Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bước đầu nhận xét nội dung ngữ âm trong các sách dạy tiếng việt của hàn quốc hiệ...

Tài liệu Bước đầu nhận xét nội dung ngữ âm trong các sách dạy tiếng việt của hàn quốc hiện nay

.PDF
97
880
147

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- KIM JA HYUN BƯỚC ĐẦU NHẬN XÉT NỘI DUNG NGỮ ÂM TRONG CÁC SÁCH DẠY TIẾNG VIỆT CỦA HÀN QUỐC HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Ngôn ngữ học Hà Nội – 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- BƯỚC ĐẦU NHẬN XÉT NỘI DUNG NGỮ ÂM TRONG CÁC SÁCH DẠY TIẾNG VIỆT CỦA HÀN QUỐC HIỆN NAY Luận văn thạc sĩ Ngành Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Phúc Hà Nội – 2010 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu .......................................................................................... 3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 4 3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................... 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 6 5. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu ........................................................... 7 6. Cấu trúc của luận văn.................................................................................. 8 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. Âm tiết và các thành phần âm tiết tiếng Việt ....................................... 13 2.1.1. Âm tiết và cấu trúc âm tiết .................................................................... 13 2.1.2. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt .................................................................... 13 2.1.3. Các thành phần âm tiết tiếng Việt ........................................................ 18 2.2. Các hiện tượng ngôn điệu tiếng Việt ..................................................... 25 2.2.1. Trọng âm ............................................................................................... 25 2.2.2. Nhịp và nhịp điệu lời nói tiếng Việt ..................................................... 26 2.2.3. Ngữ điệu ................................................................................................ 30 CHƯƠNG II ĐẶC ĐIỂM TRONGCUNG CẤP CÁC NỘI DUNG NGỮ ÂM 1. Cơ sở dữ liệu. .............................................................................................. 33 2. Đặc điểm trong cung cấp các nội dung ngữ âm tiếng Việt..................... 36 CHƯƠNG III ĐẶC ĐIỂM TRONGPHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGỮ ÂM 3.1. Nhóm một (I) ........................................................................................... 64 3.2. Nhóm hai (II) ........................................................................................... 66 3.3. Nhóm ba (III) ........................................................................................... 68 3.4. Nhóm bốn (IV) ........................................................................................ 68 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 92 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu Đất nước Việt Nam đang trong thời kì hội nhập và phát triển. Đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), vị thế của Việt Nam ngày càng được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế. Tiếng Việt đã và đang trở thành phương tiện đắc dụng để mọi người trên thế giới tìm hiểu, tiếp cận với văn minh, văn hoá Việt Nam. Đồng thời, nó cũng là một phương tiện hết sức thuận lợi để người Việt Nam có điều kiện giao lưu, hội nhập với các nước, các khu vực khác nhau trên thế giới về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch ...v.v. Từ những lí do đó, việc dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ trong thời gian gần đây đã không ngừng được đẩy mạnh. Để đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của việc học tiếng Việt cho nhiều đối tượng khác nhau, nhiều khoa, nhiều trung tâm giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài liên tục được hình thành và sự phát triển khá mạnh. Nhiều hội nghị, hội thảo khoa học về dạy và học “Tiếng Việt như một ngoại ngữ”, “Tiếng Việt cho người nước ngoài”, "Việt Nam học và Tiếng Việt cho người nước ngoài", "Nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy tiếng Việt"…v.v đã được tổ chức ở trong nước cũng như ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều báo cáo trình bày tại các hội thảo, hội nghị về vấn đề “Dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoài” đã đề cập đến nhiều nội dung chuyên sâu của ngôn ngữ học dạy tiếng và cũng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Vấn đề “Tiếng Việt như một ngoại ngữ" càng ngày càng thu hút được một số lượng đông đảo các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm quan tâm và hơn hết là trong thời gian gần đây, nó đã được coi như một ngành khoa học riêng biệt . Ở Hàn Quốc, việc dạy và học tiếng Việt đã có một quá trình lịch sử tương đối dài, hơn 40 năm (từ 1967). Đặc biệt là trong những thập niên gần 3 đây do nhu cầu về chính trị cũng như nhu cầu về kinh tế, xã hội, sự giao lưu văn hoá của hai quốc gia, việc dạy và học tiếng Việt ở Hàn Quốc, đã có những bước phát triển vượt bậc, nhu cầu học tiếng Việt được đẩy mạnh đáng kể. Hiện nay, tiếng Việt đã được đào tạo một cách chính thức tại bốn trường Đại học và Cao đẳng của Hàn Quốc, trong đó Khoa Tiếng Việt của Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc được coi là cơ sở đào tạo có bề dày kinh nghiệm nhất. Bên cạnh những thành tựu to lớn trong giảng dạy và học tập tiếng Việt tại Hàn Quốc, một nội dung khác cần phải được kể đến, đó là những thành tựu đáng kể trong việc biên soạn các loại giáo trình, sách công cụ phục vụ cho tiến trình dạy và học. Nhìn chung, các giáo trình, sách công cụ về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu của đông đảo sinh viên, những người muốn học hỏi, và tìm hiểu về tiếng Việt và Việt Nam. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi của thực tế cũng như sự phát triển của khoa học dạy tiếng trong những năm gần đây, việc nhìn lại các giáo trình, tài liệu, sách công cụ dạy tiếng cả về mặt nội dung lẫn phương pháp là hết sức cần thiết và cũng là một đòi hỏi của thực tế khách quan. Trong luận văn này, chúng tôi có ý định khảo sát việc cung cấp và phương pháp luyện tập nội dung ngữ âm (bình diện phát âm) trong một số giáo trình dạy và học tiếng Việt tiêu biểu hiện đã và đang được sử dụng tại Hàn Quốc. Từ đó, chúng tôi cố gắng tìm hiểu và hi vọng đưa ra được một vài đặc điểm quan trọng nhằm góp thêm một ý tưởng cùng các nhà chuyên môn, nhà sư phạm dạy tiếng trong quá trình hiệu chỉnh, bổ sung và biên soạn các giáo trình dạy tiếng Việt tại Hàn Quốc (phần phát âm) ngày càng hoàn thiện hơn. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu bình diện ngữ âm (phần dạy và luyện phát âm) trong các giáo trình dạy tiếng Việt được xuất bản 4 và sử dụng tại Hàn Quốc từ năm 1970 đến nay. Quá trình khảo sát được tiến hành và thực hiện trên cả hai lĩnh vực: lĩnh vực cung cấp cứ liệu ngữ âm (mặt chất liệu) và lĩnh vực kĩ năng, bao gồm cả những thủ pháp luyện phát âm tiếng Việt đã được các tác giả giới thiệu trong mỗi giáo trình, sách công cụ. - Trong tình hình thực tế của việc dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc hiện nay, giáo trình là một vấn đề quan trọng vì nó đóng vai trò là cầu nối, có tính chất công cụ đối với người dạy và người học. Thông qua giáo trình, sách công cụ, chúng ta có thể tìm hiểu về phương pháp, kĩ năng mà các nhà soạn thảo gửi gắm trong đó. Hiện nay, có rất nhiều giáo trình dạy tiếng Việt cho người Hàn Quốc, phong phú về chủng loại và đa dạng về hình thức. Đã có nhiều tác giả tham gia vào công việc này với những định hướng khác nhau. Chính vì vậy có một tình trạng phổ biến là giữa các giáo trình, sách công cụ, danh sách phần ngữ âm học có số lượng khác nhau và tên gọi của các phần ngữ âm được đưa ra là không đồng nhất. Trong đó nổi lên một vấn đề: đó là tính thống nhất và tính chuẩn mực cho các giáo trình dạy tiếng. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho người dạy và người học đối với phần ngữ âm. Vì vậy, luận văn này thực hiện khảo sát phần ngữ âm được cung cấp trong các giáo trình dạy tiếng Việt tại Hàn Quốc ở các phần như sau: - Danh sách các giáo trình có phần dạy ngữ âm tiếng Việt và phân loại nhóm giáo trình dựa vào mức độ cung cấp phần ngữ âm tiếng Việt từ đơn giản đến đầy đủ, chi tiết. - Thống kê các phần ngữ âm được đưa ra ở mỗi giáo trình, dung lượng dành cho phần ngữ âm trong mỗi giáo trình, rút ra đặc điểm. Từ đó, luận văn rút ra những đặc điểm để nhận xét, đánh giá về phần ngữ âm trong các giáo trình đó và đưa ra những ý kiến của cá nhân, đóng góp vào việc củng cố và hoàn thiện việc xây dựng phần dạy ngữ âm tiếng Việt một cách đầy đủ, chi tiết và dễ hiểu để đưa vào các giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn 5 Quốc nhằm tạo hiệu quả cao trong việc dạy và học tiếng Việt cho người Hàn Quốc nói riêng. 3. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích góp phần hiệu chỉnh và cải tiến chất lượng của việc biên soạn giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc, đặc biệt ở phần ngữ âm, một trong ba phần cơ bản của việc cung cấp ngữ liệu đối với mục đích dạy tiếng. Đồng thời, thông qua việc so sánh các phần ngữ âm được đưa ra trong các giáo trình, luận văn chỉ ra những đặc điểm cũng như thực trạng dạy ngữ âm trong các giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc. - Mục đích lớn nhất của luận văn là đưa ra những kiến giải cần thiết cho việc biên soạn giáo trình và cung cấp vốn kiến thức ngữ âm cần thiết đối với việc học tiếng Việt của người nước ngoài mà cụ thể ở đây là việc dạy và học tiếng Việt của người Hàn Quốc. Tuy nhiên, với hạn chế của chuyên môn cũng như sự hạn hẹp của luận văn, chúng tôi chỉ hy vọng đưa ra những ý kiến nhỏ nhằm đóng góp sự hoàn thiện của ngữ âm tiếng Việt trong các giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn thực hiện xác định khái niệm về ngữ âm tiếng Việt và hệ thống ngữ âm tiếng Việt hoàn chỉnh nhất hiện nay đã được đưa ra trong Âm vị học tiếng Việt mở rộng của TS. Hoàng Cao Cương. - Thống kê phần ngữ âm được cung cấp và số lượng trang sách dành cho phần ngữ âm trong mỗi giáo trình, đưa ra bảng biểu về tình hình dạy ngữ âm trong các giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc. - Dựa trên những kết quả thống kê được, luận văn nêu lên những đặc điểm của việc dạy ngữ âm trong các giáo trình đó. 6 5. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu - Trong luận văn, chúng tôi chủ yếu áp dụng phương pháp thống kê (số lượng các đơn vị ngữ âm, danh mục các giáo trình, sách công cụ...), phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích, và phương pháp so sánh - đối chiếu để tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của nội dung ngữ âm trong các giáo trình đó. Mặt khác, chúng tôi cũng phân tích, so sánh giữa các giáo trình để tìm ra những nét tương đồng hay khác biệt. - Danh sách các giáo trình, sách công cụ được xác lập phục vụ cho quá trình khảo sát và nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn gồm: 1. Tiếng Việt cơ sở, Kim Ki Tae, 1970, Nxb Trường Đại học ngoại ngữ Hàn Quốc. 2. Tiếng Việt thực dụng, Hội nghiên cứu ngoại ngữ du lịch, 1992, Nxb Chungrim, Hàn Quốc. 3. Tiếng Việt cơ sở, Hội nghiên cứu Ngoại ngữ, 1993, Nxb Myungji, Hàn Quốc. 4. Tiếng Việt cơ sở, Choi Jae Hyun - Nguyễn Đức Dân, 1994, Nxb SamJisa, Hàn Quốc. 5. Luyện phát âm tiếng Việt, Kim Ki Tae, 1994, Nxb Tường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc. 6. Bước đầu học tiếng Việt , Hội nghiên cứu ngoại ngữ, 1995, Nxb Myungji, Hàn Quốc. 7. Hội thoại tiếng Việt trung cấp, Kim Ki Tae, 1996, Nxb Samjisa, Hàn Quốc. 8. Tiếng Việt hội thoại thiên niên kỳ, Moon Jong Ryung, Sung Ji Eun, Oh Mi Kyung/Hoang Tuy Phung, 2001, Nxb Donginrang, Hàn Quốc. 9. Hội thoại tiếng Việt dễ dàng, Kim Jong-wook, Park Yeon-kwan, Nguyễn Bá Thành, 2002, Nxb trường đại học ChungWoon, Hàn Quốc. 7 10. Ngữ pháp Tiếng Việt, Kim Ki Tea - Đoàn Thiện Thuật, 2002, Nxb SamJisa, Hàn Quốc. 11. Tieng Viet step by step , Hội truyền bá ngoại ngữ, 2003, Nxb Moonyerim, Hàn Quốc. 12. Tiếng Việt hội thoại (Quyển số 1), Jun Hye Kung, 2004, Nxb Moonyerim, Hàn Quốc. 13. Tiếng Việt du lịch, Kim Ki Tae, 2007, Nxb Samjisa, Hàn Quốc. 14. Nói tiếng Việt: Bước đầu học tiếng Việt, Lee Kang Woo, 2007, Nxb Moonyerim, Hàn Quốc. 15. Tiếng Việt cho mọi nguời, Nguyen Thi Thu Hang - Luu Tuan Anh, 2007, Nxb Digis, Hàn Quốc. 16. Hội thoại tiếng Việt – tiếng Hàn ứng dụng, Jun Nam Pyo, 2007, Nxb Moonyerim, Hàn Quốc. 17. Phát âm tiếng Việt, Shin Han Young, 2007, Nxb Youngmoon, Hàn Quốc. 18. Hội thoại Tiếng Việt bằng tiếng Hàn, Lí Kinh Hiền, 2009, Nxb Donginrang, Hàn Quốc. 19. Giao Tiếp tiếng Việt hiện đại, Nguyen Thi Tinh, 2009, Nxb Moonyerim, Hàn Quốc. 20. Tiếng Việt cho người Hàn, Song Jung Nam, 2010, Nxb Trường Đại học Ngoại Ngữ Hàn Quốc. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương một: Những cơ sở lí thuyết Chương hai: Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt (bình diện nội dung) Chương ba: Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt (bình diện phương pháp) 8 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1. Quá trình dạy tiếng thực chất bao gồm hai nội dung cơ bản, một là truyền thụ hay cung cấp cho người học những tri thức ngôn ngữ đích (target language) và hai là, hướng dẫn và luyện tập để người học hình thành và phát triển đến thuần thục thói quen sử dụng các tri thức ấy trong các trạng huống giao tiếp khác nhau. Nói cách khác, nếu đứng từ phía người học, kết quả tiếp thu một ngôn ngữ nước ngoài là được thể hiện ra trên hai mặt: vốn tri thức và mặt kĩ năng. Gắn liền với nội dung thứ nhất là quá trình dạy (hay cung cấp) cho người học những cơ chế được xây dựng bằng vật liệu ngôn ngữ như các đơn vị thuộc các cấp độ khác nhau trong cơ cấu một thứ tiếng, bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, tu từ... Còn, gắn liền với nội dung thứ hai là việc hướng dẫn và rèn luyện cho người học các dạng hoạt động trong nói năng của các đơn vị thuộc các cấp độ đó, như: cách thức tổ chức các đơn vị theo kiểu đặc trưng riêng cho thứ tiếng đang tiếp nhận, các biến thể xuất hiện khi hành chức hay hoạt động trong thực tiễn lời nói ; bao gồm cả việc phục hồi và khắc phục những khiếm khuyết mà ở nội dung thứ nhất người học chưa có điều kiện để hoàn thiện. Thái độ xử lí đối với hai nội dung cơ bản trên đây là xuất phát điểm để hình thành nên các khuynh hướng trong tâm lí học giảng dạy và phương pháp luận dạy tiếng nói chung . Hai nội dung được chia tách trên chỉ mang tính lí thuyết. Còn trong thực tế, chúng thường lại đặt điều kiện cho nhau, không phân biệt rạch ròi. Vốn tri thức ngôn ngữ luôn được thâu nhập và củng cố qua sử dụng thông qua những kĩ năng như: nghe - nói - đọc và viết. Và ngược lại, kĩ năng chỉ có thể được nhận ra và nâng cao khi thật sự có đủ vốn tri thức về các yếu tố ngôn ngữ đang dùng. Trong thực tế, khi nói người học tiếng nước ngoài có một tri thức ngôn ngữ nào đó, là hàm ý rằng anh ta đã đưa được cái tri thức ấy vào guồng quay 9 của thực tiễn hoạt động ngôn từ chứ không hàm ý chỉ là khối kiến thức ngôn ngữ học thuần tuý, xơ cứng, chưa qua sử dụng. Trong lĩnh vực ngôn ngữ học dạy tiếng, tri thức ngôn ngữ chỉ có giá trị, được nhận biết khi chúng được đặt trong trạng thái hoạt động. Đó cũng chính là đặc trưng tạo ra sự khác nhau cơ bản giữa một ngành ngôn ngữ lí thuyết với một ngành ngôn ngữ ứng dụng, dẫu cả hai đều xử lí và tận dụng các ngữ liệu có trong tiếng Việt. 2. Hệ thống âm thanh tiếng Việt, từ trước tới nay đã được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến. Tuy nhiên, cách hiểu hệ thống âm thanh tiếng Việt dưới góc độ ngữ dụng học có lẽ phải coi A. de Rhodes là người đầu tiên. Với nhiệm vụ chính là truyền đạo, mang những âm thanh của Chúa đến với các cư dân Việt, cũng như các nhà truyền đạo khác, A. de Rhodes đã tự đặt ra cho mình một nhiệm vụ, đó là phải thông thạo tiếng Việt, tiếng nói của người bản địa. Có điều, khi tới Việt Nam, chính ông cũng đã không ngờ vì đã gặp phải một vài khó khăn nhất định. Trước hết, đó là hệ thống âm thanh và ngữ pháp của tiếng Việt, một thứ tiếng mà với ông nó vô cùng xa lạ và hoàn toàn khác hẳn với tiếng mẹ đẻ của mình. Và, hai là thế kỉ XVII, với sự nghèo nàn về tư tưởng ngôn ngữ học (chủ yếu nghiên cứu về từ nguyên học lịch sử) nên việc gán cho âm thanh Việt một kí tự kiểu phương Tây để phát lại âm thanh đó theo kiểu Việt là một cố gắng rất lớn và không có gì là khó hiểu của A. de Rhodes. Bằng cảm nhận của một người phương Tây, ông đã chia cắt khá máy móc từng thực thể âm tiết Việt theo các phạm trù âm thanh - chữ viết, một phương thức hết sức phổ biến trong tiếng mẹ đẻ của mình. Kết quả là, theo A. de Rhodes, một chỉnh thể âm tiết Việt sẽ bao gồm hai phần: một phần âm thanh tương tự và một phần khác, hoàn toàn xa lạ với tập quán âm thanh của nước ông. Phần mà ông cho là tương tự chính là những chuỗi kết dính các âm đoạn như phụ âm và nguyên âm, còn phần xa lạ là những đặc trưng về nhạc tính, thanh điệu có trong từng âm tiết. Quan niệm này của A. de Rhodes, đã được ông ứng dụng khá nhuần nhuyễn trong cuốn từ điển do ông đứng tên và 10 về sau được coi là cách tiếp cận âm vị học đoạn tính (segmental) theo kiểu phương Tây [20]. Thực ra, trước, cùng và sau A. de Rhodes, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện một cách xử lí khác đối với hệ âm thanh tiếng Việt. Đó là lối cấu tạo chữ theo kiểu phiên thiết của các nhà Nho Việt Nam. Phiên thiết là nguyên tắc cấu tạo chủ yếu của chữ Nôm dựa trên chất liệu văn tự tượng hình của người Hán để ghi các âm thanh tiếng Việt. Khác với A. de Rhodes, các nhà Nho với trực cảm của một người Việt, họ đã nhận ra một âm tiết Việt ít nhất phải bao chứa: một phần đầu và một phần đi theo sau, gọi là vần. Theo cái trực cảm này, âm tiết Việt được quan niệm là một khối trọn vẹn không chia cắt tuyến tính như A. de Rhodes đã hình dung. Cách tiếp cận này, về sau cũng đã tìm thấy cơ sở khoa học của nó ngay trong quan niệm về âm vị học siêu đoạn tính (suprasegmental) của người phương Tây, J. Firth [17]. Như vậy, về mặt lịch sử, có thể thấy rằng hệ thống âm thanh tiếng Việt đã từng được tri giác và ứng dụng theo cả hai cách tiếp cận khác nhau: đoạn tính và siêu đoạn tính. Chúng tôi cho rằng, ở mỗi tiếp cận đã trình bày đều có những mặt mạnh và yếu của mình. Chúng nên bổ sung cho nhau hơn là loại trừ nhau. Hơn nữa, cũng nên lưu ý là cả hai cách này đều đã tồn tại và đã được thực tiễn xã hội Việt Nam chấp nhận. Chúng có khả năng ứng dụng ngang nhau nếu xét trên quan điểm thực dụng. Do đó, một hình dung đầy đủ về hệ thống âm thanh tiếng Việt, rõ ràng hệ thống đó phải bao chứa cả những hiện tượng âm thanh đoạn tính (segmental facts) lẫn những hiện tượng ngôn điệu (prosodies) hay siêu đoạn tính (suprasegmental facts). Các hiện tượng âm thanh đoạn tính gồm âm tiết, cấu trúc và các thành tố cấu thành âm tiết; còn thuộc về những hiện tượng ngôn điệu tiếng Việt có thể kể đến thanh điệu, nhịp điệu, trọng âm và ngữ điệu ...v.v. Ở một khía cạnh khác, ngôn ngữ của con người trong quá trình hành chức, như chúng ta đã thấy luôn được tồn tại theo hai dạng cơ bản: ngôn ngữ 11 nói và ngôn ngữ viết. Song hai dạng tồn tại này không xuất hiện đồng thời. Ngôn ngữ nói cổ xưa hơn rất nhiều so với ngôn ngữ viết. Tuy nhiên, sự ra đời của ngôn ngữ viết lại được coi như là một sự cách tân trong quá trình phát triển của ngôn ngữ: giao tiếp thông qua chữ viết là hình thức giao tiếp vượt không gian và thời gian. "Lời nói gió bay" nhưng ngôn ngữ viết thì "còn mãi với thời gian" và được truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác... Mặt khác, xét về chức năng, chữ viết là đại diện cho lời nói, cố định hoá lời nói. Mỗi ngôn ngữ có một phương thức ghi lại ngôn ngữ nói của mình. Có nhiều loại chữ viết nhưng chữ viết ghi âm được coi là tiến bộ nhất. Hệ thống chữ viết của tiếng Việt hiện nay thuộc loại chữ viết ghi âm. Còn trên quan niệm về kí hiệu học thì mối quan hệ giữa chữ viết và ngữ âm là mối quan hệ giữa hai mặt của một kí hiệu. Nếu hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ bao gồm các âm vị nhất định thì hệ thống chữ viết cũng bao gồm các chữ cái. Mỗi âm vị có một hình thức biểu đạt tương ứng trong chữ viết. Mối quan hệ âm - chữ này ở dạng lí tưởng là 1:1. Vì vậy, quá trình cung cấp và hướng dẫn cho người học hệ thống âm thanh tiếng Việt bao gồm cả sự giới thiệu và luyên tập đến mức thành thạo hệ thống chữ viết tiếng Việt. Âm bao giờ cũng gắn liền với chữ. Trong luận văn này, đối với khu vực thứ nhất, tức gồm những hiện tượng âm thanh đoạn tính, trong quá trình xử lí, chúng tôi chấp nhận một phần lớn quan niệm về cấu trúc âm tiết của Đoàn Thiện Thuật trong "Ngữ âm học tiếng Việt" [15]. và phần còn lại quan niệm của Hoàng Cao Cương trong "Thử tìm một tiếp cận động cho âm vị tiếng Việt" [4], [7] đã đề nghị cách đây hơn chục năm. Còn đối với khu vực thứ hai, những hiện tượng ngôn điệu tiếng Việt, chúng tôi sẽ tận dụng thành quả nghiên cứu của nhiều nhà Việt ngữ về lĩnh vực này, trong đó chủ yếu của Hoàng Cao Cương trong chuyên đề "Âm vị học tiếng Việt mở rộng"[2], của Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong "Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt" [8], đặc biệt là của Cao Xuân Hạo trong "Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa" [10]. 12 2.1. Âm tiết và các thành phần âm tiết tiếng Việt 2.1.1. Âm tiết và cấu trúc âm tiết Như chúng ta đã biết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Trong tiếng Việt, âm tiết là đơn vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt, có tính độc lập cao. Nó là đơn vị rất dễ nhận diện trong phát âm (âm thanh hoá) lẫn trong cách viết (kí tự hoá). Khi phát âm, mỗi âm tiết bao giờ cũng được thể hiện rất rõ ràng và được phát âm tách rời với những tiếng đi cạnh nó. Khi viết, mỗi âm tiết được ghi thành một chữ rời với các chữ khác. Ví dụ, trong câu: "Mẹ vừa mới đi làm về", bất kì người Việt nào cũng nhận ra 6 tiếng tách rời nhau, tương ứng với 6 khối chữ tách rời nhau được thể hiện khi viết. Đó là: "mẹ", "vừa", "mới", "đi", "làm", "về". 2.1.2. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất. Nó là khúc đoạn âm thanh nhỏ nhất có thể phân cắt được trong chuỗi lời nói được con người phát ra. Tuy nhiên, nhờ vào các thủ tục phân xuất âm vị học và hình thái học, mỗi âm tiết tiếng Việt còn có thể được chia tách thành các bộ phận nhỏ hơn âm tiết. Các bộ phận này được gọi là các thành phần (hay thành tố) âm tiết. Theo Đoàn Thiện Thuật trong "Ngữ âm học tiếng Việt", việc chia tách này được tiến hành theo hai bậc như mô hình sau: Đ I Ệ U T H A N H V ÂM ĐẦU ÂM ĐỆM Ầ N ÂM CHÍNH ÂM CUỐI Bảng 1.1 Mô hình hai bậc âm tiết tiếng Việt 13 Ví dụ: một âm tiết "hoàn" có cấu trúc gồm 5 yếu tố như sau: 1. Thanh điệu 2 (thanh huyền) là thành tố có chức năng phân biệt với các âm tiết khác về cao độ. 2. Âm đầu /h-/: là thành tố có chức năng mở đầu âm tiết. 3. Âm đệm/-w-/: là thành tố có chức năng thay đổi âm sắc của âm tiết sau lúc mở đầu. 4. Âm chính /-a-/: là thành tố quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết, là hạt nhân của âm tiết. 5. Âm cuối /-n/ : là thành phần đảm nhiệm chức năng kết thúc âm tiết. Trong thực tế, không phải âm tiết tiếng Việt nào cũng bao gồm đủ cả 5 thành phần cấu tạo như trình bày ở ví dụ trên. Sự vắng mặt các thành phần âm tiết trên bình diện phát âm và chữ viết là không đều đặn và như nhau. Chẳng hạn, trên hình thức chữ viết thì chỉ có 5 kí hiệu (dấu thanh) biểu diễn 5 thanh điệu (từ thanh 2 đến thanh 6: huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng) còn thanh điệu 1 không có hình thức biểu hiện, song trên bình diện âm thanh thì nó vẫn tồn tại. Hay, bất cứ âm tiết tiếng Việt nào cũng có sự mở đầu của mình song trên hình thức chữ viết cũng có một âm vị làm âm đầu không được kí hiệu hoá, đó là âm vị /?-/. Trên thực tế, chỉ có âm chính là thành phần không thể thiếu của bất cứ âm tiết tiếng Việt nào trên cả hai bình diện: phát âm và chữ viết. Một âm tiết có thể có hoặc không có âm đệm và âm cuối trên bình diện phát âm. Sự vắng mặt của âm đệm và âm cuối trên bình diện phát âm được thể hiện bằng sự vắng mặt hình thức biểu hiện trên chữ viết. Âm tiết tiếng Việt bao gồm nhiều thành phần khác nhau và đường phân chia các thành phần này cũng đậm nhạt khác nhau hay nói chính xác hơn thì chúng thuộc vào các tầng bậc cấu trúc khác nhau. Đường ranh giới phân chia giữa âm đầu, vần và thanh điệu là rất rõ ràng, còn đường ranh giới phân chia các bộ phận trên trong nội bộ vần (âm đệm, âm chính, âm cuối) là sức mờ 14 nhạt. Tuỳ thuộc vào mức độ đậm nhạt hay khả năng độc lập của các yếu tố, âm tiết tiếng Việt được chia thành hai bậc cấu trúc: - Bậc 1 gồm thanh điệu, âm đầu và vần là các yếu tố có tính độc lập cao, kết hợp lỏng. - Bậc hai gồm các thành tố của vần: âm đệm, âm chính và âm cuối là các yếu tố có tính độc lập thấp, kết hợp khá chặt. Có thể hình dung cấu trúc hai bậc của âm tiết tiếng Việt dựa trên đặc trưng phân giới đậm/nhạt qua sơ đồ sau: Âm tiết Bậc 1 Âm đầu Thanh điệu Vần Bậc 2 Âm đệm Âm chính Âm cuối Âm vị học hiện đại đi sâu vào nghiên cứu các thuộc tính có bên trong từng âm vị và mối liên kết của chúng để cấu trúc nên các đơn vị âm vị học lớn hơn một âm vị hoặc tiết vị. Trong quan niệm này, âm tiết được coi là sự cố kết của hai đường phân bố của các nét siêu đoạn và chiết đoạn vốn có trong từng cấu trúc tiết vị (đối với các ngôn ngữ phương Đông, nhất là các ngôn ngữ có thanh điệu). Nói một cách khác, âm tiết tiếng Việt ở một hướng tiếp cận khác, có thể được phân chia làm hai cấu trúc nhỏ, đó là cấu trúc chiết đoạn và cấu trúc siêu đoạn. Hai tiểu cấu trúc này liên hệ chặt với nhau đến mức không thể nghiên cứu hay học tập chúng một cách tách biệt. Sự cố kết chặt chẽ ấy tạo nên đặc thù âm thanh của tiếng Việt, nói rộng hơn là của các ngôn ngữ đơn lập phân tiết tính. Cấu trúc chiết đoạn là cấu trúc phổ niệm cho bất kì một ngôn ngữ nào trên thế giới. Còn cấu trúc siêu đoạn thì mang tính đặc thù cho từng 15 ngôn ngữ cụ thể. Cấu trúc chiết đoạn trong âm tiết bao gồm các thành tố: Âm đầu, âm chính, âm cuối. Những loại âm vị này là thông thường trong danh sách các âm vị trên thế giới. Còn cấu trúc siêu đoạn ở một số ngôn ngữ có thể bao gồm: các thanh vị và các điệu vị ngoài thanh vị. Đối với tiếng Việt, cấu trúc siêu đoạn gồm: thanh vị và các kết nối. Các nội dung âm vị học của kết nối nằm trong các kết hợp giữa các "đoạn" âm đầu với vần và âm chính với âm cuối. Như vậy, khái niệm âm đệm trong cấu trúc âm tiết hai bậc sẽ tương ứng với kết nối 1 (J1) và các thể "dài/ngắn" của âm vị chính âm tương ứng với kết nối 2 (J2). Sơ đồ cấu trúc âm tiết (tiết vị) tiếng Việt được hình dung như sau: ÂM TIẾT Cấu trúc chiết đoạn C1 Cấu trúc siêu đoạn T R V C2 J J1 J2 Sơ đồ 1: Cấu trúc tiết vị tiếng Việt Chú thích: C1: âm đầu V: nguyên âm R: vần C2: âm cuối T: thanh vị J: các điệu vị (gồm: J1: "tròn môi hoá" và J2: sức"căng" hay đối lập ngắn / dài ở nguyên âm) 16 Ví dụ 1. Phân tích cấu trúc của các âm tiết: "thiền" và "thuyền" ťiеn Cấu trúc chiết đoạn ť Cấu trúc siêu đoạn Thanh /2/ iеn iе ø n ťwiеn Cấu trúc chiết đoạn Cấu trúc siêu đoạn Thanh /2/ iеn ť iе n 17 w Ví dụ 2. Phân tích cấu trúc của các âm tiết: "tan" và "tăn" tan Cấu trúc chiết đoạn t Cấu trúc siêu đoạn Thanh /1/ an a ø n tăn Cấu trúc chiết đoạn t Cấu trúc siêu đoạn Thanh /1/ ø + căng Nói một cách khác, kết nối 1 (J1) cho phép âm tiết mang màu sắc tối và trầm hơn hay còn có tên [Flat] / [Plain] ([Giáng] / [không Giáng] [21]. Còn kết nối 2 (J2) có tác dụng làm cho âm tiết căng hơn và phụ âm kết thúc âm tiết dài hơn. Chúng ta có thể gọi đó là nét [+Căng] theo quan niệm của R. Jakobson và M. Halle trong"Tenseness and Laxeness" (Căng và Lơi) [18]. 2.1.3. Các thành phần âm tiết tiếng Việt 2.1.3.1. Âm đầu Đặc trưng quan trọng nhất của tiểu hệ phụ âm đầu là nét [+PÂT] (phụ âm tính). Nét [+PÂT] là nét âm vị học được bộc lộ qua những đặc điểm sau đây: 18 a. [+chặn] xét về mặt cấu âm b. Chứa năng lượng ít c. Trường độ ngắn Về số lượng, tiếng Việt có 23 phụ âm là âm đầu; trong đó có phụ âm /p-/ được xác lập như là một âm vị phụ âm "thiếu" (có bối cảnh xuất hiện hạn chế: Sapa, đèn pin...). Chúng được phân bố như sau: BỘ VỊ môi bẹt quặt mặt lưỡi (p) ť t ʈ c k ʔ b d m n ɲ vô thanh f s ʂ ŋ χ h hữu thanh v z ʐ γ PHƯƠNG THỨC ồn TẮC bật hơi không vô thanh bật hơi hữu thanh vang (mũi) XÁT ồn đầu lưỡi vang (bên) gốc lưỡi thanh hầu l Bảng 1.2 Sự phân bố của phụ âm đầu tiếng Việt Các âm đầu tiếng Việt khu biệt nhau theo các nét sau đây: 1. [PÂT] 5. [± bên] 9. [± lợi] 2. [±tắc] 6. [± bật hơi] 10. [± ngạc cứng] 3. [±hữu thanh] 7. [±quặt lưỡi] 11. [±ngạc mềm] 4. [±mũi] 8. [±môi] 12. [±họng] 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan