kỹ năng “mềm” của người lãnh đạo, quản lý trong quản lý hành chính nhà nước (Tạp chí Quản lý nhà nước, năm 2012) [49], trong đó đã đề cập đến tiêu chuẩn năng lực công chức lãnh đạo, quản lý theo 3 nhóm thành phần tạo nên năng lực như: kiến thức, kỹ năng, thái độ; - Các bài viết nghiên cứu xoay quanh vấn đề này như: "Về xây dựng khung năng lực trong đơn vị sự nghiệp công lập" của tác giả Mai Hữu Thỉnh đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 1/2013; "Hệ thống công vụ theo VTVL và những vấn đề đặt ra khi áp dụng vào Việt Nam" của tác giả Văn Tất Thu đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 8/2013… Ngoài ra, một số Luật do Quốc hội ban hành, Nghị định của Chính phủ và Thông tư của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức cũng đã đưa ra hệ thống các khái niệm về VTVL, công việc, nhiệm vụ, chức năng, chức vụ, chức danh… Tuy nhiên, do cách tiếp cận theo những nội dung, phương diện, mức độ và phạm vi khác nhau mà chưa nghiên cứu theo hệ thống lý luận và cơ sở thực tiễn 4 xác định VTVL ở các CQHC nhà nước. Vì vậy, trong nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn, học viên cao học sẽ tập trung nghiên cứu nhằm hệ thống hóa kiến thức về lý luận và thực tiễn về VTVL trong các CQHC nhà nước, tác giả xin lấy dẫn chứng từ thực tế ở một số bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận về xác định VTVL và đánh giá thực trạng của VTVL trong các CQHC từ đó đề tài đưa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện VTVL và nâng cao việc thực hiện cải cách chế độ công vụ, công chức. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài: - Phân tích cơ sở lý luận về VTVL theo quy định của pháp luật, từ đó xây dựng khái niệm, nhiệm vụ, vị trí, vai trò và làm rõ những tiêu chí đánh giá, những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện xác định VTVL; - Phân tích đánh giá thực trạng VTVL của nước ta hiện nay; trong đó nêu lên những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế cần khắc phục; - Đưa ra quan điểm và các giải pháp để nâng cao hiệu quả việc xác định VTVL, đáp ứng được các mục tiêu, nhiệm vụ Đảng và nhà nước đã đề ra. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Xác định VTVL của đối tượng công chức trong các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Về thời gian: Các dữ liệu thứ cấp sử dụng trong Luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến nay. 5 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: 5.1.1. Phương pháp luận: Luận văn áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng để tiếp cận và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới VTVL. 5.1.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua thu thập dữ liệu, sàng lọc dữ liệu, thực hiện phân tích số liệu để đánh giá những mặt được và chưa được khi triển khai xây dựng và hoàn thiện VTVL; - Nội dung khảo sát: Nhận thức của công chức làm việc tại các Phòng, ban về VTVL, tầm quan trọng của VTVL đối với công tác quản lý, sử dụng công chức; - Đối tượng khảo sát: CBCC lãnh đạo, quản lý và công chức không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý. 5.1.3. Phương pháp thống kê mô tả, phương pháp so sánh: Sử dụng để phân tích số liệu thu thập được từ phương pháp khảo sát và các số liệu, dữ liệu khác trong quá trình thực hiện đề tài. 5.1.4. Phương pháp phân tích và tổng hợp: Sử dụng để phân tích và tổng hợp kết quả phân tích từ thực trạng vị trí việc làm ở nước ta để rút ra tồn tại và nguyên nhân làm căn cứ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện VTVL. Phân tích và tổng hợp các tài liệu lý luận, trong đó, phân tích khái quát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài luận văn. 5.2. Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu: 5.2.1. Dữ liệu thứ cấp: Tác giả thu thập thông tin bằng cách tra cứu các tài liệu, các văn bản, sách và cơ sở dữ liệu văn bản QPPL các thông tin về văn 6 bản, chính sách của nhà nước. Đồng thời, đã kế thừa một số kết quả nghiên cứu trước đó nhằm làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài; các thông tin về số lượng và thực trạng VTVL được thu thập từ các CQHC. 5.2.2. Dữ liệu sơ cấp: Được thu thập thông qua khảo sát công chức đang làm việc tại các CQHC nhà nước. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Qua kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần khái quát và làm rõ thêm cơ sở lý luận về VTVL trong CQHC đánh giá thực trạng, tìm ra những bất cập, hạn chế, những yếu tố ảnh hưởng đến VTVL và những vấn đề đang đặt ra và quan điểm, giải pháp về VTVL trong tình hình mới hiện nay. - Đề tài góp phần làm sáng tỏ, bổ sung lý luận về VTVL, góp phần đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. - Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị trong việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá, quy hoạch, ĐTBD công chức hiệu quả. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm: Mở đầu; Chương 1: Khái niệm về VTVL trong CQHC và những vấn đề liên quan Chương 2: Thực trạng VTVL trong các CQHC; Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng xác định VTVL trong CQHC Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo. 7 Chƣơng 1 KHÁI NIỆM VỀ VỊ TRÍ VIỆC LÀM TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 1.1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nƣớc CQHC nhà nước bao gồm: Chính phủ, các bộ, các Ủy ban nhà nước, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, UBND các cấp và các sở, phòng ban thuộc UBND; các cơ quan này là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, hoạt động chủ yếu ở phương diện chấp hành - điều hành, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định. Như vậy, CQHC nhà nước là các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp nhằm thực thi pháp luật trên nhiều lĩnh vực, dưới nhiều cấp độ khác nhau, từ quản lý hành chính vĩ mô đến quản lý hành chính vi mô, từ việc quản lý nhà nước đối với việc cung cấp dịch vụ công đến việc triển khai thực hiện chính sách,… Nói cách khác, CQHC nhà nước thực hiện các hoạt động chấp hành, điều hành các mặt hoạt động của đời sống xã hội. Từ khái niệm trên, CQHC nhà nước có những đặc điểm chung giống với cơ quan nhà nước như: Thứ nhất, CQHC nhà nước có quyền nhân danh Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiên các quyền và nghĩa vụ pháp lý với mục đích hướng tới lợi ích công. Biểu hiện của tính quyền lực nhà nước đó là: CQHC nhà nước có quyền ban hành các văn bản pháp luật như nghị định, quyết định, chỉ thị và có thể được áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước nhất định. Thứ hai, CQHC nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định; có tính độc lập tương đối về cơ 8 cấu, tổ chức được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật như Luật tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… Thứ ba, nguồn nhân sự chính của CQHC nhà nước là đội ngũ CBCC được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử theo quy định của Luật CBCC và các văn bản QPPL có liên quan. Thứ tư, CQHC nhà nước là cơ quan quản lý hành chính nhà nước có phương diện hoạt động chủ yếu là chấp hành, điều hành. Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân. Chỉ có CQHC nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội… Thứ năm, hệ thống các CQHC nhà nước được thành lập từ Trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Thứ sáu, thẩm quyền của các CQHC nhà nước được pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Thứ bảy, các CQHC nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước. 9 1.2. Khái niệm công chức Ngày 26/02/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh CBCC (có hiệu lực kể từ ngày 01/5/1998); sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất vào ngày 28/4/2000, lần thứ hai vào ngày 29/4/2003 thì khái niệm về công chức chính thức được Nhà nước Việt Nam đề cập đến theo hướng liệt kê như tại Điều 1 Pháp lệnh CBCC năm 2003, theo đó CBCC là công dân Việt Nam, trong biên chế được bầu cử theo nhiệm kỳ, được tuyển dụng, bổ nhiệm giao nhiệm vụ làm việc trong các tổ chức; được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện… Như vậy, Pháp lệnh CBCC đã đưa ra thuật ngữ ghép CBCC và việc liệt kê đối tượng là CBCC theo xu hướng tăng dần qua các lần sửa đổi chính là hạn chế cần khắc phục. Đây cũng chính là lý do để nước ta pháp điển hóa Pháp lệnh CBCC 1998 thành Luật CBCC năm 2008. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật CBCC năm 2008 thì công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những người là công chức (sau đây viết tắt là Nghị định số 10 06/2010/NĐ-CP) và Thông tư số 08/2011/TT-BNV ngày 02/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số điều của Nghị định số 06/2010/NĐ-CP cũng xác định công chức làm việc trong các cơ quan thuộc hệ thống CQHC nhà nước, trong các tổ chức hội, các đơn vị sự nghiệp và các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân, công an nhân dân. 1.3. Vị trí việc làm 1.3.1. Khái niệm: VTVL được chính thức sử dụng lần đầu tiên tại Luật CBCC năm 2008, một công việc mới, khó, lần đầu tiên thực hiện nên quá trình triển khai thực hiện còn nhiều vấn đề cần có sự nghiên cứu, trao đổi để bổ sung và tiếp tục hoàn thiện. Theo Nghị định số 36/2013/NĐ-CP và Thông tư số 05/2013/TTBNV thì “VTVL là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Một trong những nguyên tắc cơ bản để xác định VTVL là “phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị”; đồng thời, quy định rõ việc xác định VTVL là nhiệm vụ bắt buộc trong hoàn thiện cơ cấu công chức theo ngạch tại các cơ quan trung ương và địa phương. Để cụ thể hóa chủ trương trên, Luật CBCC năm 2008 đưa vào quy định và định nghĩa về VTVL là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị từ việc tuyển dụng, bố trí sử dụng, nâng ngạch, đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch, ĐTBD, đánh giá... VTVL thể hiện hoạt động của công chức để triển khai công việc có tính thường xuyên, ổn định, gắn với tên gọi nhất định phù hợp với tính chất, đặc thù của từng công việc cũng như phù hợp với quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị và được thể hiện bằng bản mô tả công việc, khung năng lực của VTVL, bảo đảm tính thực tiễn, khoa học. 11 1.3.2. Nguyên tắc xác định vị trí việc làm; các bộ phận cấu thành và phân loại vị trí việc làm - Căn cứ vào cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị đê xác định VTVL. Từng VTVL phải gắn với một ngạch công chức nhất và phải tuân thủ quy định của pháp luật có liên quan. Ngoài ra, xác định VTVL còn phải căn cứ vào số lượng Danh mục VTVL và chỉ tiêu biên chế được cấp có thẩm quyền giao; phù hợp với từng ngành, lĩnh vực. - VTVL được cấu tạo bởi 4 bộ phận như tên gọi VTVL (chức vị); nhiệm vụ và quyền hạn mà người đảm nhiệm VTVL cần phải thực hiện (chức trách); yêu cầu về trình độ và kỹ năng về chuyên môn mà người đảm nhiệm VTVL phải đáp ứng (tiêu chuẩn) và chính sách tiền lương được trả tương ứng với chức vị, chức trách và chiêu chuẩn của người đảm nhiệm công việc. Bên cạnh những bộ phận của VTVL thì còn có cách bộ phận khác hợp thành như là các chế độ áp dụng đối với những VTVL đặc biệt như yêu cầu chức trách, tiêu chuẩn và phụ cấp được hưởng, hoặc là các điều kiện để có thể đảm bảo việc thực hiện các nhiệm vụ (các trang thiết bị tại nơi làm việc, quá trình phối hợp thực hiện). - Việc phân loại VTVL trong một cơ quan, tổ chức, các đơn vị có thể được phân loại như sau đây: Phân loại theo chức danh có các vị trí lãnh đạo, quản lý; các vị trí thực hành, thực thi (theo chuyên môn, nghiệp vụ); các vị trí hỗ trợ và phục vụ. Mỗi VTVL nhất định đều có bản mô tả công việc với những yêu cầu về phẩm chất, về trình độ và năng lực, cũng như sự hiểu biết tương ứng đối với một ngạch công chức cụ thể. Trong đó, một số vị trí công việc giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, còn lại là những VTVL mang tính thực thi và hỗ trợ, phục vụ. Thực tế, số lượng những vị trí thực thi và thừa hành, hỗ trợ, phục vụ nhiều hơn những vị trí lãnh đạo, quản lý. 12 Ngoài ra, VTVL còn được phân loại theo số lượng người đảm nhận VTVL do một người đảm nhận; VTVL do nhiều người đảm nhận; VTVL kiêm nhiệm. Một VTVL có thể có nhiều công việc khác nhau, do đó sẽ có nhiều VTVL khác nhau ở các cơ quan. Vì gắn với các yếu tố công việc, nên sẽ có rất nhiều những VTVL khác nhau. Chúng ta có thể lấy ví dụ cụ thể hơn: Công việc của kế toán sẽ có các VTVL như: Trưởng phòng kế toán, phó phòng kế toán, tổ trưởng kế toán, tổ phó kế toán. Đồng thời, trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước mang tính cấp bậc giữa các cơ quan từ cấp trung ương đến địa phương, cho nên VTVL ở đây cũng chính là vị trí theo cấp bậc giữa những cơ quan này. Do đó, có cùng một vị trí lãnh đạo và quản lý, có cùng một loại công việc nào đó nhưng lại có những cấp bậc khác nhau thì cũng sẽ khác nhau về VTVL. 1.3.3. Vai trò của việc xác định VTVL: Thứ nhất, xác định VTVL thực chất là xác định số lượng VTVL và số lượng người làm việc cho mỗi vị trí này để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. VTVL là căn cứ để có thể xác định được số lượng cũng như cơ cấu công việc và chất lượng nguồn nhân lực, có thể đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ của các cơ quan và tổ chức, các đơn vị. Theo đó, xác định VTVL chính là cơ sở để có thể thực hiện sắp xếp các bộ máy trong một cơ quan, tổ chức, con người, công tác tuyển dụng, quản lý nhân lực, sử dụng nhân lực, đào tạo và bồi dưỡng, cũng như đánh giá và xây dựng chế độ đãi ngộ đối với các công chức để góp phần sử dụng những hiệu quả về nguồn vốn và nguồn nhân lực. Thứ hai, việc xác định VTVL là cơ sở để xác định rõ về cơ cấu ngạch công chức và cụ thể hóa tiêu chuẩn đối với từng chức danh công chức. 13 Thứ ba, xác định VTVL giúp cơ quan, tổ chức, đơn vị sắp xếp lại đội ngũ công chức, các đơn vị, tổ chức cấu thành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đồng thời, tạo cơ sở để xây dựng các tiêu chí, khung năng lực cụ thể cho việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ công chức. Thứ tư, xác định VTVL là cơ sở để nâng cao hiệu quả của công tác nhận xét, đánh giá công chức hàng năm. Việc mô tả công việc rõ ràng, cụ thể sẽ giúp cho việc nhận xét, đánh giá hiệu quả làm việc của công chức được chính xác, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính cơ quan, tổ chức, đơn vị. Thứ năm, dựa vào khung năng lực của VTLV được xác định, cơ quan, tổ chức, đơn vị sẽ có chiến lược, kế hoạch ĐTBD công chức; xác định những nội dung ĐTBD cần thiết và hình thức ĐTBD phù hợp với từng VTVL và yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Thứ sáu, xác định VTVL là cơ sở để thực hiện việc chi trả tiền lương theo hiệu quả công việc, tạo động lực để công chức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc phục những hạn chế của việc chi trả tiền lương như hiện nay là theo ngạch, bậc công chức và tăng lương theo thời gian công tác. Như vậy, việc xác định VTVL góp phần đổi mới, khắc phục những hạn chế của các mô hình công vụ, tạo ra tính năng động và hiệu quả của cả nền công vụ trong nhiều mặt như sau: Thứ nhất, đòi hỏi các cơ quan và tổ chức phải thực hiện việc rà soát và sắp xếp các bộ máy gọn nhẹ, loại bỏ những chồng chéo và sự trùng lặp về các chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan đơn vị, các bộ phận cũng như là những VTVL. Thứ hai, cho phép những cơ quan, tổ chức tuyển dụng nhân lực làm việc cho mình theo phương thức cạnh tranh, công khai đối với tất cả những vị 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan