Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử chuyên đề tìm hiểu ba tổ chức cách mạng ở việt n...

Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử chuyên đề tìm hiểu ba tổ chức cách mạng ở việt nam trong những năm 20 của thế kỷ xx

.PDF
12
1409
120

Mô tả:

SỞ GD VÀ ĐT THÁI NGUYÊN HỘI THẢO KHOA HỌC CÁC TRƯỜNG THPT TRƯỜNG THPT CHUYÊN CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐBBB LẦN VII CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MÔN LỊCH SỬ NỘI DUNG TÌM HIỂU VỀ BA TỔ CHỨC CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 20 CỦA THẾ KỈ XX 1. Tiền đề của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình thế giới có những chuyển biến mới. Các nước đế quốc thắng trận đã họp để phân chia lại thế giới, thiết lập một trật tự hòa bình, an ninh mới theo hệ thống hoà ước Véc xai-Oasinh tơn. Tháng 11/1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công, đưa giai cấp công nông lên nắm chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội, biến học thuyết của Mác thành hiện thực. Tháng 2/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Quốc tế III, phong trào cách mạng vô sản thế giới phát triển nhanh chóng. Giai cấp vô sản trẻ tuổi ở nhiều quốc gia đang bước lên vũ đài chính trị nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng với sự ra đời của các Đảng cộng sản. Tháng 12/1920, Đảng cộng sản Pháp thành lập. Năm 1921, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời… Từ năm 1923 trở đi, một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đã được du nhập vào Việt Nam qua một số sách báo của Đảng cộng sản Pháp, Đảng cộng sản Trung Quốc và tác động trực tiếp đến một số trí thức Việt Nam yêu nước ở nước ngoài mà tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó, nước Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất bị tổn thất nặng nề: hàng loạt nhà máy, đường sá, cầu cống và làng mạc bị tàn phá, sản xuất công nghiệp bị đình trệ, lạm phát tràn lan, giá cả gia tăng. Để nhanh chóng khắc 1 phục những thiệt hại, ổn định tình hình kinh tế-xã hội, chính quyền Pháp đã ra sức khôi phục và thúc đẩy sản xuất trong nước, đồng thời tăng cường đầu tư khai thác các nước thuộc địa của Pháp ở Đông Dương và Châu Phi. Tư bản Pháp đã tăng cường đầu tư vào Việt Nam với quy mô lớn, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp và khai thác khoáng sản: trong 6 năm (1924 1929), tổng số vốn đầu tư vào Đông Dương, trong đó chủ yếu là Việt Nam lên đến 4 tỉ Phờ - răng (tăng 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh). Chương trình khai thác lần thứ hai đã làm biến đổi mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam. Thực dân Pháp đã du nhập vào Việt Nam quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong một chừng mực nhất định đan xen với quan hệ sản xuất phong kiến. Các ngành kinh tế-kĩ thuật của tư bản Pháp ở Việt Nam phát triển hơn trước. Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn rất lạc hậu, mất cân đối và lệ thuộc vào nền kinh tế Pháp, nhân dân ta càng đói khổ hơn. Bên cạnh đó, công cuộc khai thác lần thứ hai của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc. Cùng với những giai cấp cũ (Địa chủ phong kiến và nông dân) đã xuất hiện các giai cấp mới (Tư sản, tiểu tư sản và công nhân) với quyền lợi, địa vị và thái độ chính trị khác nhau. Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20 của thế kỉ XX, Việt Nam có những chuyển biến quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai, đẩy tinh thần cách mạng của đại bộ phận nhân dân Việt Nam lên một độ cao mới. Do tác động của những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội…sau chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển theo hai khuynh hướng dân chủ tư sản và vô sản. Qúa trình phát triển của hai khuynh hướng cứu nước đưa đến sự ra đời, hoạt động của ba tổ chức cách mạng: Hội 2 Việt Nam cách mạng thanh niên tháng 6/1925; Tân Việt cách mạng đảng tháng 7/1928 và Việt Nam quốc dân đảng tháng 12/1927. 2. Ba tổ chức cách mạng ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỉ XX 2.1. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên 6/1925 Sau khi trở về Quảng Châu - Trung Quốc (11/11/1924), Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam ở đây cùng với một số thanh niên Việt Nam hăng hái mới từ trong nước sang. Tháng 2/1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số thanh niên Việt Nam tích cực để tuyên truyền giác ngộ họ và lập ra tổ chức “Cộng sản đoàn”. Trên cơ sở đó, tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên, trong đó tổ chức “Cộng sản đoàn” là nòng cốt. Hội ra tuần báo “Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận. Tháng 7 năm đó, cùng với các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Nam Dương quần đảo, Mã Lai, Ấn Độ…Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông do ông Liêu Trọng Khải - người Trung Quốc là Hội trưởng. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có mối quan hệ mật thiết với tổ chức này. Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đề ra mục đích: “Làm cách mạng dân tộc rồi sau đó là cách mạng thế giới lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản”. Trên cơ sở của đường lối chung, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đề ra chương trình hành động gồm 20 điểm, trong đó gắn liền hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cải tạo xã hội. Mặc dù chưa phải là một tổ chức cộng sản, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thể hiện khá rõ quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân trong việc giải quyết các nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam. Ngoài những ưu việt nổi bật trên, so với các tổ chức chính trị khác ở Việt Nam lúc đó (về đường lối, chiến lược, sách lược tranh đấu, tổ chức và kỉ luật…) 3 Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên còn tỏ ra là một tổ chức chính trị có tính chiến đấu rất cao và tính quần chúng sâu sắc. Trong quá trình hoạt động, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên rất chú ý đến huấn luyện học viên, đào tạo cán bộ. Từ năm 1925 đến 1927, Hội đã tổ chức 10 khóa huấn luyện cho trên 200 học viên, mỗi khóa khoảng 2 đến 3 tháng, giảng viên là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí Lê Duy Điếm, Hồ Tùng Mậu…Sau các khóa học này, một số học viên được cử sang học tiếp ở trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva, hay trường Quân sự ở Hoàng Phố, số còn lại được đưa về nước hoạt động trong phong trào công nhân, nông dân, tri thức. Ngoài các lớp huấn luyện, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên còn chú ý đến tuyên truyền, giáo dục thông qua báo chí, sách vở. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo “Thanh niên”. Báo được xuất bản từ tháng 6 năm 1925 đến tháng 4 năm 1927, tất cả có 88 số. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Việt, báo viết trên giấy sáp, in bằng tay, mỗi kì phát hành được mấy trăm tờ và bí mật chuyển về trong nước. Thông qua báo “Thanh niên”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc, đã phá mọi âm mưu chia rẽ của đế quốc, hướng dẫn việc tổ chức các Hội, đoàn thể quần chúng, chính đảng. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên còn cho xuất bản một số sách như: “Xã hội chủ nghĩa”, “Chủ nghĩa Mã Khác Tư”. “Phê bình Tam dân chủ nghĩa Tôn Dật Tiên”, “Phê bình chủ nghĩa Găng di”, “Phê bình chủ nghĩa vô chính phủ”, “Vấn đề tổ chức cách mạng”. Tác phẩm có ảnh hường lớn nhất là “Đường Kách Mệnh” của Nguyễn Ái Quốc. “Đường Kách Mệnh” là cuốn sách tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các khóa huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tác phẩm do bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927.“Đường Kách 4 Mệnh” biểu hiện rất tập trung các quan điểm vô sản về vấn đề giải phóng dân tộc: - Cách mạng phải triệt để. - Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công nông là gốc cách mạng. - Cách mạng phải do Đảng của giai cấp vô sản được vũ trang bằng lí luận Mác - Lênin lãnh đạo. - Cách mạng Việt Nam là bộ phận cách mạng thế giới. Sau “Bản án của chế độ thực dân Pháp”, “Đường Kách Mệnh” là tác phẩm đầu tiên vận dụng lí luận Mác-Lê nin giải quyết những vấn đề thực tiễn ở Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử rất lớn và góp phần quyết định vào sự thắng thế của học thuyết Mác-Lê nin ở Việt Nam khi Đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam chưa ra đời. Sự ra đời, hoạt đông của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là bước chuẩn bị về chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng CSVN, là tiền thân của chính Đảng vô sản. 2.2. Tân Việt cách mạng đảng 7/1928 Do tác động của cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư sản và vô sản ở Việt Nam nửa sau những năm 20, trong nội bộ nhóm tiểu tư sản yêu nước đã diễn ra quá trình phân hóa về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tiền thân của Tân Việt cách mạng đảng là Hội Phục Việt, được thành lập tháng 7 năm 1925; về sau Hội Phục Việt đổi thành Hội Hưng Nam nhưng chưa có tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh rõ ràng. Tháng 6 năm 1925 Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra đời và có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Đầu năm 1926, Hưng Nam cử người sang Quảng Châu bắt liên lạc với Tổng bộ Thanh niên. Tháng 4 năm 1926 đại diện của Hưng Nam về nước đem theo đề nghị của Thanh niên về việc thống nhất các tổ chức cách mạng trong và ngoài nước. 5 Tháng 7 năm 1926, Hưng Nam tổ chức đại hội đại biểu bàn việc hợp nhất với Thanh niên. Đại hội quyết định đổi Hưng Nam thành lập Việt Nam cách mạng đảng, thời gian sau đó lại đổi thành Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Từ năm 1926 đến giữa năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Việt Nam cách mạng đồng chí hội cử đại biểu gặp gỡ 5 – 6 lần bàn về việc hợp nhất hai tổ chức nhưng không thành. Ngày 14/7/1928 Việt Nam cách mạng đồng chí hội họp thường kì ở Huế quyết định tổ chức một đảng “tự lập” lấy tên Tân Việt cách mạng đảng. Hệ thống tổ chức của Tân Việt gồm các cấp: Tổng bộ, kì bộ, liên tỉnh bộ, tỉnh bộ, đại bộ ở huyện và tiểu bộ ở cơ sở. Các bộ và liên minh bộ đều gọi theo bí danh: “Nhân kì”; “Trí kì”… địa bàn hoạt động của đảng chủ yếu ở Trung kì. Thành phần tham gia đảng bao gồm: Trí thức, thanh niên, tiểu tư sản yêu nước có trình độ nhận thức khác nhau nên Tân Việt cách mạng đảng chưa bao giờ trở thành một khối thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Chủ trương, đường lối: Liên hợp các lực lượng trong và ngoài nước nhằm đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, nhằm thiết lập một xã hội bình đẳng và bác ái. Những hoạt động chính của đảng Tân Việt: Giáo dục huấn luyện đảng viên; Tuyên truyền phổ biến sách báo Mác xít. Từ cuối 1928 đảng chủ trương thực hiện phong trào “ vô sản hoá” nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng. Bên cạnh đó, đảng Tân Việt tổ chức lãnh đạo một số cuộc đấu tranh của học sinh, tiêu thương và công nhân. Do tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá sâu rộng, Tân Việt bị phân hóa: một bộ phận gia nhập Hội việt Nam Cách mạng Thanh niên, số còn lại chuẩn bị thành lập một đảng riêng theo học thuyết Mác–Lênin. Lịch sử của Tân Việt là cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư sản và vô sản trong một tổ chức chính trị của tiểu tư sản yêu nước. Kết quả cuối cùng khuynh hướng cách mạng vô sản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lê nin đã thắng 6 thế. Điều này phản ánh đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam trong những năm 20–Hai khuynh hướng cách mạng tồn tại song song đua chen để giành bá quyền lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời và hoạt động của đảng Tân Việt đã góp phần khơi dậy tinh thần đấu tranh trong quần chúng nhân dân. 2.3. Việt Nam quốc dân Đảng 12/1927 Cuối năm 1926 tại phố Trúc Bạch, Hà Nội, hiệu sách Nam Đồng Thư xã do Phạm Tuấn Tài làm chủ nhiệm được thành lập. Nam Đồng thư xã xuất bản những sách yêu nước, nêu gương đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, bàn về cách mạng thế giới và chủ nghĩa quốc gia. Với cơ sơ hạt nhân là Nam đồng thư xã, Việt Nam quốc dân đảng ra đời vào ngày 25-12-1927 do Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính....thành lập. Đây là tổ chức đại diện cho tư sản dân tộc theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản. Hoạt động của đảng nhằm mục đích đoàn kết các lực lượng cả nam và nữ để đẩy mạng cách mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ trực tiếp, giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. Tổ chức đảng gồm 4 cấp: Chi bộ, tỉnh bộ, kì bộ và tổng bộ. Mỗi chi bộ không quá 19 người. Tuy vậy, thành phần tham gia đảng phức tạp: Trí thức, học sinh, giáo viên, một số người làm nghề tự do, thân hào, thân sĩ ở nông thôn, một số binh lính việt trong quân đội Pháp.... hình thức kết nạp lỏng lẻo. Địa bàn hoạt động của đảng có ở cả 3 kì trong cả nước nhưng phát triển mạnh nhất ở Bắc Kì. Tiêu biểu ở các địa phương: Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Phú Thọ, Yên Bái...Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết...Gia Định, Chợ Lớn, Mĩ Tho, Trà Vinh, Bến Tre, Biên Hòa... Tôn chỉ, mục đích của Việt Nam quốc dân đảng: Lúc mới thành lập chưa có đường lối rõ ràng. Năm 1928, nêu chủ nghĩa của Đảng là “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Đến năm 1929 đảng nêu nguyên tắc “tự do- bình đẳng – bác ái”. 7 Phương thức đấu tranh: Đảng ít chú ý đến tuyên truyền huấn luyện đảng viên và quần chúng, lí luận nghèo nàn...Mặt khác, Việt Nam quốc dân đảng chủ trương tiến hành “cách mạng bằng sắt và máu”, chú trọng dựa vào lực lượng binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Cơ quan ngôn luận của đảng có tờ “Hồn cách mạng”. Tuy nhiên, đảng mới ra được 1 số báo thì bị lộ. Sự nghèo nàn về lí luận là khuyết điểm nghiêm trọng khiến cho đảng thiếu cơ sở vững chắc để xây dựng khối đoàn kết nhất trí trong đảng. Ngoài những yếu kém do hàng ngũ phức tạp, bị kẻ địch lũng đoạn...Việt Nam quốc dân đảng còn non yếu do nội bộ bị chia rẽ. Một bên là Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và bên kia là Nguyễn Thế Nghiệp... Hoạt động của đảng chủ yếu tập trung các cuộc khủng bố, ám sát cá nhân nhưng không mang lại kết quả. Cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái là hoạt động nổi bật nhất của Việt Nam quốc dân đảng nhưng kết cục thất bại. Việt Nam quốc dân đảng là tổ chức cách mạng có nhiều hạn chế: Cương lĩnh chính trị không rõ ràng; thành phần phức tạp, tổ chức lỏng lẻo, kết nạp thiếu thận trọng nên đã để cho bọn mật thám, tay sai chui được vào tổ chức; coi nhẹ công tác tuyên truyền nên cơ sở bị hạn chế; coi trọng bạo động vũ trang. Sự bế tắc của tổ chức Việt Nam quốc dân đảng phản ánh khuynh hướng cứu nước tư sản ở Việt Nam đang đi vào con đường thoái trào và không đáp ứng được yêu cầu cách mạng. 3. Quá trình phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng và sự giải thể của Việt Nam quốc dân đảng 3.1. Quá trình phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng Do tác động của tình hình thế giới, đặc biệt sau các Nghị quyết quan trọng về phong trào giải phóng dân tộc của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần V (1924); 8 công xã Quảng Châu (1927)…đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 20. Từ năm 1928-1929 phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản phát triển mạnh trên quy mô lớn, giai cấp công nhân đã trưởng thành, đặt ra yêu cầu phải gấp rút có một đảng cộng sản để kịp thời đưa cách mạng tiến lên. Hoàn cảnh trên dẫn đến sự phân liệt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên và Tân Việt để hình thành 3 tổ chức Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. - Đông Dương Cộng sản đảng Tháng 3/1929: Một số hội viên tiến tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kỳ đã lập chi bộ Cộng sản đầu tiên tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội). Tháng 5/1929 tại Đại hội I của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp ở Hương Cảng, đại biểu Thanh niên Bắc Kỳ đề nghị thành lập Đảng Cộng sản nhưng không được Đại hội chấp nhận, họ bỏ Đại hội về nước. Ngày 17/ 6/1929 Nhóm trung kiên Cộng sản Bắc kỳ họp đại hội quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại số nhà 312 phố Khâm Thiên- Hà Nội. Đảng đã thông qua tuyên ngôn, điều lệ Đảng, ra báo “Búa liềm” làm cơ quan ngôn luận. Tuy mới ra đời nhưng Đông Dương Cộng sản Đảng được quần chúng nhân dân ủng hộ, hoạt động chủ yếu ở Bắc Kỳ. Những sự kiện đó đánh dấu sự thắng lợi của quan điểm vô sản đối với quan điểm tư sản trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên. Điều đó đã đáp ứng được yêu cầu của cách mạng. - An Nam Cộng sản Đảng. Sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập, các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ và ở Trung Quốc quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng (8/1929). 9 - Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn. Sự ra đời của hai tổ chức ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã tác động mạnh tới Tân Việt Cách mạng đảng. Các đảng viên tiên tiến của Tân Việt từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng tách ra để thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929). Sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản phản ánh xu thế phát triển tất yếu, là sự chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 3.2. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự giải thể của Việt Nam quốc dân đảng Ngày 9-2-1929 Việt Nam quốc dân đảng tổ chức vụ ám sát tên trùm mộ phu đồn điền Badanh ở Hà Nội. Sau đó, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khủng bố dã man. Hàng loạt đảng viên và quần chúng cảm tình với Đảng bị bắt. Việt Nam quốc dân đảng bị khủng bố nặng nề. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân đảng như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu .. bị truy lùng ráo riết, nội bộ lãnh đạo bị chia rẽ. Bị động trước tình thế, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt còn lại quyết định khởi nghĩa với ý tưởng: “Không thành công cũng thành nhân”. Cuộc khởi nghĩa bùng nổ đêm 9-2-1930 tại Yên Bái. Cùng đêm, khởi nghĩa nổ ra ở Phú Thọ, Sơn Tây, sau đó là Hải Dương, Thái Bình .... Ở Hà Nội có cuộc đánh bom của quân khởi nghĩa để phối hợp. Cuộc khởi nghĩa cũng giành được những thắng lợi nhất định, nhưng cuối cùng bị thất bại nhanh chóng và bị đàn áp dã man. Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí khi lên máy chém đã hiên ngang hô to: “Việt Nam vạn tuế” Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái kéo theo sự giải thể của tổ chức Việt Nam quốc dân đảng. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan. 10 Nguyên nhân khách quan: Lúc này Pháp còn mạnh đủ sức để đàn áp một cuộc khởi nghĩa vừa đơn độc, vừa non kém như khởi nghĩa Yên Bái. Nguyên nhân chủ quan: Việt Nam quốc dân đảng chưa có cương lĩnh rõ ràng, thành phần ô hợp, không tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Khởi nghĩa bị động, không chuẩn bị kĩ càng. Khởi nghĩa Yên Bái thất bại thể hiện tính non yếu của một tổ chức chính trị, đại diện cho xu hướng dân tộc tư sản cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng và khởi nghĩa Yên Bái đã cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù của nhân dân ta đối với thực dân Pháp, nối tiếp tuyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc việt Nam. 3.3. Nguyên nhân quá trình phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng và sự giải thể của Việt Nam quốc dân đảng Từ nửa sau những năm 20 của thế kỷ XX, ở Việt Nam đã diễn ra một thực tế lịch sử. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về đường lối cách mạng chủ yếu đều do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tiến hành đã trở thành một làn sóng dân tộc dân chủ ngày càng lan rộng. Hội đã phân hóa thành 2 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng. Tương tự, Tân Việt Cách mạng Đảng cũng có sự phân hóa: 1 bộ phận gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, bộ phận còn lại trở thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Do đường lối cách mạng không đáp ứng yêu cầu của dân tộc, Việt Nam Quốc dân Đảng chưa được đại đa số quần chúng ủng hộ. Vì vậy, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm 1930 cũng như sự tan rã của Việt Nam Quốc dân Đảng là không thể tránh khỏi. 11 Từ thực tế đó, nguyên nhân chung dẫn đến quá trình trên: Quá trình truyền bá của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam cũng là quá trình tuyên truyền những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản ở Việt Nam...con đường này đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản của dân tộc. Do đó, các tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản ngày càng chiếm ưu thế và đã giữ vai trò quan trọng trong phong trào cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 đã đánh dấu bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức đễ lãnh đạo cách mạng. Nó chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối, tổ chức và lãnh đạo cách mạng kể từ cuối thế kỉ XIX. 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan