Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chức năng dụng học của câu hỏi không chính danh trong tiếng ý (có liên hệ với ti...

Tài liệu Chức năng dụng học của câu hỏi không chính danh trong tiếng ý (có liên hệ với tiếng việt)

.PDF
112
976
102

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------------------ TRẦN THỊ KHÁNH VÂN CHỨC NĂNG DỤNG HỌC CỦA CÂU HỎI KHÔNG CHÍNH DANH TRONG TIẾNG Ý (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------------------ TRẦN THỊ KHÁNH VÂN CHỨC NĂNG DỤNG HỌC CỦA CÂU HỎI KHÔNG CHÍNH DANH TRONG TIẾNG Ý (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 02 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đƣờng Công Minh Hà Nội, 2013 2 LỜI CẢM ƠN Trong suố t quá trình học tập và hoàn thành luận văn này , tôi đã nhận được sự hướng dẫn , giúp đỡ quý báu của các thầy cô . Với lòng kính trọng và biế t ơn sâu sắ c tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới: Các thầy cô giáo trong Khoa Ngôn ngữ học – Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện để tôi học tập và nghiên cứu. PGS.TS. Đường Công Minh, người hướng dẫn khoa học, người thầy kính mến đã hết lòng chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. PGS.TS. Nguyễn Hồng Cổn, người thầy tâm huyết đã định hướng cho tôi với những gợi mở trong lựa chọn đề tài và đằng sau đó là một hướng nghiên cứu còn nhiều mới mẻ. Xin cảm ơn các em sinh viên năm thứ 3 và năm thứ 4 của Khoa tiếng Ý – trường ĐH Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát thực tế. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn. Hà Nội, tháng 11 năm 2013 Học viên Trần Thị Khánh Vân 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Học viên Trần Thị Khánh Vân 4 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 7 0.1. Lý do chọn đề tài. ............................................................................................7 0.2. Lịch sử vấn đề. .................................................................................................7 0.3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn. .............................................................10 0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ................................................................11 0.5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu. ..................................................11 0.6. Đóng góp của luận văn. .................................................................................13 0.7. Bố cục của luận văn .......................................................................................13 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................ 15 1.1.Một vài nhận thức về lý thuyết hành động ngôn từ ........................................15 1.1.1. Hành động ngôn từ .................................................................................15 1.1.2. Hành động tại lời trực tiếp - gián tiếp ....................................................16 1.2. Tổng quan về câu hỏi và câu hỏi KCD ..........................................................18 1.2.1. Câu hỏi và hành động hỏi .......................................................................18 1.2.2. Câu hỏi chính danh và câu hỏi không chính danh ..................................20 1.2.3. Câu hỏi KCD trong hệ thống phân loại câu hỏi .....................................21 1.2.4. Một số thông tin ngữ dụng trong việc nghiên cứu câu hỏi KCD ...........32 Tiểu kết 1…………………………..……………………………………………………...39 Chương 2: CHỨC NĂNG DỤNG HỌC CỦA CÂU HỎI KHÔNG CHÍNH DANH TRONG TIẾNG Ý ............................................................................................ 41 2.1. Câu hỏi yêu cầu hành động ............................................................................41 2.1.1. Nhận diện câu hỏi yêu cầu hành động ....................................................41 2.1.1.1 Đặc trưng tình thái ................................................................................41 2.1.1.1 Đặc trưng ngữ cảnh ..............................................................................43 2.1.2. Chức năng ngữ dụng cơ bản của câu hỏi yêu cầu hành động ................45 2.1.2.1. Ra lệnh ……………………………………………………………………….....46 2.1.2.2. Đề nghị ………………………………………………………………….…..….47 2.1.2.3. Mời mọc, rủ rê, gợi ý ……………………………………………...………….49 2.1.2.4. Xin phép ………………………………………………………………..……….51 5 2.2. Câu hỏi tu từ...................................................................................................53 2.2.1. Nhận diện câu hỏi tu từ ..........................................................................53 2.2.1.1 Đặc trưng tình thái ................................................................................53 2.2.1.2 Đặc trưng ngữ cảnh ..............................................................................55 2.2.2. Chức năng dụng học cơ bản của câu hỏi tu từ........................................57 2.2.2.1. Bác bỏ ……………………………………………………...…………………...57 2.2.2.2. Quở trách …………………………………………………..…………………..58 2.2.2.3. Khuyên nhủ ………………………………………………..…………………..60 2.2.2.4. Từ chối, chấp thuận …………………………….………..…………………..61 2.3. Câu hỏi điều tiết .............................................................................................63 2.3.1. Nhận diện câu hỏi điều tiết .....................................................................63 2.3.1.1 Đặc trưng tình thái ................................................................................65 2.3.1.2 Đặc trưng ngữ cảnh ..............................................................................67 2.3.2. Chức năng dụng học cơ bản của câu hỏi điều tiết ..................................68 2.3.2.1. Câu hỏi điều tiết sử dụng trong phần mở thoại …………………………68 2.3.2.2. Câu hỏi điều tiết sử dụng trong phần thân thoại ……….………………70 2.3.2.3. Câu hỏi điều tiết sử dụng trong phần kết thoại …………………………72 Tiểu kết 2……………………………………………..…………………………………...74 Chương 3: MỘT VÀI LIÊN HỆ THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY VÀ DỊCH CÂU HỎI KHÔNG CHÍNH DANH TIẾNG Ý ................................................... 78 3.1. Nhận xét về sự tương đồng và khác biệt........................................................78 3.2. Ứng dụng trong việc giảng dạy tiếng Ý cho người Việt Nam và trong lĩnh vực dịch thuật ........................................................................................................86 3.2.1. Một vài đề xuất về hướng tiếp cận trong việc giảng dạy nhóm câu hỏi không chính danh tiếng Ý cho học viên người Việt .........................................86 3.2.2. Những lưu ý khi chuyển dịch câu hỏi KCD từ tiếng Ý sang tiếng Việt. 93 Tiểu kết 3………………….…………………………………………………………..……..….101 KẾT LUẬN .....................................................................................................104 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................107 6 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT KCD: Không chính danh HĐNT: Hành động ngôn từ TĐNN: Tương đương ngữ nghĩa TĐND: Tương đương ngữ dụng SP: Mệnh đề S: Chủ ngữ V: Động từ N: Danh từ KÝ HIỆU TRONG BẢNG MIÊU TẢ NGỮ ĐIỆU Mức điệu cao Mức điệu trung Mức điệu thấp Cường độ Cao độ 7 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Ngữ điệu Protonia …………………………….………………………………………….34 Bảng 1.2: Ngữ điệu Tonia …………………………...………………………………………………..34 Bảng 2.1: Giá trị ngôn trung và hình thức thể hiện của nhóm câu hỏi không chính danh……………………………………………….…………………………………………………………..70 Bảng 3.1: So sánh điểm giống và khác nhau của câu hỏi không chính danh trong tiếng Ý và tiếng Việt……………………………………………….…………………………………….81 Biểu đồ 3.1: Sự tương quan giữa TĐNN và TĐND……………...……………………………91 8 PHẦN MỞ ĐẦU 0.1. Lý do chọn đề tài. Trong hoạt động giao tiếp, hành động hỏi giữ một vị trí rất quan trọng bởi nó có khả năng thực hiện đa dạng các mục đích giao tiếp khác nhau của diễn ngôn. Tuy nhiên để hiểu một phát ngôn hỏi, chúng ta không thể chỉ dựa vào bề mặt câu chữ mà phải gắn phát ngôn hỏi đó với yếu tố ngữ cảnh, một trong những nhân tố quan trọng phản ánh giá trị ngữ dụng. Đế tìm hiểu sâu hơn về dạng thức và ‎ý nghĩa của câu hỏi trong tiếng Ý nhằm phục vụ giảng dạy, đồng thời mong muốn góp phần hoàn thiện bức tranh nghiên cứu câu hỏi dưới lăng kính ngữ dụng học, chúng tôi đã chọn câu hỏi không chính danh (KCD) làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn của mình. Đặc biệt, tiếng Ý là một ngôn ngữ còn khá mới mẻ ở Việt Nam, việc chọn ngôn ngữ này làm cứ liệu nghiên cứu, chúng tôi thiết nghĩ sẽ ít nhiều đóng góp cho địa hạt nghiên cứu ngôn ngữ học thêm phong phú và đa dạng hơn. Đó chính là lý do vì sao chúng tôi chọn đề tài: “Chức năng dụng học của câu hỏi không chính danh trong tiếng Ý (có liên hệ với tiếng Việt)”. Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu này có thể có những đóng góp nhất định vào hoạt động nghiên cứu câu hỏi và hành vi hỏi trong tiếng Ý nói riêng và ở một chừng mực nào đó, trong việc nghiên cứu các cặp hành vi giao tiếp – công cụ ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp bằng lời nói chung. 0.2. Lịch sử vấn đề. Xét từ góc độ lịch sử, những nghiên cứu về Hành động ngôn từ (HĐNT) khởi đầu từ những nghiên cứu triết học của ngôn ngữ. Những triết gia nổi tiếng như Austin (1962); Searle (1969, 1975, 1979); v.v. đã đưa ra những nhìn nhận cơ bản về vấn đề này khi nghiên cứu ngôn ngữ trong mối tương tác giữa ký hiệu ngôn ngữ và hành vi giao tiếp. Kế thừa tư tưởng trên, rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã và đang tiếp bước bằng những công trình ứng dụng lý thuyết HĐNT trong việc nghiên cứu một 9 hành vi ngôn ngữ cụ thể. Xét về hành động hỏi, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này trong các ngôn ngữ châu Âu, đặc biệt với tiếng Pháp (Gosse. Pinchon & Wagner, Riegel, Dubois, Lagane v.v…). Ở Ý, có thể xem Elisabetta Fava là một trong những người đầu tiên quan tâm tới việc nghiên cứu câu hỏi đặt trong hoạt động hành chức, trong mối tương tác giữa ký hiệu ngôn ngữ và hành vi giao tiếp. Cuốn Atti di domanda e strutture grammaticali in italiano(1984) – Hành động hỏi và cấu trúc ngữ pháp trong tiếng Ý, là một tài liệu có giá trị với những khái lược ban đầu và cơ sở nhất về hành động hỏi. Sau đó đến năm 1995, với sự ra đời của chuyên khảo Il tipo interrogativo – Câu nghi vấn, bà đã không chỉ giới thiệu một bức tranh toàn cảnh về câu hỏi tiếng Ý theo cách phân loại: Câu hỏi truyền thống (Domande canoniche) – Câu hỏi không truyền thống (Domande non-canoniche) mà bà còn phân tích, đối chiếu một cách khái quát nhất về hình thức thể hiện (hình thái – cú pháp) cũng như chức năng sử dụng của các dạng câu hỏi này. Mặc dù trong bảng phân loại của Fava không đề cập đến nhóm câu hỏi yêu cầu hành động (câu hỏi cầu khiến) – một tiểu loại câu hỏi nằm trong nhóm câu hỏi không truyền thống, nhưng rõ ràng, cuốn sách của bà thực sự là một công trình lớn, có đóng góp không nhỏ trong việc khai mở một hướng nghiên cứu mới về hành động hỏi, tạo nền móng cho những nghiên cứu tiếp theo. Sau đó, năm 2006, Giuseppe Patota đã cho ra đời cuốn Grammatica di riferimento dell‟italiano contemporaneo (Ngữ pháp tiếng Ý đương đại). Khác với các cuốn văn phạm truyền thống được trình bày theo trường phái Cấu trúc luận, thì trong cuốn sách của mình, Patota đã không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các mẫu câu hỏi và các quan hệ hình thức giữa chúng mà ông còn phân loại câu hỏi theo mục đích giao tiếp. Patota cũng chia câu hỏi thành hai loại chính : Câu hỏi thực (Domande reali) – Câu hỏi giả (Domande fittizie). Trong cách phân loại của mình, đặc biệt đối với nhóm câu hỏi giả, các tiểu loại được phân chia với mục đích giao tiếp rõ ràng hơn, có cái nhìn tổng thể và biện chứng hơn nhưng tác giả cũng chỉ dừng lại ở việc xác định đối tượng, nêu những nhận xét khái quát về hình thức và nội dung của chúng 10 chứ chưa thực sự đi sâu tìm hiểu cơ chế, điều kiện hình thành cũng như những đặc trưng ngữ nghĩa – ngữ dụng cơ bản của chúng. Ở Việt Nam, lý luận về câu hỏi cũng được các nhà ngữ pháp và ngôn ngữ Việt Nam xem xét, miêu tả và lý giải từ nhiều góc độ khác nhau. Ngoài quan điểm ngữ pháp truyền thống phải kể đến quan điểm chức năng của Cao Xuân Hạo. Ông cho rằng các câu hỏi của tiếng Việt cũng như của rất nhiều thứ tiếng khác, “ngoài giá trị hỏi (yêu cầu thông báo) là giá trị ngôn trung trực tiếp của nó, còn có thể có một (những) giá trị ngôn ngữ phái sinh (phủ định, khẳng định, tỏ ý ngờ vực, thách thức …) và trong nhiều trường hợp, cái giá trị ngôn trung phái sinh này lại là công dụng và mục đích duy nhất của câu nói, trong khi tính chất nghi vấn của câu nói chỉ còn là một hình thức thuần túy, may ra chỉ góp một sắc thái tu từ (hùng biện) nào đó cho câu” [17, tr.115]. Ông chia câu hỏi thành hai mảng lớn: Câu hỏi chính danh – Câu hỏi có giá trị ngôn trung khác. Với quan điểm này, tác giả đã cho chúng ta cái nhìn hệ thống về câu hỏi tiếng Việt để từ đó làm cơ sở cho những nghiên cứu chuyên sâu hơn. Ngoài ra, cũng phải kể tới một số luận án và luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học cũng như ngữ văn học. Đây là những công trình khoa học bước đầu thử vận dụng lý thuyết về HĐNT để khảo sát các hành vi ngôn ngữ cụ thể trong lời nói. Những công trình này không nặng về lý thuyết mà cung cấp cho chúng ta hệ thống tư liệu rất phong phú. Trong số các công trình nghiên cứu đó phải kể đến luận án tiến sĩ ngữ văn của Nguyễn Việt Tiến ở Đại học Quốc gia Hà Nội về “Hỏi và câu hỏi theo quan điểm ngữ dụng học” (trên cứ liệu tiếng Pháp, có so sánh với tiếng Việt) (2002). Đây là một nghiên cứu tổng quan về giá trị dụng học của câu hỏi trong tiếng Pháp thông qua các hoạt động hành chức cụ thể trong mối quan hệ tương tác giữa cấu trúc ngôn ngữ và hành vi giao tiếp. Ngoài những đóng góp về mặt lý luận về tính lưỡng diện của câu hỏi cũng như của hành vi hỏi, luận án còn có những đóng góp đáng kể về mặt thực tiễn với ba lĩnh vực ứng dụng: giảng dạy, dịch thuật và một số lĩnh vực khác trong đó câu hỏi là công cụ chủ yếu và đóng vai trò quyết định. Hay luận văn thạc sĩ “Bước đầu khảo sát các cặp thoại hỏi đáp trong sách 11 dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” của Lê Thu Lan (2012). Thông qua việc tìm hiểu lí thuyết hội thoại và cặp thoại hỏi đáp trong các giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài từ cơ sở đến nâng cao, mục đích chính của luận văn là khảo sát và phân loại các cặp thoại hỏi đáp (chính danh và không chính danh) trong các giáo trình tiếng việt cho người nước ngoài để tìm ra những đặc điểm cơ bản. Từ đó xây dựng một hệ thống các loại câu hỏi cũng như câu đáp phù hợp với trình độ của người học và thiết kế các bài học cũng như các giáo trình. Nghiên cứu câu hỏi trên bình diện ngữ dụng vẫn là một hướng tiếp cận mới không chỉ đối với ngành ngôn ngữ Ý mà cả đối với Việt ngữ học, đặc biệt, nhóm câu hỏi KCD thực sự là một mảnh đất màu mỡ cần được tiếp tục khai phá. 0.3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn. Với mục đích là tìm hiểu đặc điểm ngữ dụng của câu hỏi KCD tiếng Ý, luận văn sẽ giới thiệu các dạng câu hỏi KCD tiếng Ý, nhằm xây dựng một cách nhìn đầy đủ hơn về câu hỏi KCD nói chung và tiếng Ý nói riêng trong hoạt động giao tiếp. Đồng thời việc liên hệ giữa câu hỏi KCD trong tiếng Ý và tiếng Việt, vốn là hai thứ tiếng thuộc loại hình ngôn ngữ khác nhau cũng như có truyền thống văn hóa khác nhau, sẽ cung cấp thêm ngữ liệu, góp phần xác định những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ này trong giao tiếp và ứng dụng trong dịch thuật và giảng dạy tiếng Ý cho người Việt. Để thực hiện các mục đích trên, luận văn tự đặt những nhiệm vụ nghiên cứu sau: 1) Tìm hiểu những dạng thức biểu đạt của câu hỏi KCD trong tiếng Ý 2) Phân loại câu hỏi KCD tiếng Ý dựa vào giá trị dụng học. 3) Xác định những nét tương đồng và khác biệt giữa các câu hỏi KCD trong tiếng Ý và tiếng Việt. 4) Tìm hiểu những vấn đề cần lưu ý trong lĩnh vực dịch thuật và trong quá trình giảng dạy câu hỏi KCD tiếng Ý cho học viên người Việt thông qua việc khảo 12 sát một số giáo trình đang được giảng dạy tại Việt Nam và các bản dịch do sinh viên thực hiện. 0.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Trong tài liệu nghiên cứu hiện nay, thuật ngữ Câu hỏi KCD (Domande fittizie) có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo đó, câu hỏi KCD theo cách hiểu thứ nhất, là “những câu không mang những dấu hiệu hình thức hỏi nhưng lại được dùng để thực hiện hành vi hỏi như câu trần thuật, câu cảm thán v.v….” [31, tr.100] Còn câu hỏi KCD theo cách thứ hai, cũng chính là đối tượng mà chúng tôi quan tâm – là những câu mang những đặc điểm cơ bản sau: - Có hình thức nghi vấn. - Là câu hỏi không dùng để hỏi mà nhằm thực hiện những hành động ngôn ngữ gián tiếp khác như: cầu khiến, khẳng định, phủ định, cảm thán, điều tiết cuộc thoại… - Ngoài ra, câu hỏi này còn có thêm một sắc thái ngầm ẩn là muốn tìm kiếm thêm thông tin hoặc xác định lại một sự thật mà người nói chưa rõ ở người nghe. Tuy nhiên, ngay cả đối với nhóm câu hỏi mà chúng tôi xác định là đối tượng nghiên cứu này cũng được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như: câu hỏi không đích thực, câu hỏi giả, câu hỏi không truyền thống v.v… Dù với cách gọi nào, chúng tôi tạm thời chỉ lưu ý rằng, đó là những câu hỏi có giá trị cầu khiến, đề nghị, câu hỏi tu từ, câu hỏi điều tiết. Trong thực tế giao tiếp, phạm vi hoạt động của nhóm câu hỏi này có thể rộng hơn rất nhiều nhưng trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những giá trị dụng học quan yếu nhất, những chức năng giao tiếp mà chúng tôi cho là cơ bản nhất của câu hỏi KCD trong tiếng Ý như đã kể trên. 13 0.5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu. 0.5.1. Phương pháp nghiên cứu. Thực hiện đề tài này, ngoài những phương pháp nghiên cứu khoa học chung như phương pháp diễn dịch và quy nạp, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp mô tả: phương pháp này giúp xác định tập hợp các đặc trưng khu biệt của câu hỏi không chính danh và trên cơ sở đó phân chia câu hỏi KCD thành từng nhóm, từng tiểu loại. Đồng thời bằng thủ pháp phân tích, chúng tôi tiến hành phân tích các câu hỏi KCD nhằm làm rõ lực ngôn trung của chúng. Để lí giải được đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của nhóm câu hỏi này, thủ pháp luôn bám vào các yếu tố ngữ cảnh, văn cảnh như ngữ cảnh tình huống, ngữ cảnh văn hóa, mục đích giao tiếp… - Phương pháp so sánh – đối chiếu: do dung lượng của luận văn và khả năng của chúng tôi chưa cho phép, trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi không tiến hành so sánh đối chiếu một cách hệ thống các câu hỏi KCD trong tiếng Ý và tiếng Việt mà chỉ đưa ra một số nhận xét về sự tương đồng và khác biệt trong cách sử dụng câu hỏi KCD của hai dân tộc, góp phần làm rõ thêm các đặc trưng của nhóm câu hỏi này trong tiếng Ý và là tiền đề cho một công trình so sánh đối chiếu một cách hệ thống và toàn diện hơn liên quan đến đề tài. 0.5.2. Nguồn ngữ liệu. Theo chúng tôi, để có những nhận xét, đánh giá xác đáng về những đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của câu hỏi KCD trong tiếng Ý, cần thiết phải khai thác nguồn tư liệu có độ tin cậy cao, đó là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ của các thế hệ nhà văn có uy tín như: Io non ho paura (Tôi không sợ hãi) của Nicolò Ammaniti, Oceano mare (Đại dương biển) của Alessandro Baricco, La Solitudine dei numeri primi (Nỗi cô đơn của các số nguyên tố) của Paolo Giordano v.v. Ngoài ra trong luận văn của chúng tôi còn có phần liên hệ với tiếng Việt, vì vậy các ví dụ cũng được rút ra từ các tác phẩm văn học của Việt Nam như: Vi hành 14 của Nguyễn Ái Quốc, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng v.v. Và một số đoạn hội thoại mà chúng tôi ghi chép lại từ những tình huống giao tiếp thực trong đời sống. 0.6. Đóng góp của luận văn. - Về lí thuyết Thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về lí thuyết HĐNT, câu hỏi và cách phân loại câu hỏi theo quan điểm truyền thống và quan điểm ngữ dụng để có thể ứng dụng chúng vào việc xác định nội dung bản chất của câu hỏi và lí giải thoả đáng về chức năng dụng học của câu hỏi KCD trong tiếng Ý. - Về thực tiễn Trong quá trình giảng dạy tiếng Ý cho người Việt Nam, chúng tôi nhận thấy việc tiếp cận, nghiên cứu câu hỏi trong tiếng Ý hầu như chỉ dừng lại ở việc mô tả câu hỏi như một cấu trúc ngôn ngữ, đặc biệt đối với câu hỏi KCD cũng đã bước đầu được tiếp cận trong các hoạt động hành chức cụ thể của nó nhưng vẫn ở dạng thức sơ lược và thiếu tính hệ thống. Vì vậy nhìn nhận tổng quan về các chức năng dụng học của câu hỏi KCD sẽ là cơ sở để nghiên cứu và ứng dụng không chỉ vào việc giảng dạy tiếng Ý cho học viên mà còn ứng dụng trong lĩnh vực dịch thuật và là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên ngành ngôn ngữ và văn hóa Ý. 0.7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được bố cục thành ba chương như sau: Chương 1 đề cập đến cơ sở lý luận về HĐNT, về câu hỏi và hành động hỏi, về cách phân loại câu hỏi chính danh và câu hỏi KCD trong tiếng Ý và cuối cùng là một số vấn đề ngữ dụng liên quan đến việc nghiên cứu câu hỏi KCD. 15 Trong Chương 2, chúng tôi sẽ giới thiệu những chức năng dụng học cơ bản của câu hỏi KCD trong tiếng Ý. Chương 3 được coi là phần ứng dụng nghiên cứu trong giảng dạy tiếng Ý cho học viên người Việt và trong lĩnh vực dịch thuật với một số kiến giải và nhận xét về điểm tương đồng và khác biệt trong cách sử dụng câu hỏi KCD của người Ý và người Việt. 16 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Một vài nhận thức về lý thuyết hành động ngôn từ 1.1.1. Hành động ngôn từ Hành động ngôn từ là lý thuyết nghiên cứu mối quan hệ giữa ký hiệu ngôn ngữ và việc dùng chúng vào mục đích giao tiếp. John L. Austin, nhà triết học người Anh, là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết này với công trình nổi tiếng “How to do thing with words” (Hành động như thế nào bằng lời nói) (1962). Ông đã đề cập đến vấn đề lý thuyết hành động ngôn từ như sau: Một hành động ngôn từ được thực hiện khi một người nói (hoặc viết) Sp1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2 trong ngữ cảnh C. Austin đưa ra ba loại hành động ngôn từ là: Hành động tạo lời (atto locutivo), hành động tại lời (atto illocutivo) và hành động mượn lời (atto perlocutivo). Hành động tạo lời là những hành động sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu … để tạo ra một phát ngôn về hình thức và nội dung. Hành động tại lời là những hành động người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Ví dụ trong giao tiếp, chúng ta hỏi, trả lời, đề nghị, xin lỗi, khuyên nhủ… khi thực hiện những hành động này ta đã thực hiện một hành động tại lời. Hành động mượn lời là hành động “mượn” phương tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc chính người nói. Ví dụ, khi giáo viên nói với học sinh: “Nào các em, chúng ta bắt đầu bài học nhé?” thì giá trị tự tại của hành động hỏi qua nội dung mệnh đề “bắt đầu bài học” sẽ dẫn tới những hiệu quả như học sinh ngừng các công việc riêng để tập chung chú ý vào bài giảng. Về phía người nghe có thể ban đầu không nhận ra ngay một hành 17 động mượn lời mặc dù hiểu rõ hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có những hành động mượn lời khác nhau. Như vậy, khi thực hiện một phát ngôn, người nói thực hiện ba loại hành động này, tuy nhiên hành động tại lời được các nhà ngữ dụng học quan tâm nhất, đồng thời đây là loại hành động tạo nên sắc thái giao tiếp vô cùng phong phú. Để đi sâu hơn về vấn đề này, trong phần tiếp theo chúng tôi xin được đề cập đến sự khác biệt giữa hành động tại lời trực tiếp và hành động tại lời gián tiếp. 1.1.2. Hành động tại lời trực tiếp - gián tiếp Hành động tại lời trực tiếp được hiểu là người giao tiếp nói thẳng, nói công khai điều cần nói, là những hành động được sử dụng đúng với đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng của chúng. Nói cách khác, trong cuốn Dụng học (Diệp Quang Ban dịch) Yule cho rằng khi nào có một quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng thì chúng ta có một hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Nguyễn Thị Lương cho rằng hành động nói trực tiếp là hành động mà người nghe có thể nhận diện ra đích ở lời dựa vào chính câu chữ biểu thị chúng (không phải suy ý, không phải dựa vào ngữ cảnh). [20]. Hành động tại lời gián tiếp là người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành động ở lời này nhưng lại nhằm hiệu quả của một hành động ở lời khác. Theo Nguyễn Đức Dân, “một hành vi ngôn ngữ được gọi là gián tiếp khi dạng thức ngôn ngữ của một hành vi tại lời không phản ánh điều trực tiếp muốn nói”. Nói gián tiếp trong ứng xử ngôn ngữ thực ra là một điều rất phổ biến. Trong mọi hoàn cảnh, người ta đều có thể sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp một cách tự nhiên. Bởi thực tế cho thấy, với hành vi ngôn ngữ gián tiếp, “người ta có thể nói được nhiều hơn cái người ta đã nói ra; hoặc tạo ra những hiệu quả tu từ phong phú như khôi hài, châm biếm, giận dỗi... là phương thức che đậy ý đồ cá nhân, tạo không khí hài hòa cho cuộc giao tiếp”. 18 Muốn nhận biết được hiệu lực ở lời gián tiếp, người nghe phải nhận biết được hiệu lực ở lời của HĐNT trực tiếp và có thể căn cứ vào ngữ cảnh để hiểu phát ngôn. Ví dụ: - A: Không biết trời đã tạnh mưa chưa nhỉ? - B: Vẫn còn sớm mà! A: Hành động ở lời trực tiếp là hỏi nhưng gián tiếp thể hiện thái độ sốt ruột muốn đi. B: Lời đáp trực tiếp là đánh giá nhưng gián tiếp là hành động trì hoãn lại mong muốn của người đối thoại. Hành động tại lời gián tiếp là một trong những phương thức tạo ra tính mơ hồ về nghĩa trong lời nói. Đây là một vấn đề rất phức tạp, chính vì lẽ đó mà Armengaud, trong cuốn La pragmatique, collection Que sais-je ? , numéro 2230 (1985), đã có một nhận xét rất hình tượng khi nói về hành động tại lời gián tiếp rằng: “Thế giới của hành động lời nói gián tiếp là thế giới “nếu không phải là của những phù phép thì cũng là cạm bẫy: dưới đám cỏ trườn những con rắn của những châm biếm, bóng gió, ngụ ý, của biểu tượng hai mặt. Phép lịch sự tuyệt hảo với sự giễu cợt bắt tay nhau”. Một số nhà ngôn ngữ học như Searle (1975) lấy tính quy ước (Conventionality) trong ngôn ngữ để giải thích cho một vài kiểu loại gián tiếp. Theo cách lý giải này, một số hình thức gián tiếp được quy ước dành riêng cho các HĐNT cụ thể nào đó. Các nhà nghiên cứu khác như Sperber và Wilson (1986) lại tập trung vào vai trò của các nguyên lý dụng học phổ quát mà nổi bật nhất là nguyên lý phù hợp (Relevance) để giải thích cho các quá trình gián tiếp được lập mã và giải mã trong bối cảnh cụ thể nào đó. Nhưng hình thức gián tiếp trong một ngôn ngữ cụ thể được sử dụng cho một HĐNT cụ thể nào đó lại hoàn toàn là vấn đề có tính kinh nghiệm thực tiễn. Nghiên cứu của chúng tôi một mặt dựa vào lý thuyết HĐNT nói chung và Hành động tại lời gián tiếp nói riêng để tìm hiểu giá trị ngôn 19 trung gián tiếp của nhóm câu hỏi không chính danh, mặt khác, với kết quả thu được, sẽ giúp soi sáng về mặt lý thuyết cho vấn đề đã được trình bày. 1.2. Tổng quan về câu hỏi và câu hỏi KCD 1.2.1. Câu hỏi và hành động hỏi Với nhận thức rằng ngôn ngữ không chỉ có hình thức, các nhà ngôn ngữ học hiểu rằng với các câu nói, nghĩa của câu không chỉ đơn thuần là nghĩa của các từ cộng lại mà nghĩa còn xuất hiện trong hành động nói năng và trong những ngữ cảnh giả thiết mà ngôn ngữ nào cũng có. Triết học Ngữ nghĩa của J. L. Austin và Searle, với lí thuyết Hành động ngôn từ (Speech Acts) đã từ triết học đi vào ngôn ngữ học và gợi mở một hướng nghiên cứu mới về ngôn ngữ, đó là đi sâu vào nghiên cứu phương diện giao tiếp, đặt chúng trong hoạt động hành chức cụ thể, trong mối tương tác giữa ký hiệu ngôn ngữ và hành vi giao tiếp. Một hành vi ngôn ngữ có thể có nhiều phương tiện biểu đạt và ngược lại, một cách thức biểu đạt trong ngôn ngữ có thể thực hiện nhiều hành vi khác nhau. Và hành động hỏi cũng không nằm ngoài quy luật đó. Qua khảo sát các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến câu hỏi và hành động hỏi, chúng tôi nhận thấy có hai quan niệm về hành động hỏi như sau: Thứ nhất hành động hỏi được xem là HĐNT sử dụng câu hỏi để thực hiện các mục đích giao tiếp khác nhau. Ví dụ như, người nói dùng hành động hỏi (tức phát ngôn hỏi) để yêu cầu cung cấp thông tin, yêu cầu người nghe đáp ứng điều mình mong muốn hay thực hiện hành động hỏi để khẳng định, phủ định, bộc lộ cảm xúc v.v... Thứ hai, hành động hỏi được coi như là đích giao tiếp mà người nói hướng tới, đó là yêu cầu cung cấp thông tin chưa biết. Người nói có thể sử dụng phát ngôn hỏi hay một hình thức phát ngôn khác như: câu trần thuật, câu cảm thán v.v… để thực hiện hành động hỏi này. Như vậy, với quan niệm thứ nhất, hành động hỏi được gắn chặt với hình thức cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng của câu hỏi. Trong khi, theo quan niệm thứ hai, hành động hỏi được tách rời khỏi sự chi phối của phương tiện biểu đạt – hình thức 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan