Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc trưng văn hóa-dân tộc của tư duy ngôn ngữ qua hiện tượng tên gọi đồng nghĩa ...

Tài liệu đặc trưng văn hóa-dân tộc của tư duy ngôn ngữ qua hiện tượng tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người (trên tư liệu tiếng anh và tiếng việt)

.PDF
90
1293
150

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- ĐỖ THỊ THÙY DƯƠNG ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA - DÂN TỘC CỦA TƯ DUY NGÔN NGỮ QUA HIỆN TƯỢNG TÊN GỌI ĐỒNG NGHĨA CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- ĐỖ THỊ THÙY DƯƠNG ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA - DÂN TỘC CỦA TƯ DUY NGÔN NGỮ QUA HIỆN TƯỢNG TÊN GỌI ĐỒNG NGHĨA CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT) Chuyên ngành : Lí luận ngôn ngữ Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đức Tồn Hà Nội – 2010 MỤC LỤC Mục lục ............................................................................................................. 1 Phần mở đầu .................................................................................................... 5 1. Lí do chọn đề tài: .......................................................................................... 5 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5 2.1. Mục đích ..................................................................................................... 5 2.2. Nhiệm vụ ..................................................................................................... 5 3. Đối tượng và phạm vi tài liệu nghiên cứu..................................................... 6 3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 6 3.2 Phạm vi tài liệu nghiên cứu ........................................................................ 6 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 7 5. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 7 6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8 Phần nội dung ................................................................................................... 9 Chương 1: Cơ sở lí luận chung về từ đồng nghĩa .......................................... 9 1.1. Khái lược về nguồn gốc thuật ngữ “từ đồng nghĩa” ................................. 9 1.2. Khái niệm từ đồng nghĩa ............................................................................ 9 1.2.1. Phân biệt ba khái niệm cơ bản: hiện tượng đồng nghĩa, đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ đồng nghĩa ............................................................................ 9 1.2.1.1. Hiện tượng đồng nghĩa ........................................................................ 9 1.2.1.2. Đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ đồng nghĩa .................................... 10 1.2.2. Quan điểm của các nhà việt ngữ học về từ đồng nghĩa ........................ 11 1.2.3. Quan điểm của các nhà nghiên cứu nước ngoài về từ đồng nghĩa ...... 14 1.3. Các thủ pháp nhận diện từ đồng nghĩa .................................................... 16 1.4. Quan niệm của luận văn về từ đồng nghĩa .............................................. 17 1.5. Phân loại từ đồng nghĩa ........................................................................... 18 1.5.1. Các từ đồng nghĩa ý niệm ..................................................................... 18 1 1.5.2. Các từ đồng nghĩa phong cách ............................................................. 20 1.5.3. Các từ đồng nghĩa ý niệm – phong cách ............................................... 22 1.6. Từ đồng nghĩa - một trong những nhân tố tạo nên đặc trưng văn hoá dân tộc của tư duy ngôn ngữ ........................................................................... 23 1.7. Tiểu kết ..................................................................................................... 27 Chương 2: Tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh ......... 29 2.1. Nguồn gốc, đặc điểm loại hình ngôn ngữ Anh ......................................... 29 2.1.1. Sơ lược về nguồn gốc ngôn ngữ Anh..................................................... 29 2.1.2. Đặc điểm loại hình ngôn ngữ Anh ........................................................ 29 2.2. Kết quả thống kê về nhóm tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh...................................................................................... 30 2.3. Đặc điểm từ loại của các từ ngữ đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh...................................................................................... 30 2.4. Đặc điểm ngữ nghĩa của tên gọi đồng nghĩa bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh ................................................................................................ 32 2.5. Kiểu ngữ nghĩa tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh .......................................................................................................... 38 2.6. Phân loại tên gọi đồng nghĩa bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh ....... 40 2.6.1. Tên gọi đồng nghĩa ý niệm chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh 41 2.6.2. Tên gọi đồng nghĩa phong cách chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh ......................................................................................................................... 42 2.6.3. Tên gọi đồng nghĩa tuyệt đối chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh 2.7. Ý nghĩa biểu trưng của một số tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh...................................................................................... 46 2.7.1. Heart (tim) ............................................................................................. 46 2.7.2. Mouth (miệng) ....................................................................................... 47 2.7.3. Tooth (răng) .......................................................................................... 48 2 2.7.4. Tongue (lưỡi)........................................................................................ 48 2.8 Tiểu kết Chương 3: Tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng việt ........... 50 3.1. Nguồn gốc, đặc điểm loại hình tiếng Việt ................................................ 50 3.1.1. Sơ lược về nguồn gốc tiếng Việt ............................................................ 50 3.1.2. Đặc điểm loại hình tiếng Việt ................................................................ 50 3.2. Kết quả thống kê nhóm tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt ................................................................................................ 51 3.3. Đặc điểm cấu tạo tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt .......................................................................................................... 51 3.4. Đặc điểm ngữ nghĩa tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt ................................................................................................ 52 3.5. Kiểu ngữ nghĩa của các tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt ........................................................................................................... 56 3.6. Phân loại tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt.. 57 3.6.1 Tên gọi đồng nghĩa tuyệt đối chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt... 57 3.6.2. Tên gọi đồng nghĩa ý niệm chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt.. 58 3.6.2.1 Các từ đồng nghĩa ý niệm chỉ bộ phận cơ thể con người khác nhau ở tính cụ thể hay trừu tượng của ý nghĩa được biểu đạt 3.6.2.2 Các từ đồng nghĩa ý niệm chỉ bộ phận cơ thể con người khác nhau về mức độ rộng hẹp của ý nghĩa 3.6.3 Tên gọi đồng nghĩa phong cách chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt... 60 3.7. Tính chất biểu trưng của một số tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt ............................................................................... 62 3.7.1. Bụng - dạ ............................................................................................... 62 3.7.2. Gan ........................................................................................................ 63 3.7.3. Máu và tiết ............................................................................................. 63 3 3.7.4. Ruột ....................................................................................................... 64 3.8. Vấn đề sử dụng từ đồng nghĩa trong tiếng Việt hiện nay......................... 64 3.9. Tiểu kết ..................................................................................................... 65 Chương 4: Đối chiếu tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tiếng Việt ................................................................................... 67 4.1. So sánh đặc điểm từ loại của nhóm tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tiếng Việt .................................................................... 67 4.2. So sánh đặc điểm cấu trúc ngữ nghĩa nhóm tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tiếng Việt ......................................................................... 68 4.3. So sánh kiểu ngữ nghĩa tên gọi đồng nghĩa thứ sinh chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và trong tiếng Việt ........................................................... 69 4.4. So sánh "liều lượng "các tiểu loại tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và trong tiếng Việt ......................................................... 70 4.5. So sánh đối chiếu tính chất biểu trưng tình cảm bằng bộ phận tim trong tiếng Anh và bụng trong tiếng Việt .................................................................. 72 4.6. Nguyên nhân của những sự khác biệt ...................................................... 74 4.6.1. Khác biệt về loại hình ngôn ngữ ........................................................... 74 4.6.2. Khác biệt về đặc trưng văn hóa dân tộc và tư duy ngôn ngữ ............... 75 4.6.3. Sự khác biệt về hoàn cảnh xã hội .......................................................... 76 4.7. Ứng dụng thực tiễn của việc nghiên cứu từ đồng nghĩa trong việc dạy/học tiếng Anh và tiếng Việt với tư cách là ngoại ngữ ............................................ 77 4.7.1. Ứng dụng của việc nghiên cứu từ đồng nghĩa ...................................... 77 4.7.2. Dạy/ học từ ngữ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt .................. 78 Kết luận ........................................................................................................... 80 Tài liệu tham khảo ......................................................................................... 85 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình bản sắc văn hoá riêng. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay thì nhu cầu giao tiếp quốc tế càng tăng. Trong xu hướng hội nhập văn hoá thế giới đang diễn ra mạnh mẽ cùng với xu thế toàn cầu hoá ấy, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc học hỏi, tìm hiểu về ngôn ngữ, văn hoá của dân tộc mình mà còn muốn biết muốn hiểu sâu hơn về ngôn ngữ và văn hoá của dân tộc khác. Chính từ việc đối chiếu để tìm hiểu sự giống và khác nhau về cấu trúc, cơ chế tạo nghĩa, sự hoạt động và phát triển giữa các ngôn ngữ sẽ giúp chúng ta thấy được đặc trưng văn hoá và tư duy của một dân tộc. Bởi vì chính ngôn ngữ là nơi tàng trữ và phản ánh khá toàn diện các đặc trưng văn hoá và tư duy của một dân tộc. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 2.1. Mục đích: Giải quyết đề tài này, luận văn nhằm: - Phân tích cơ chế tạo nghĩa của trường từ vựng “tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người” để tìm ra những đặc điểm về ngôn ngữ - văn hoá và tư duy của trường từ vựng đó phục vụ cho các ứng dụng thực tiễn. - Chỉ ra những tương đồng và dị biệt của tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tiếng Việt. Dựa trên sự phân tích nguyên nhân của những sự khác biệt sẽ có thể thấy được đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Anh và người Việt. - Vận dụng kết quả nghiên cứu vào dạy và học tiếng Anh và tiếng Việt với tư cách là ngoại ngữ. 2.2. Nhiệm vụ: Để đạt được các mục đích nói trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau đây: 5 - Xác định đầy đủ các tên gọi đồng nghĩa thuộc về trường từ vựng chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tiếng Việt; - Đặc biệt là tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng của các tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người để qua đó thấy được đặc điểm tư duy của người Anh và người Việt. 3. Đối tƣợng và phạm vi tài liệu nghiên cứu: 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tên gọi đồng nghĩa chỉ các bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tiếng Việt. 3.2 Phạm vi tài liệu nghiên cứu: Với đối tượng nghiên cứu như vậy, phạm vi thu thập tài liệu khảo sát của luận văn là các cuốn từ điển sau: - Nhóm tác giả Trầm Quỳnh Dân, Trần Thanh Sơn (1997), Từ điển Anh – Việt , Nxb Thanh Hóa; - Trần Văn Điền (1998), Từ điển Từ đồng nghĩa, phản nghĩa Anh – Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,. - Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. - Thanh Tâm và nhóm tác giả (2004), Từ điển Việt – Anh, Nxb Thống Kê. - Nguyễn Văn Tu (1985), Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.,. - Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. - Từ điển: Advanced learner's English dictionary (ấnbảnlần7) (2005), Oxford University press. Các trang Web: - http://www.ngonngu.net. - http://www.dictionary.refence.com/browse/synonym. 6 - http://www.dictionary.sensagent.com/dictionary + of + synonyms/en - en/. - http://www.ptthlamson.net/forums/archie/index.php/t-137.html. - http://www.synoym.com. Ngoài các cuốn từ điển nêu trên là tư liệu nghiên cứu chính, trong quá trình triển khai thực hiện đề tài, chúng tôi còn sử dụng một số tài liệu trong lĩnh vực văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ học. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: 4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu chung: Các phương pháp được chúng tôi sử dụng xuyên suốt trong luận văn là phương pháp đối chiếu, phương pháp thống kê, phương pháp miêu tả . 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu chuyên sâu: Chúng tôi áp dụng một số phương pháp nghiên cứu từ đồng nghĩa do Nguyễn Đức Tồn đề xuất (Nguyễn Đức Tồn, Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb, Khoa học xã hội, H., 2006). Đó là: + Phương pháp giải thích ý nghĩa các đơn vị trong dãy đồng nghĩa; + Phương pháp tìm sự khu biệt ngữ nghĩa của các đơn vị đồng nghĩa; +Thủ pháp xác định các đơn vị đồng nghĩa bằng kết cấu đồng nhất “A là B”, đảo lại “B là A”; + Phương pháp xác lập dãy đồng nghĩa bằng an két điều tra. 5. Đóng góp của luận văn: Luận văn cung cấp tương đối đầy đủ dữ liệu quan trọng về tên gọi đồng nghĩa của các bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tiếng Việt. Giúp hiểu rõ thêm tâm thức của người Anh và người Việt qua việc sử dụng tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người. Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho việc giảng dạy phần từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt với tư cách là ngoại ngữ. 7 Kinh nghiệm và cách thức nghiên cứu của luận văn sẽ là những gợi ý hữu ích cho những công trình nghiên cứu đối chiếu tương tự sau này. 6. Bố cục của Luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn của chúng tôi được triển khai thành bốn chương: Chương 1: Cơ sở lí luận chung về từ đồng nghĩa Chương 2: Tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh Chương 3: Tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt Chương 4: Đối chiếu tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Anh và tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể con người trong tiếng Việt. 8 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ TỪ ĐỒNG NGHĨA 1.1. KHÁI LƢỢC VỀ NGUỒN GỐC THUẬT NGỮ “TỪ ĐỒNG NGHĨA” Theo “Đại từ điển Bách khoa Xô Viết”, tập 23 [114], thuật ngữ chỉ hiện tượng đồng nghĩa có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp. * Được viết dưới dạng tiếng Hi Lạp: Synònymia: có nghĩa là “cùng tên”, chỉ quan hệ giữa hai biểu thức đẳng nghĩa nhưng không đồng nhất. Tính chất đẳng nghĩa ở đây được hiểu là tính tương ứng hoặc là với cùng một biểu vật (denotat) (sự kiện, khách thể, v.v…), hoặc là với cùng một biểu niệm (signifikat) (cái được biểu hiện thuộc ngôn ngữ) (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [44, tr.68]). * Được viết dưới dạng tiếng Anh: Synonymy: có nghĩa là “hiện tượng đồng nghĩa”. 1.2. KHÁI NIỆM TỪ ĐỒNG NGHĨA 1.2.1. Phân biệt ba khái niệm cơ bản: hiện tượng đồng nghĩa, đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ đồng nghĩa 1.2.1.1. Hiện tượng đồng nghĩa Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn thì đồng nghĩa là một trong những khái niệm có tính nền tảng của ngôn ngữ học, cũng như của Logic học, ngữ nghĩa logic và của kí hiệu học. Như trên [1.1] đã trình bày, tính chất đẳng nghĩa được hiểu theo hai hướng, tính tương ứng hoặc là cùng với một biểu vật: Ví dụ : Sân bay và phi trường, nhãn và mắt Hoặc là tương ứng cùng với một biểu niệm: 9 Ví dụ: To và lớn, gan dạ và dũng cảm Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học, hiện tượng đồng nghĩa biểu niệm là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Hiện tượng đồng nghĩa có thể xảy ra giữa các hình vị (ví dụ: bất-phi- vô), đơn vị từ vựng đồng nghĩa (ví dụ: mẹ và má, v.v…), hoặc giữa các kết cấu cú pháp, chẳng hạn trong tiếng Nga: âûøåÌàøè và âûøå,÷åì Ìàøè(cao hơn Ma Sa). 1.2.1.2. Đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ đồng nghĩa Các đơn vị từ vựng không chỉ có từ mà còn có các cụm từ cố định có chức năng tương đương với từ, chẳng hạn các thành ngữ. Do đó, hiện tượng đồng nghĩa có thể xảy ra giữa các từ: Ví dụ: Trong tiếng Việt: bố và cha; nông và cạn.v.v… Trong tiếng Anh: rich – wealthy ( giàu); Hiện tượng đồng nghĩa còn có thể xảy ra giữa các cụm từ cố định: Ví dụ: Nước đổ lá khoai và nước đổ đầu Vịt; Oản ít bụt nhiều và Mật ít ruồi nhiều.v.v… Ví dụ: hiện tượng Đồng nghĩa cụm từ tiếng Anh: Bad news travels fast - No news is good news (Tin dữ lan nhanh ) Từ những ví dụ đã được dẫn ở trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: “Từ đồng nghĩa là trường hợp riêng quan trọng nhất nằm trong “đơn vị từ vựng đồng nghĩa” và “đơn vị từ vựng đồng nghĩa, từ đồng nghĩa” đều thuộc “hiện tượng đồng nghĩa” của ngôn ngữ [44, tr. 71]. 10 1.2.2. Quan điểm của các nhà Việt ngữ học về từ đồng nghĩa Trong Việt ngữ học, các nhà nghiên cứu cũng đã rất quan tâm đến từ đồng nghĩa. Nhà Việt ngữ học Đỗ Hữu Châu quan niệm rằng: “Trong vốn từ hội của bất cứ một ngôn ngữ nào cũng thường có những từ mặc dù hình thức ngữ âm hoàn toàn khác nhau nhưng từ nghĩa lại giống nhau. Do đó trong nhiều hoàn cảnh ngôn ngữ cụ thể có thể thay thế cho nhau được. Những từ này là những từ đồng nghĩa” [2, tr. 63]. Quan điểm của Đỗ Hữu Châu về từ đồng nghĩa, theo chúng tôi, còn ít nhiều chưa được cụ thể, bởi vì tác giả mới chỉ đề cập tới “hình thức ngữ âm khác nhau; từ nghĩa giống nhau; tiếp đó là các từ đồng nghĩa có thể thay thế cho nhau trong nhiều hoàn cảnh”, mà chưa đề cập tới “mức độ giống nhau về ý nghĩa của các từ “đến mức nào thì mới được coi là đồng nghĩa”. Sau khi nghiên cứu sâu hơn về từ đồng nghĩa, năm 1981, ông đưa ra quan niệm khác về từ đồng nghĩa như sau: “Từ đồng nghĩa là những từ thay thế được cho nhau trong những ngữ cảnh giống nhau mà ý nghĩa chung của ngữ cảnh không thay đổi về cơ bản” [3, tr.191]. Mặc dù vậy, quan niệm trên về từ đồng nghĩa của ông vẫn chưa giúp giải quyết được các vấn đề sau: Thứ nhất, đúng là có những từ đồng nghĩa thay thế cho nhau được trong những ngữ cảnh giống nhau mà ý nghĩa của ngữ cảnh không thay đổi. Nhưng không phải tất cả các từ đồng nghĩa đều có thể thay thế cho nhau trong cùng một ngữ cảnh (…) Thứ hai, có những từ thay thế được cho nhau trong một ngữ cảnh mà ý nghĩa của ngữ cảnh không thay đổi về cơ bản, song chúng không phải là những từ đồng nghĩa [44, tr.80 - 81]. Tiếp theo, trên cơ sở nhận thức lại về từ đồng nghĩa như vậy, Đỗ Hữu Châu đưa ra quan niệm mới về từ đồng nghĩa: 11 “Hiện tượng Đồng nghĩa là hiện tượng có nhiều mức độ tuỳ theo số lượng các nét nghĩa chung trong các từ. Mức độ đồng nghĩa thấp nhất khi các từ ngữ có chung một nét nghĩa chung (nét nghĩa phạm trù). Số lượng các nét nghĩa đồng nhất tăng lên thì từ càng đồng nghĩa với nhau. Mức độ đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các từ đã có tất cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận các nét nghĩa trùng nhau, chỉ khác ở một hoặc vài nét nghĩa cụ thể nào đó” [3, tr. 184]. Theo ý kiến của chúng tôi, quan niệm về từ đồng nghĩa vừa trình bày là quá rộng. Hơn thế nữa, tác giả coi cả các từ chỉ có một nét nghĩa chung nhất giống nhau là những từ đồng nghĩa mà không nhận ra rằng, trong thực tế nghiên cứu, các từ cần thiết có ý nghĩa gần nhau đến một "mức độ nhất định" thì mới được coi là những từ đồng nghĩa. Cố phó giáo sư Nguyễn Văn Tu - nhà Việt ngữ học, trong công trình đầu tiên của mình, đó là cuốn "Từ vựng học tiếng Việt hiện đại" xuất bản năm 1968 đã đưa ra quan niệm về từ đồng nghĩa như sau: "Những từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau. Đó là nhiều từ khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là những tên khác nhau của một hiện tượng trong những từ đồng nghĩa có một chỗ chung là việc định danh”. Chúng tôi cho rằng, định nghĩa trên của tác giả Nguyễn Văn Tu là hơi hẹp. Bởi một lẽ, định nghĩa mới chỉ quan tâm tới từ đồng nghĩa biểu vật, chưa đề cập tới từ đồng nghĩa biểu niệm. Định nghĩa trên chỉ là định nghĩa thuần tuý ở phương diện lí thuyết. Năm 1985, trong cuốn “Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1985", ông đã đưa ra một cách hiểu khác về từ đồng nghĩa: “Thực ra những từ đồng nghĩa là những từ của một thứ tiếng có nghĩa biểu đạt (chỉ sự vật, hiện tượng, tính chất, v.v…) giống nhau hoặc gần nhau, có thể thay thế cho nhau trong một số ngữ cảnh nhất định nhưng có khác nhau về sắc 12 thái tình cảm, về giá trị gợi cảm, về phong cách, phạm vi sử dụng.v.v… Đó là những từ khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là những tên khác nhau của một hiện tượng. Những từ này có điểm chung về chức năng định danh. Nói rộng ra, những từ đồng nghĩa là những từ cùng chỉ một khái niệm [46, tr.13 - 14]. Với cách hiểu như trên, tác giả Nguyễn Văn Tu đã nêu cụ thể hơn và có sự mở rộng hơn quan niệm về từ đồng nghĩa. Tuy nhiên, tác giả chưa phân biệt rõ khái niệm “chủng” và khái niệm “loại’. Vì vậy, tác giả đã coi chúng là từ đồng nghĩa. Ví dụ: Đầm – Hồ – Chuôm Nhà Việt ngữ học Nguyễn Thiện Giáp lại tán thành quan điểm của P.A.Bu - đa - gốp. Trên cơ sở đó ông đã đưa ra quan niệm của mình về từ đồng nghĩa như sau: “Trong hệ thống ngôn ngữ, nói đến hiện tượng đồng nghĩa là phải nói đến sự giống nhau của các nghĩa sở biểu. Vì vậy, chúng tôi tán thành quan niệm cho rằng “Từ đồng nghĩa là những từ gần nhau về nghĩa, khác nhau về âm thanh, biểu thị các sắc thái của một khái niệm” (dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp [17, tr. 191 - 192]). Hạn chế trong quan niệm của tác giả P.A. Bu - đa - gốp và Nguyễn Thiện Giáp là ở chỗ mới chỉ đề cập đến từ đồng nghĩa biểu niệm, còn trường hợp từ đồng nghĩa biểu vật thì hoàn toàn không nhắc tới. Nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Hoàng Trọng Phiến, Vũ Đức Nghiệu trong cuốn "Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, tr. 195" đã đưa ra một quan niệm về từ đồng nghĩa theo xu hướng: Thứ nhất, dựa vào đối tượng được gọi tên; Thứ hai, dựa vào khái niệm do từ biểu thị. 13 Thực ra, từ đồng nghĩa không phải là những từ trùng nhau hoàn toàn về nghĩa. Chúng nhất định có những dị biệt nào đó bên cạnh sự tương đồng (mặc dù phát hiện sự dị biệt đó không phải lúc nào cũng dễ dàng). Chính sự dị biệt đó lại là lí do tồn tại và làm nên những giá trị khác nhau giữa các từ trong một nhóm từ đồng nghĩa. Rõ ràng tính đồng nghĩa có những mức độ khác nhau. Và theo các tác giả thì từ “đồng nghĩa là những từ tương đối giống với nhau về nghĩa, khác nhau về âm thanh và có phân biệt với nhau về một vài sắc thái ngữ nghĩa hoặc sắc thái phong cách nào đó, hoặc đồng thời cả hai” [23, tr.195]. Tác giả Nguyễn Trung Thuần trong bài viết “Thử tìm hiểu từ trung tâm trong nhóm từ đồng nghĩa đăng trên tạp chí “Ngôn ngữ” đã viết: “Từ đồng nghĩa là những từ khác nhau về vỏ ngữ âm nhưng giống nhau về nghĩa (biểu thị hay diễn đạt) và có thể thay thế cho nhau trong những ngữ cảnh tiêu biểu mà nội dung thông báo vốn được giữ nguyên” [45, tr. 59]. 1.2.3. Quan điểm của các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài về từ đồng nghĩa Nhóm tác giả A.D Gri - gô - re- va và V.M. Gri - gô- ri – an cho rằng: “Những từ nào có ý nghĩa hoàn toàn đồng nhất với nhau mới được coi là những từ đồng nghĩa”. Do vậy, A.D. Gri - gô - re - va đã tuyên bố: “Theo quan điểm của chúng tôi, chỉ có sự đồng nhất ý nghĩa, chứ không phải tính gần gũi về ý nghĩa như một số người giả định, mới cho phép các từ là những từ đồng nghĩa. Sự tô điểm thêm những cảm xúc khác nhau (thô bỉ, đề cao, hạ thấp.v.v…) cho các từ đồng nhất ý nghĩa, đặc điểm phong cách – chức năng (khẩu ngữ, sách vở, thông tục, v.v…), đặc điểm sử dụng ngữ cảnh của chúng, v.v… những đặc điểm hình thái – ngữ pháp đặc thù cho mỗi từ trong chúng không hề cản trở việc thừa nhận các hiện tượng là đồng nghĩa khi có sự đồng nhất ý nghĩa”(dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [44, tr. 76]). 14 Ngược lại, D’ Alam – bơ phủ nhận tính chất đồng nhất tuyệt đối về ý nghĩa của các từ đồng nghĩa. Tác giả cho rằng: không có hai từ đồng nghĩa nhau ở ý nghĩa thực sự của từ. Nói cách khác, chúng có thể thay thế cho nhau trong mọi trường hợp. Chính vì vậy, nếu định nghĩa từ đồng nghĩa mà chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn “đồng nhất về ý nghĩa của từ” là không đúng (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [ 44, tr. 78]). A.N. Grô - zđép và A.B.Sa - pia lại cho rằng: “Các từ đồng nghĩa là những từ biểu hiện cùng một khái niệm, đồng nhất hoặc gần gũi về ý nghĩa của mình. Chúng chỉ khác nhau về sắc thái nghĩa, hoặc là về sắc thái phong cách, phạm vi sử dụng hoặc là đồng thời cả hai đặc trưng nêu trên" (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [ 44, tr. 78-79]). A.A. Re –pho - mat – xki khi nhận diện từ đồng nghĩa thì chỉ dựa vào sự vật, hành động, tính chất trong thực tế khách quan mà từ biểu thị. Do đó tác giả định nghĩa: “Hai từ đồng nghĩa gọi tên cùng một sự vật, nhưng lại ứng với nó những khái niệm khác nhau và do đó thông qua tên gọi làm bộc lộ ra những thuộc tính khác nhau của sự vật này” (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [44, tr. 79]). Tác giả R.A.Bu - đa – gốp, như đã có dịp đề cập ở trên, lại dựa vào khái niệm mà từ biểu thị nên cho rằng: Từ đồng nghĩa là những từ gần gũi nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về âm thanh, biểu thị các sắc thái của một khái niệm (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [44, tr. 58]). Và cuối cùng, các nhà nghiên cứu B.N.Gô - lô - vin và O.S. A – khơ – ma – nô - va dựa vào ý nghĩa nói chung của từ để định nghĩa từ đồng nghĩa. Hạn chế của quan điểm này là ở chỗ: chưa nói rõ xem “các từ có nghĩa giống nhau đó là nghĩa nào, ý nghĩa biểu thị hay ý nghĩa diễn đạt. Đồng thời, quan niệm này chủ yếu dựa vào nội dung mà chưa chú ý đến tiêu chí hình thức để nhận diện từ đồng nghĩa. 15 1.3. CÁC THỦ PHÁP NHẬN DIỆN TỪ ĐỒNG NGHĨA Như đã trình bày ở phần trước, từ đồng nghĩa là một khái niệm rất khó xác định. Do vậy, để nhận diện chính xác các từ đồng nghĩa đòi hỏi chúng ta phải có những thủ pháp tối ưu. Trong thực tế nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều thủ pháp khác nhau để nhận diện từ đồng nghĩa. Các thủ pháp nhận diện từ đồng nghĩa truyền thống gồm: * Thủ pháp sử dụng ngữ cảnh (chúng tôi đã nói ở trên); * Thủ pháp dựa vào trường nghĩa; Các thủ pháp nhận diện từ đồng nghĩa dựa vào trường nghĩa do S.G.Bê – rê – an đề xuất và được tác giả Đỗ Hữu Châu vận dụng vào tiếng Việt như sau: - Dựa vào các nghĩa vị khái quát, từ đó lập ra các trường ngữ nghĩa; - Phân trường ngữ nghĩa đó ra thành các trường ngữ nghĩa nhỏ hơn, dựa vào nghĩa vị cụ thể. Tiếp tục phân chia như thế cho đến khi không thể phân chia được nữa; - Lập bảng liệt kê các đơn vị nghĩa cho các đơn vị đã được phân tích rồi so sánh chúng với nhau về số lượng và tính chất nghĩa vị. Hạn chế của thủ pháp này là đã đánh đồng những từ thuộc cùng một chủ đề với những từ đồng nghĩa chân chính vì các từ đồng nghĩa thì chắc chắn thuộc cùng một chủ đề nhưng các từ thuộc cùng một chủ đề thì chưa hẳn đã là những từ đồng nghĩa. Trên cơ sở phân tích các thủ pháp nhận diện từ đồng nghĩa của các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả Nguyễn Đức Tồn đã đề xuất một thủ pháp mới để nhận diện từ đồng nghĩa. Chúng tôi sẽ vận dụng thủ pháp này để làm việc trong luận văn của mình. Đó là: Sử dụng kết cấu đồng nhất “A là B” và đảo lại “B là A”. Theo Nguyễn Đức Tồn thì đây là thủ pháp nhận diện từ đồng nghĩa mang lại hiệu lực tối ưu bởi: 16 “Kết cấu “A là B” và đảo “B là A” chính là ngữ cảnh đồng nhất tổng quát nhất, điển hình nhất cho mọi ngữ cảnh đồng nhất khác”. Hai đơn vị từ vựng nào đó xuất hiện được trong kết cấu đồng nhất này sẽ có thể thay thế được trong mọi ngữ cảnh (trừ ngữ cảnh đòi hỏi sắc thái tu từ.v.v… riêng đặc thù) (Nguyễn Đức Tồn [44, tr. 96]). Ưu điểm nổi bật của thủ pháp này là ở chỗ: nó dựa trực tiếp vào mẫn cảm ngôn ngữ của người bản ngữ, khiến có thể nhận ra ngay được mối quan hệ ngữ nghĩa hai đơn vị được so sánh, vừa đơn giản tiện lợi, lại vừa dễ áp dụng. Đồng thời, khi sử dụng thủ pháp này để nhận diện từ đồng nghĩa, chúng ta sẽ khắc phục được nhược điểm của thủ pháp sử dụng ngữ cảnh để nhận diện từ đồng nghĩa”. Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ trong tiếng Anh để chứng minh cho điều vừa nêu: Trong tiếng Anh, hai tính từ “Dirty” và “unclean” đều có nghĩa là “dơ bẩn, bẩn thỉu”. Chúng ta có thể nói:“A dirty skirt”is “An unclean skirt” hoặc“An unclean skirt” is “A dirty skirt” (“A dirty skirt” và “An unclean skirt” đều có nghĩa là : một chiếc váy bẩn ). Tuy nhiên, sắc thái của hai tính từ này có phần khác biệt nên không phải lúc nào chúng cũng có thể thay thế cho nhau. Trong ngữ cảnh trên cả hai tính từ đều được dùng để mô tả vẻ bề ngoài của đồ vật. Trong khi đó, khi nói về tính cách của con người (mang nghĩa tiêu cực) thì người Anh lại chỉ dùng tính từ “dirty”, ví như: “A dirty Person: một người bẩn tính, nhỏ nhen; hay trong câu: They spoke the dirty on her: Họ chơi bẩn đối với cô ta. 1.4. QUAN NIỆM CỦA LUẬN VĂN VỀ TỪ ĐỒNG NGHĨA Chúng tôi cho rằng một định nghĩa ưu việt về từ đồng nghĩa phải đồng thời chú ý đến quan hệ giống nhau của các sự vật, khái niệm mà chúng biểu thị, phải chú ý đến mức độ giống nhau về nghĩa của chúng. Và nếu có thể thì còn có thể nêu được cả cách thức để nhận diện các từ đồng nghĩa. Chính vì 17 vậy, chúng tôi tán thành với định nghĩa về từ đồng nghĩa của Nguyễn Đức Tồn được đưa ra trong cuốn “Từ đồng nghĩa tiếng Việt”(2006), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 96”. Nội dung định nghĩa như sau: “Hai đơn vị từ vựng/từ được gọi là đồng nghĩa khi chúng có vỏ ngữ âm khác nhau biểu thị các biểu vật hoặc/ và biểu niệm giống nhau và: a/ Nếu chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu “A là B” và đảo lại được “B là A” mà không cần phải chỉnh lí bằng cách thêm bớt nét nghĩa gì vào một trong hai đơn vị/từ thì đó là những đơn vị từ vựng/từ cùng nghĩa. b/ Nêú như để chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu “A là B” và đảo lại được “B là A” cần có sự chỉnh lí, thêm bớt nét nghĩa nào đó vào một trong hai đơn vị/từ thì đó là những đơn vị từ vựng/từ gần nghĩa”. Thực chất, định nghĩa trên đề cập tới các vấn đề sau: * Các từ đồng nghĩa phải là những từ thuộc về cùng một từ loại. Như vậy, chúng mới cùng xuất hiện được trong kết cấu đồng nhất “A là B” và “B là A”. * Trong ý nghĩa của chúng có chứa những yếu tố đồng nhất; * Các yếu tố khác nhau của các ý nghĩa này bị trung hoà hoá trong những ngữ cảnh nhất định; * Một số từ cực kì gần gũi đến mức đồng nhất về ý nghĩa được gọi là những từ đồng nghĩa tuyệt đối; * Trường hợp các từ đồng nghĩa khác có mức độ giống nhau về ý nghĩa kém hơn trường hợp trên thì đó là những từ gần nghĩa. 1.5. PHÂN LOẠI TỪ ĐỒNG NGHĨA Dựa cách phân loại đã được tác giả Nguyễn Đức Tồn đưa ra trong cuốn sách của mình đã nêu trên đây, chúng tôi tán thành và chia các từ đồng nghĩa thành ba tiểu loại sau đây. 1.5.1. Các từ đồng nghĩa ý niệm 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan