Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Lựa chọn vấn đề dạy và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng d...

Tài liệu Lựa chọn vấn đề dạy và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 1939).

.DOC
30
1253
91

Mô tả:

LỰA CHỌN VẤN ĐỀ DẠY VÀ PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP CHO HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA KHI GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1919-1939). Gv. Trương Thị Xuân Trường THPT Chuyên Lê QuItalia Đôn-Quảng Trị MỞ ĐẦU Bất kì một trường học nào, trong công tác dạy và học luôn quan tâm tới chất lượng giáo dục mũi nhọn và chất lượng giáo dục đại trà. Trong đó, ở các trường phổ thông , chất lượng giáo dục mũi nhọn được thể hiện chủ yếu qua các kì thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh; riêng trường chuyên và năng khiếu việc đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn tập trung ở kết quả thi học sinh giỏi quốc gia. Vì thế bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia luôn là nhiệm vụ trọng tâm của trường. Tuy nhiên, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử hết sức gian nan, vất vả, nhất là khi học sinh đang còn tình trạng thờ ơ với môn sử, chất lượng học sinh chuyên sử thường thấp hơn các chuyên khác do đó nguồn tuyển chọn học sinh giỏi cho đội tuyển dự thi quốc gia còn hạn chế; không những thế nguồn tài liệu phục vụ dạy học của giáo viên còn chưa thống nhất và đầy đủ. Cho nên, việc tổ chức các buổi hội thảo để cùng nhau xây dựng, trao đổi kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia là điều hết sức cần thiết. Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới là một chuyên đề lịch sử tương đối khó bởi nó mang tính khái quát và lí luận cao. Toàn bộ kiến thức của chuyên đê nằm rải rác ở một số bài trong sách lịch sử lớp 11 chứ không hề tập hợp thành một chuyên đề chung có sẵn cho nên giáo viên phải tự mình tập hợp các tài liệu thành một chuyên đề riêng. Tuy nhiên, đây là một trong những vấn đề quan trọng của lịch sử thế giới trong các kì thi học sinh giỏi các cấp và quốc gia, bởi quan hệ quốc tế là hệ quả của chính sách đối nội, đối ngoại của các nước lớn trên thế giới. Vì vậy, thông qua chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)”, chúng tôi hi vọng có thể góp một chút công sức cùng các đồng nghiệp hoàn thiện tài liệu ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia trong lĩnh vực này. Chuyên đề của chúng tôi được xây dựng gồm hai phần. Phần I: Một số vấn đề chuyên sâu trong lịch sử quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1919-1939). I. Nội dung cơ bản của chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939). II. Một số vấn đề chuyên sâu trong chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939). Phần II. Phương pháp ôn tập chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)”. 1. Một số vấn đề chung 2. Một số phương pháp ôn tập cho học sinh a. Thảo luận, trao đổi vấn đề. b. Xây dựng hệ thống bài tập, câu hỏi. c. Rèn luyện kĩ năng làm bài NỘI DUNG Phần I: Một số vấn đề chuyên sâu trong quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1919-1939). Nội dung cơ bản của quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1919-1939). I. Nội dung cơ bản của chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)”. 1. Quan hệ quốc tế giai đoạn 1919-1929 Nội dung quan hệ quốc tế trong giai đoạn này xoay quanh việc thành lập trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ nhất và quan hệ quốc tế giữa các nước mà trật tự này mang lại. 1.1. Hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận đã họp hội nghị hoà bình ở Vécxai (ngoại ô thủ đô Pari của Pháp) để phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hoà bình, an ninh mới sau chiến tranh. Hội nghị khai mạc ngày 18/1/1919 và kéo dài suốt năm sau. Hội nghị được tiến hành trong bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển to lớn. Tham dự hội nghị gồm đại biểu của 27 nước thắng trận nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là 3 cường quốc Mĩ, Anh, Pháp. Các cường quốc thắng trận đều có những Italia đồ và tham vọng hết sức khác nhau trong việc phân chia, thiết lập một trật tự thế giới sau chiến tranh, do đó hội nghị Vecxai đã diễn ra hết sức gay go quyết liệt. Sau 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì tranh cãi bất đồng, cuối cùng các cường quốc thắng trận đã cố gắng tìm cách thoả hiệp với nhau và các văn kiện của Hội nghị Vecxai trước sau đều được kí kết. *Hội quốc liên Hội quốc liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mỹ Uynxơn. Quy ước thành lập Hội quốc liên nêu rằng mục đích thành lập tổ chức này là nhằm: phát triển sự hợp tác, đảm bảo hoà bình và an ninh cho các dân tộc và để thực hiện mục đích đó người ta đã đề ra một số nguyên tắc như không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế …. Như vậy, Hội quốc liên được thành lập trước hết nhằm giữ gìn trật tự của thế giới tư bản chủ nghĩa do các đế quốc chiến thắng sắp xếp lại trong Hội nghị Vecxai, là kết quả của sự dung hoà các mâu thuẫn trong phe đế quốc chủ nghĩa về việc phân chia lại thế giới sau chiến tranh. Tóm lại Hội Quốc liên chỉ tồn tại về mặt hình thức còn hiệu quả hoạt động của nó rất hạn chế. Thành phần tham gia Hội quốc liên bao gồm các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1919) và những đồng minh của họ. Mặc dù đây là sáng kiến của Mỹ nhưng Mỹ từ chối tham gia vào Hội quốc liên vì không đạt được mục đích của mình trong hội nghị Vécxai. *Hoà ước Vécxai với Đức. Đức là nước lớn nhất trong phe Liên minh, thủ phạm chính gây ra chiến tranh thế giới lần thứ nhất nên hoà ước kí kết với Đức có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo Hoà ước Vécxai về Đức, Hoà ước này xác định sự thất bại của Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất, gồm các điều khoản chủ yếu về lãnh thổ, về đảm bảo an ninh và bồi thường chiến tranh. Theo Hoà ước Vecxai, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/2 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Đây là những thiệt hại quá sức chịu đựng của nước Đức. *Những hoà ước khác: Ngoài hoà ước Vecxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt được kí kết với các nước Đồng minh của Đức trong 2 năm 1919 – 1920 như hoà ước kí với Áo, Bungari, Hunggari và với Thổ Nhĩ Kì. Nội dung chung của các hoà ước đó là các nước Đồng minh của Đức phải bồi thường chiến phí, bị tước bỏ thuộc địa và phải bồi thường một phần lãnh thổ hoặc chia cắt quốc gia. Kết quả của các hòa ước trên đã xé nhỏ lãnh thổ và làm sụp đổ một số đế quốc châu Âu như đế quốc Áo-Hung, Thổ Nhĩ Kì. Hội nghị Vecxai kết thúc, hệ thống hoà ước Vecxai được kí kết nhưng cả hai phe chiến thắng lẫn chiến bại đều không thoả mãn, đặc biệt là Mĩ. Mĩ không công nhận sự phân chia thế giới mới được quy định trong hệ thống hoà ước Vecxai và Mĩ muốn mở một hội nghị riêng rẽ để quy định lại các điều khoản theo hướng có lợi cho mình. Tháng 11/1921, Mĩ mời 8 nước là Anh, Pháp, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc họp hội nghị ở Oasinhtơn. Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ. Trước áp lực của Mĩ, Nhật phải từ bỏ một phần ưu thế khá lớn đã giành được trong chiến tranh thế giới thứ nhất ở Trung Quốc. Anh phải nhượng bộ Mĩ, nhận quyền bình đẳng về hải quân và huỷ bỏ Liên minh Anh Nhật ( nhằm chống lại Mĩ). Như thế Mĩ nắm được thị trường Viễn Đông và Trung Quốc, nâng cao địa vị hải quân của mình lên hàng đầu thế giới trước sự lùi bước tạm thời của các đế quốc khác nhất là Nhật. Như vậy, trong những năm 1919 – 1922, trên cơ sở của hiệp ước Vecxai và hoà ước Oasinhtơn, đã hình thành nên một trật tự thế giới mới theo những điều khoản của hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn. 1.2. Sự phát triển của các nước tư bản chủ nghĩa trong những năm 1919 – 1929. Trong mười năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai thời kì: Thời kì thứ nhất (1919 – 1923): Là thời kì khủng hoảng về kinh tế, bất ổn về chính trị. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, do hậu quả của chiến tranh tất cả các nước tư bản dù là thắng trận hay bại trận ( trừ Mĩ) đều lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, và bất ổn về chính trị do phong trào công nhân trong nước và phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa dâng cao. Tuy nhiên cuối cùng chính quyền các nước tư bản cũng giải quyết được khủng hoảng về kinh tế, đàn áp phong trào cách mạng để đưa đất nước phát triển ổn định trong giai đoạn sau. Thời kì (1924-1929): Là thời kì các nước tư bản bước vào thời kì ổn định về chính trị và đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế. Tuy nhiên sự phát triển kinh tế diễn ra không đồng đều giữa các nước tư bản. 2. Quan hệ quốc tế giai đoạn 1929 – 1939. Nội dung lớn của quan hệ quốc tế giai đoạn này là việc phát triển những mối quan hệ, những mâu thuẫn dẫn đến việc hình thành hai khối đế quốc đối lập và sau cùng là dẫn đến việc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỉ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, đặt chủ nghĩa tư bản trước ngưỡng cửa của sự suy vong nếu không có những điều chỉnh hợp lí. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vốn đã tồn tại trước đó nay trở nên cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó, đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng giữa các nước TBCN dẫn đến sự hình thành 2 khối đế quốc đối lập: một bên là khối phát xít Đức, ITALIA, Nhật với một bên là khối các nước tư bản dân chủ Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã đe dọa phá vỡ hệ thống hòa ước Vecxai-Oasinhtơn, dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới. 2.1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và phe trục a. Lò lửa chiến tranh ở Nhật. Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vécxai bằng sức mạnh quân sự bắt đầu bằng việc xâm lược Trung Quốc. Năm 1931, Nhật Bản tấn công vùng Đông Bắc Trung Quốc biến vùng này thành thuộc địa và lập ra nhà nước “Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu. Sau đó, Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc. Để có thể tự do hành động, tháng 3/1933 Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông Á do hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 quy định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của hệ thống Vécxai-Oasintơn. Từ năm 1937, Nhật Bản bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. b. Lò lửa chiến tranh ở Đức. Do nước Đức bị thiệt hại quá nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hơn nữa hòa ước Vécxai đặt nước Đức vào “cảnh nô dịch chưa từng nghe, chưa từng thấy” (V.I.Lê-nin) nên giới cầm quyền Đức đã sớm nuôi chí phục thù. Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và để thực hiện Italia đồ phục thù, Đức đã phát xít hóa bộ máy nhà nước. Tháng 1/1933, Hit-le lãnh tụ của Đảng Quốc gia Xã hội Đức nên nắm quyền tổng thống đã mở ra thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức. Về đối nội, Hit-le đã tiến hành thủ tiêu nền dân chủ trong nước, đặt Đảng cộng sản Đức ra ngoài vòng pháp luật, xây dựng một nước Đức theo đường lối quân sự hoá để chuẩn bị chiến tranh xâm lược, biến nước Đức thành một trại lính khổng lồ. Về đối ngoại Hit-le, thực hiện chính sách xâm lược đối với tất cả các nước nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ toàn cầu. Để tự do hành động, năm 1933, Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên. Tháng 5/1935, Hit-le công khai vi phạm hoà ước Vec-xai, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân thành lập 36 sư đoàn. Không dừng lại ở đó, tháng 3/1936, Hít-le ra lệnh tái chiếm vùng Rênani, công khai xoá bỏ hoà ước Vec-xai, tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện tại châu Âu. c. Lò lửa chiến tranh ở Italia. Mặc dù là nước thắng trận trong thế chiến thứ nhất, nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia thế giới theo hệ thống Hoà ước Vecxai-Oasinhtơn. Tháng 10/1922, Mutxôlini thủ lĩnh Đảng phát xít ITALIA lên nắm quyền thủ tướng, đưa lịch sử nước Italia bước vào thời kì đen tối. Sau khi nắm chính quyền, Mutxôlini tiến hành thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ trong nước, chống lại Đảng cộng sản. Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933, giới cầm quyền phát xít ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên ngoài. Tháng 10/1935, Italia chính thức tiến hành chiến tranh xâm lược Êtôpia, năm 1936 tiến hành can thiệp chống nước cộng hoà Tây Ban Nha. Để được tự do hành động, tháng 12/1937, Italia tuyên bố rút khỏi hội Quốc Liên. Lò lửa chiến tranh thứ hai đã hình thành ở châu Âu. d. Sự hình thành khối trục phát xít Đức – Italia - Nhật (11/1937) Để tăng thêm sức mạnh, ba nước Đức, Ialia, Nhật đã quyết định xích lại gần nhau. Tháng 10/1936, Italia đã kí với Đức bản nghị định thư đánh dấu sự hình thành trục Béclin – Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25/11/1936, Đức và Nhật kí Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản, cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh, Pháp, Mĩ. Ngày 6/11/1937, ITALIA tham gia hiệp ước này. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin-Rôma-Tôkiô chính thức hình thành. 2.2 Thái độ của Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ đối với phe phát xít. Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XIX, quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là khối Trục phát xít do Đức, ITALIA, Nhật cầm đầu; hai là khối đế quốc dân chủ do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong khi khối Trục ráo riết chuẩn bị kế hoạch chiến tranh ngay từ đầu những năm 30, thì khối đế quốc dân chủ Anh, Pháp, Mĩ mới bắt đầu quá trình này vào những năm cuối của thập niên 30. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi. Ngay sau khi phát xít hoá bộ máy chính quyền và đặc biệt sau khi đã liên kết với nhau trong phe Trục, các nước phát xít Đức, ITALIA, Nhật công khai tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng lãnh thổ, phá vỡ trật tự của hoà ước Vecxai-Oasinhtơn. Trước tình hình đó, thái độ của Lên Xô và các nước tư bản dân chủ Anh, Pháp, Mĩ hoàn toàn khác nhau. Trong khi Liên Xô kiên quyết chống lại những hành động xâm lược, phá hoại hoà bình thế giới của phe phát xít, kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mĩ cùng hợp tác để thực hiện thì các nước Anh, Pháp, Mĩ lại có những hành động đi trái ngược lại với thiện chí của Liên Xô. Các nước này không muốn hợp tác cùng Liên Xô chống phát xít mà thi hành chính sách thoả hiệp, nhượng bộ làm ngơ trước những hành động xâm lược của chủ nghĩa phát xít để cho các nước phát xít tự do hành động với mưu đồ hướng mũi nhọn chiến tranh của phe phát xít để tiêu diệt nước Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Một loạt các sự kiện diễn ra nửa cuối thập niên 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ điều này.Đỉnh cao của chính sách thỏa hiệp của Anh, Pháp được thể hiện tại Hội nghị Muy-nich. Hoạt động của phe phát xít cùng chính sách hai mặt của Anh, Pháp, Mỹ đã làm bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai. II. Một số vấn đề chuyên sâu trong chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)” Để có thể ôn tập cho học sinh một cách toàn diện kiến thức của chuyên đề, trong quá trình giảng dạy bồi dưỡng, chúng tôi đã kết hợp ôn tập kiến thức theo chiều dọc và chiều ngang, bằng cách dựa vào những kiến thức cơ bản đã trang bị cho học sinh khi học tập trên lớp theo chương trình sách giáo khoa và chuyên đề đã tổng hợp, chúng tôi thường đi sâu vào một số vấn đề, bài tập mang tính khái quát, vận dụng kiến thức ở mức độ cao hơn, đòi hỏi học sinh phải tư duy tối đa để giải quyết. Với phương pháp ôn tập như vậy, sẽ giúp học sinh không chỉ nắm được bề rộng mà còn nắm được chiều sâu kiến thức, đồng thời thông qua đó có thể rèn luyện và nâng cao kĩ năng khái quát, phân tích, so sánh của học sinh; giúp học sinh không bị lúng túng trong quá trình làm bài thi. Vấn đề 1: So sánh điểm giống nhau và khác nhau giữa trật tự hai cực Ianta và trật tự Vécxai Oasinhtơn. Trong lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến hai cuộc đại chiến thế giới. Chiến tranh thế giới thực chất là một hoạt động của các cường quốc và đồng minh của họ nhằm xóa bỏ trật tự thế giới cũ để thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình.Vì thế sau mỗi cuộc đại chiến thế giới, các nước thắng trận đều tiến hành phân chia thành quả thắng lợi, thiết lập lại trật tự thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, với việc triệu tập hai hội nghị hòa bình ở Vécxai và Oasinhtơn, các nước thắng trận tiến hành kí kết một loạt các hiệp ước tạo nên hệ thống hòa ước Vécxai (1919-1920) và hệ thống hòa ước Oasinhtơn (1921-1922), thông qua đó thiết lập trật tự thế giới Vécxai-Oasinhtơn. Đến đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc đã dẫn tới những chuyển biến căn bản trong tình hình quốc tế. Để giải quyết nhiều vấn đề quan trọng, một hội nghị quốc tế được triệu tập với sự tham gia của nguyên thủ ba quốc gia Liên Xô, Anh, Mỹ tại Ianta. Những thỏa thuận tại hội nghị đã trở thành khuôn khổ để thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến tranh- trật tự hai cực Ianta. Như vậy, trong thế kỉ XX đã xuất hiện hai trật tự thế giới với những nét tương đồng và khác biệt. *Giống nhau: Thứ nhất, cả hai trật tự đều được hình thành sau các cuộc đại chiến thế giới tàn khốc và đêù do các nước thắng trận thiết lập nên. Trật tự Vécxai-Oasinhtơn được xác lập sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại của phe liên minh là Đức, ÁoHung, Thổ Nhĩ Kì, Bungary. Để phân chia thành quả thắng lợi và thiết lập trật tự thế giới mới sau chiến tranh, các nước thắng trận thuộc phe Hiệp ước đã triệu tập Hội nghị hòa bình tại Vécxai (1919-1920). Hội nghị Vécxai không mang lại kết quả như Mỹ mong muốn vì thế đến năm 1921, Mĩ đã triệu tập hội nghị Oasinhton. Trật tự hai cực Ianta được thiết lập sau khi chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) kết thúc. Sau chiến tranh, tình hình quốc tế có những chuyển biến lớn làm thay đổi hoàn toàn so sánh lực lượng trên phạm vi toàn thế giới. Các nước tư bản châu Âu bị suy yếu nghiêm trọng, các nước phát xít bị tiêu diệt và kiệt quệ hoàn toàn. Trong lúc đó, Mỹ vươn lên trở thành một siêu cường khống chế thế giới tư bản chủ nghĩa. Với tư cách là nước thắng trận Liên Xô và là một cường quốc lớn. Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh đồng thời để thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến tranh, các nước đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh (Liên Xô, Mỹ, Anh) đã triệu tập hội nghị Ianta từ ngày 4 đến ngày 12-2-1945. Thực chất hội nghị Ianta là cuộc đấu tranh quyết liệt và căng thẳng để phân chia quyền lợi và phạm vi ảnh hưởng, cân bằng quyền lực giữa những nước lớn. Việc giải quyết vấn đề các nước phát xít và khu vực phát xít chiếm đóng, phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa các nước thắng trận tại hội nghị Ianta đã tạo ra khuôn khổ một trật tự thế giới mới. Khuôn khổ trật tự thế giới này chịu sự chi phối sâu sắc của hai siêu cường Liên Xô và Mỹ. Thứ hai, cả hai trật tự đều đem lại quyền lợi cho các nước thắng trận và trừng trị những nước bại trận. Trong trật tự Vécxai-Oasinhton, các nước thắng trận được rất nhiều lợi lộc, đặc biệt ba cường quốc Anh, Pháp, Mỹ giành được nhiều ưu thế nhất . Anh chẳng những giữ vững quyền bá chủ mặt biển mà còn mở rộng hệ thống thuộc địa . Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi , Mỹ khẳng định quyền lợi của mình ở khu vực Viễn Đông và Trung Quốc. Trong khi đó, những nước bại trận phải chấp nhận những điều khoản hết sức khắt khe, nhất là Đức.Toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật Bản quản lItalia. Với việc kí kết hòa ước Vécxai, Đức mất 1/8 đất đai, gần ½ dân số, ¾ mỏ sắt, gần /13 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt, đồng thời, Đức phải bồi thường 132 tỉ mác. Đức bị hạn chế vũ trang đến mức tối đa. Các thuộc địa trở thành vùng “ủy trị” của Hội Quốc Liên. Những đồng minh của Đức cũng chịu những tổn thất hết sức nặng nề , lãnh thổ bị xé nhỏ dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Áo-Hung và đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Trong trật tự hai cực Ianta, việc triệu tập hội nghị và nội dung hội nghị đều do các nước thắng trận chi phối, trong đó vai trò của ba cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh là quan trọng hơn cả. Nhìn chung các cường quốc đều khá hài lòng và đạt được những điều họ mong muốn. Các nước thắng trận thỏa thuận, phân chia phạm vi ảnh hưởng của mình sau chiến tranh. Theo đó, ở châu Âu, Liên Xô kiểm soát Đông Âu và đông Béc-lin, quân đội Anh, Pháp kiểm soát Tây Âu và tây Béc-lin; ở châu Á, quân đội Liên Xô kiểm soát bắc vĩ tuyến 38 của Triều Tiên, lấy lại những vùng đất đã bị mất trong chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), còn quân đội Mỹ kiểm soát nam vĩ tuyến 38 của Triều Tiên; phần còn lại của châu Á tiếp tục thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây; Nhật Bản sẽ do quân đội Đồng minh chiếm đóng. Thứ ba, cả hai trật tự đều thành lập một tổ chức quốc tế để giải quyết vấn đề hòa bình, an ninh thế giới sau chiến tranh và duy trì trật tự đã thiết lập Tại hội nghị Vécxai, các nước thắng trận đã thành lập Hội Quốc Liên theo sáng kiến của Mỹ, nhằm mục đích khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hòa bình, an ninh thế giới. Với mục đích đó, người ta đề ra một số nguyên tắc như không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế. Trên danh nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành tổ chức giám sát chính trị quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh và bảo vệ hòa bình thế giới. Tại hội nghị Ianta, các cường quốc đã quyết định thành lập một tổ chức quốc tế thay thế cho Hội Quốc Liên, đó là Liên Hợp Quốc. Tại Sanphranxico (Mỹ) , hội nghị đại biểu 50 nước đã thông qua Hiến chương Liên Hợp Quốc và thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc. Đây là tổ chức quốc tế lớn nhất giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, an ninh quốc tế, thúc đẩy việc giải quyết các vụ tranh chấp xung đột trong khu vực, phát triển các mối quan hệ giao lưu quốc tế, chính trị, xã hội, kinh tế giữa các quốc gia thành viên. *Khác nhau Khi trật tự cũ không còn phù hợp với tình hình quốc tế thì nó được thay thế bởi một trật tự thế giới mới. Trật tự hai cực Ianta ra đời là hệ quả của quá trình dùng chiến tranh để gải quyết mâu thuẫn vốn chất chứa từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất mà trật tự Vécxai -Oasinhton không thể điều hòa được , cho nên bên cạnh những điểm giống nhau, giữa hai trật tự vẫn còn nhiều điểm khác biệt. Cụ thể: Thứ nhất, nếu như trật tự Vécxai -Oasinhton quyền lực chi phối hoàn toàn thuộc về các cường quốc tư bản như Anh, Pháp, Mỹ thì trong trật tự hai cực Ianta quyền lực chi phối thuộc về hai quốc gia đại diện cho hai hệ thống chính trị- xã hội đối lập: Liên Xô với phe xã hội chủ nghĩa và Mỹ với phe tư bản chủ nghĩa. Ở trật tự Vécxai –Oasinhton, quyền lực chi phối của ba cường quốc Anh, Pháp, Mỹ được thể hiện rõ nét trong hội nghị Vécxai và hội nghị Oasinhton. Trong hội nghị Vécxai (1919-1920), có năm cường quốc tham gia điều khiển là Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Iatalia nhưng thực sự nắm quyền quyết định là Tổng thống Mỹ Uynxơn, thủ tướng Anh Lôi Giooc và thủ tướng Pháp Clêmăngxô. Hội nghị có ba loại phiên họp khác nhau, quan trọng nhất là “Hội nghị tối cao”. Trật tự mới này đã đem lại lợi ích cho các nước thắng trận nhất là Anh, Pháp. Do chưa thỏa mãn quyền lợi nên Mỹ đưa ra sáng kiến triệu tập Hội nghị Oasinhton. Với hệ thống hiệp ước Oasinhtơn, Mỹ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự ở châu Á-Thái Bình Dương do Mỹ chi phối. Kết hợp với hòa ước Vécxai , các hiệp ước của hội nghị Oasinhton, các nước đế quốc đã xác lập một trật tự thế giới mới trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, Mỹ giành được nhiều ưu thế. Còn trong trật tự Ianta, quyền lực chi phối thuộc về hai siêu cường Liên Xô và Mỹ, thể hiện rõ nét nhất trong việc phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á tại hội nghị Ianta. Trong trật tự hai cực Ianta, hai cường quốc đứng đầu hai cực về cơ bản đã đạt những mục tiêu mà mình theo đuổi. Đối với Liên Xô, lúc này là thời điểm mà vị thế quốc tế của Liên Xô đạt tới đỉnh cao nhất kể từ sau cách mạng tháng Mười Nga 1917. Liên Xô là nước duy nhất có thể tạo ra thế cân bằng với Mỹ, đồng thời là lực lượng có khả năng đưa chủ nghĩa xã hội vượt ra phạm vi một nước, trở thành một hệ thống trên thế giới. Trong khi Mỹ ra sức câu kết, giúp đỡ các thế lực phản động chống phá cách mạng với mưu đồ vươn lên vị trí “thống trị” thế giới thì Liên Xô trở thành thành trì của cách mạng thế giới luôn hậu thuẫn cho phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội làm cho lực lượng cách mạng trên thế giới ngày càng phát triển đồng thời làm suy yếu lực lượng phản cách mạng nên các nước đế quốc không còn có thể hoàn toàn thao túng được quan hệ quốc tế. Hàng loạt nước, vùng lãnh thổ trên thế giới đã bị lôi cuốn vào mới quan hệ giữa hai cực Xô, Mĩ. Thứ hai, về cơ cấu tổ chức, trong trật tự Vécxai -Oasinhton thành lập tổ chức Hội quốc liên hoàn toàn phục vụ cho các nước đế quốc thắng trận. Còn trong trật tự hai cực Ianta thành lập cơ quan duy trì hòa bình, an ninh là Liên Hợp Quốc. Nếu như Hội quốc liên bị các nước đế quốc thắng trận chi phối, mang tính “đế quốc chủ nghĩa” thì Liên Hợp Quốc, với sự tham gia của Liên Xô (sau này có Trung Quốc) đại diện cho phe xã hội chủ nghĩa đã làm cho tổ chức này tiến bộ hơn. Hội quốc liên là một tổ chức chính trị có tính chất quốc tế đầu tiên, đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỉ XX. Về danh nghĩa, Hội quốc liên trở thành một tổ chức giám sát thế giới mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế những hoạt động của hội quốc liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc thắng trận áp đặt tại hội nghi Vécxai , Oasinhton. Với chế độ “ủy nhiệm”, Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và Thổ Nhĩ Kỳ. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang Italia nghĩa về hình thức vì để Hội quốc liên trở thành công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có Italia chí quân sự thống nhất và khả năng quân sự cần thiết. Việc hình thành chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa phát xít tự do hành động đã cho thấy sự bất lực của Hội quốc liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội quốc liên hình thành theo sáng kiến của Tổng thống Mỹ nhưng Mỹ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mỹ không được thực hiện trong hội nghị Vécxai . Tính chất bất bình đẳng thể hiện rõ nét trong việc các nước chậm phát triển không có quyền tham gia giải quyết các công việc thế giới. Liên Xô và Đức cũng không được tham gia vào tổ chức này. Đó là những nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của Hội quốc liên. Trong khi đó, tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời trong trật tự hai cực Ianta bao gồm năm cơ quan chính là: Đại Hội đồng, Hội đồng bảo an, Hội đồng kinh tế -xã hội, Tòa án quốc tế, Ban thư kí. Trong hơn 60 năm, Liên Hợp Quốc đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình trong đời sống chính trị quốc tế. So với Hội quốc liên, Liên Hợp Quốc thể hiện rỏ tính chất toàn cầu: thành phần tham gia bao gồm tất cả các quốc gia độc lập trên tất cả các châu lục không phân biệt đặc điểm về lịch sử, văn hóa, chế độ chính trị, trình độ kinh tế và đặc biệt là tính toàn diện, chương trình nghị sự không chỉ tập trung vào vấn đề duy trì hòa bình, an ninh mà bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học-kĩ thuật.....Với tư cách là một tổ chức đa phương toàn cầu lớn nhất, Liên Hơp Quốc trở thành diễn đàn toàn cầu duy nhất thúc đẩy hiểu biết chung giữa các nước , là diễn đàn vừa hợp tác vừa đấu tranh, là tổ chức không thể thiếu trong đời sống chính trị quốc tế. Với nguyên tắc cơ bản mang tính quyết định là sự nhất trí của năm nước lớn ủy viên thường trực Hội đồng bảo an (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc) đã góp phần đảm bảo cho sự chung sống hòa bình , ngăn chặn không cho một cường quốc nào có thể vươn lên khống chế Liên Hợp Quốc vào mục đích bá quyền của nước lớn. Thứ ba, trật tự Vécxai -Oasinhton không giải quyết thỏa đáng các vấn đề chế độ, chính trị, lãnh thổ và bồi thường chiến tranh đối với các nước chiến bại mà nó được thành lập bằng sự áp đặt, nô dịch của các nước thắng trận thông qua các điều khoản nặng nề. Còn đối với trật tự Hai cực Ianta giải quyết thỏa đáng hơn các vấn đề này. Thứ tư, trật tự Vécxai -Oasinhton (1919-1939) có thời gian tồn tại ngắn hơn trật tự hai cực Ianta (1945-1991). Cuộc đối đầu của hai siêu cường, hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Thế giới phân đôi thành hai hệ thống đối lập, dẫn đến tình trạng “chiến tranh lạnh” căng thẳng, các nước ra sức chạy đua vũ trang, hình thành các khối liên minh quân sự-chính trị “đặt thế giới đung đưa bên miệng hố chiến tranh”. Cuốn hút từng quốc gia từng khu vực trên thế giới vào quan hệ giữa hai cực như vậy phạm vi tác động của trật tự hai cực Ianta rộng hơn trật tự Vécxai-Oasinhton. Nguyên nhân tạo nên những sự khác nhau trên là do: Trật tự Vécxai -Oasinhton được hình thành khi chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc, số phận các nước bại trận đã được định đoạt trên chiến trường; còn trật tự hai cực Ianta diễn ra khi chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc , mặt khác, sự có mặt của Liên Xô trong trật tự thế giới Ianta đã tạo nên những điểm tích cực hơn so với trật tự Vécxai-Oasinhton, kìm hãm những tham vọng của các nước đế quốc. Vấn đề 2: Bối cảnh ra đời và tác động của trật tự Vécxai -Oaisinhton đến quan hệ quốc tế, nguyên nhân sụp đổ. a. Bối cảnh : Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc, quan hệ quốc tế bước sang một thời kì mới và chịu ảnh hưởng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của cuộc chiến tranh. - Chiến tranh thế giới thứ nhất làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc một cách rõ rệt. Các nước trong phe Liên minh bị thất bại nặng nề. Các cường quốc châu Âu trong phe Hiệp ước tuy là những nước thắng trận, nhưng do chiến trường chính diễn ra ở châu Âu nên cũng bị suy yếu, kiệt quệ và trở thành con nợ của Mỹ. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga, Đức, Áo-Hung bị sụp đổ. Trong khi đó, các cường quốc ngoài châu Âu (Mỹ, Nhật), nhờ ở xa chiến trường chính, được bao bọc bởi đại dương, không bị chiến tranh tàn phá nên đã vươn lên nhanh chóng vượt qua các nước tư bản ở châu Âu. Chỉ riêng việc lợi dụng chiến tranh buôn bán vũ khí đã đem lại cho tư bản Mỹ món lợi nhuận khổng lồ. - Chiến tranh đế quốc đã đẩy mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản lên cao,làm xuất hiện thời cơ cách mạng ở một số nước, tiêu biểu là ở nước Nga. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã tác động lớn đến quan hệ quốc tế giữa các nước. Tạo ra một bước chuyển căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành thách thức to lớn đối với các nước tư bản chủ nghĩa bởi cách mạng Nga đã chặt đứt khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa và cách mạng tháng Mười Nga cũng đã chứng minh cho các dân tộc bị áp bức, yêu chuộng hòa bình trên thế giới thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lê nin là một học thuyết khoa học có thể thành công trên thực tế. Từ đây trong quan hệ quốc tế của các nước lớn còn bị chi phối bởi một yêu cầu khác là làm sao chống phá, tiêu diệt được nước Nga Xô viết. - Để có đủ nhân lực, vật lực ném vào cuộc chiến tranh thế giới, các nước tham chiến tiến hành vơ vét, bóc lột nặng nề nhân dân các nước thuộc địa làm cho mâu thuẫn vốn có giữa các nước thuộc địa với chính quốc ngày càng lên cao, mặt khác chiến tranh làm cho các nước đế quốc-kẻ thù của phong trào cách mạng thế giới suy yếu; hơn nữa thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga không chỉ cổ vũ mà còn chỉ đường cho các dân tộc khác trên thế giới đấu tranh nên sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cao trào cách mạng đã bùng nổ và dân cao mạnh mẽ . Ở châu Âu ,cao trào cách mạng kéo dài suốt năm 1918-1923, chính quyền Xô viết đã được thiết lập tại Hungari và một số nơi của Đức. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc bùng nổ và giành nhiều kết quả to lớn. b. Tác động của trật tự Vécxai -Oasinhton đến quan hệ quốc tế. Thứ nhất, Trât tự Vécxai -Oasinhton là kết quả của hệ thống hòa ước Vécxai và hệ thống hòa ước Oasinhton, trật tự thế giới này hoàn toàn phục vụ cho các nước thắng trận, chà đạp lên quyền lợi của các dân tộc. Các nước bại trận không những phải chịu bồi thường những khoản chiến phí nặng nề mà lãnh thổ còn bị cắt bớt hoặc “xé nhỏ” làm tổn thương tinh thần dân tộc và gây ra những mâu thuẫn sâu sắc giữa các nước đế quốc thắng trận với các nước đế quốc bại trận. Đây là một trong những lí do làm xuất hiện chủ nghĩa phục thù ở Đức-gốc rễ của việc hình thành chủ nghĩa phát xít Đức. Thứ hai, hệ thống hòa ước Vécxai -Oasinhton tạo nên mâu thuẫn giữa các cường quốc do sự phân chia quyền lợi không đồng đều. Anh không những mở rộng hệ thống thuộc địa mà còn giành quyền bá chủ trên mặt biển về hải quân. Pháp được mở rộng lãnh thổ, đồng thời với sự suy sụp của Đức, đã tạo điều kiện có lợi cho Pháp trong việc thay đổi so sánh lực lượng ở châu Âu. Pháp muốn “bóp cho Đức lè lưỡi ra” nhưng vì muốn khống chế Pháp, Anh đã giúp đỡ để Mỹ “với tay” sang châu Âu,đẩy mạnh hỗ trợ giúp đỡ Đức về mặt kinh tế. Tuy nhiên, Sau khi phục hồi kinh tế, Đức không có được thị trường tương xứng và sự phục hồi của quốc gia này trở thành mối đe dọa cho nước Pháp. Ở châu Á-Thái Bình Dương, Italia đồ bá chủ của Nhật bị thất bại bởi thông qua hệ thống hòa ước Oasinhton, Mỹ đã can thiệp sâu vào khu vực này. Nội bộ phe đế quốc bị phân chia thành các nước thỏa mãn và những nước không thỏa mãn với hệ thống. Do vậy, quan hệ giữa các nước lớn ngày càng chồng chéo và mâu thuẫn ngày càng sâu sắc. Như vậy, với sự phân chia quyền lợi không đồng đều, trật tự Vécxai -Oasinhton đã làm sâu sắc thêm quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc, làm cho hòa bình được thiết lập sau thế chiến chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn, mầm móng của một cuộc chiến tranh thế giới mới đã hình thành. c. Nguyên nhân sụp đổ của trật tự Vécxai -Oasinhton Trật tự Vécxai -Oasinhton không làm thỏa mãn tham vọng của nhiều nước, không giải quyết thỏa đáng việc trừng phạt các nước bại trận nên vấn đề hòa bình, ổn định, tồn tại lâu dài trong trật tự Vécxai -Oasinhton là không thể. Đến tháng 9/1939, khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thì trật tự này sụp đổ hoàn toàn. Trật tự Vécxai -Oasinhton sụp đổ là do những nguyên nhân sau: -Thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoàng kim. Cuộc khủng hoảng bùng nổ tháng 10-1929 đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội…làm suy yếu các nước đế quốc. -Thứ hai, do việc phát triển không đồng đều giữa các nước tư bản cùng với hậu quả cuả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã hình thành những xu hướng khác biệt trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa chủ trương đi theo con đường phát xít hóa, chủ trương phá vỡ trật tự Vécxai -Oasinhton, chuẩn bị gây chiến tranh chia lại thế giới. Trong khi đó, các nước Anh, Pháp, Mỹ là những nước có nhiều quyền lợi sau chiến tranh (có vốn, thị trường, thuộc địa) nên chủ trương tiếp tục duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, duy trì nguyên trạng trật tự do hòa ước Vécxai -Oasinhton tạo ra. Hai xu hướng nhằm thoát khỏi cuộc đại khủng hoảng đã tạo ra hai khối đế quốc đối lập, đặt thế giới trước nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới. Điều này cũng chứng tỏ, trật tự Vécxai -Oasinhton không đủ khả năng duy trì trật tự thế giới mà các cường quốc đã sắp đặt trước đó. -Thứ ba, quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đế quốc đối lập và việc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thỏa hiệp tạm thời Vécxai -Oasinhton. Quan hệ quốc tế giữa các nước đế quốc từ 1929-1939 với việc hình thành ba lò lửa chiến tranh (lò lủa chiến tranh ở Viễn Đông của phát xít Nhật, 2 lò lửa chiến tranh của phát xít Đức và Italia ở châu Âu) và các hoạt động quân sự của phe phát xít đã báo hiệu sự sụp đổ của trật tự thế giới Vécxai -Oasinhton. -Thứ tư, Hệ thống hòa ước Vécxai -oasinhton không thể điều hòa được quyền lợi giữa các nước đế quốc, mà sau khi kí các hòa ước thì mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đã xuất hiện và ngày càng tăng. Vì trật tự thế giới hoàn toàn phục vụ quyền lợi của các nước đế quốc thắng trận, chà đạp lên quyền lợi của các dân tộc, gây mâu thuẫn giữa các nước đế quốc. Tính chất bất bình đẳng của trật tự này thể hiện rõ nét trong việc các nước chậm phát triển trên thực tế không có quyền tham gia các công việc của thế giới. Trật tự này ngày càng làm sâu sắc quy luật phát triển không đồng đều của các nước đế quốc. Như vậy, ngay từ đầu trật tự Vécxai-Oasinhton đã mang trong mình những mâu thuẫn không thể điều hòa được. Nguyên nhân sâu xa làm sụp đổ trật tự Vécxai-Oasinhton cũng đồng thời là nguyên nhân dẫn đến việc bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), bởi chiến tranh thế giới thứ hai là sự kiện “khai tử” trật tự này. →Như vậy, một trật tự thế giới được hình thành là kết quả của nhiều yếu tố nhưng trong đó quyền sắp đặt và chi phối trật tự thường phụ thuộc vào quan hệ giữa các cường quốc lớn. Vì vậy, có thể nói một trật tự thế giới luôn luôn biến động không ngừng bởi nó phụ thuộc vào sự thay đổi vị thế của các quốc gia trên thế giới. Lực lượng nào nắm quyền chi phối trật tự thế giới sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ quốc tế trong giai đoạn nó tồn tại. Vấn đề 3: Lập bảng so sánh những điểm giống nhau (về đặc điểm kinh tế, bản chất, mưu đồ và thái độ trong quan hệ quốc tế) và những điểm khác nhau (về quá trình xác lập chủ nghĩa phát xít, tiềm lực giữa ba nước phát xít Đức, Italia, Nhật Bản. Qua đó, nêu bản chất của chủ nghĩa phát xít. a. Giống nhau: *Đặc điểm kinh tế: Nghèo tài nguyên thiên nhiên, ít thuộc địa, thị trường tiêu thụ hẹp không tương xứng với sự phát triển kinh tế... *Bản chất: Thực hiện nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính. *Mưu đồ và thái độ trong quan hệ quốc tế: Đều bất mãn với hệ thống Vécxai -Oasinhton và đều có âm mưu dùng vũ lực và chiến tranh để phân chia lại thế giới... b. Khác nhau: Nội dung so sánh Quá trình xác lập Italia Đức Thay thế nền dân chủ đại Chế độ dân chủ đại nghị nghị bằng chế độ phát xít chuyển sang chế độ chuyên chế phát xít Nhật Bản Chế độ chuyên chế Thiên Hoàng dựa trên nền tảng chủ nghĩa quân phiệt, do đó quá trình phát xít hóa diễ ra chủ yếu trong chính sách của nhà nước. Quá trình phát xít hóa diễn ra nhanh và sớm Tiềm lực Quá trình phát xít hóa diễn ra nhanh chóng Hạn chế, “chủ nghĩa đế Nước lớn, có tiềm lực về quốc của những kẻ nghèo kinh tế quân sự, có trình độ khổ” cao về khoa học-kĩ thuật Quá trình phát xít hóa kéo dài về thời gian và gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược. Tương đối mạnh c. Bản chất của chủ nghĩa phát xít: Mặc dù các nước phát xít cũng là các nước đế quốc nhưng thực chất chủ nghĩa phát xít là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính. Nó thay thế chế độ dân chủ tư sản đại nghị bằng nền thống trị độc tài tàn bạo nhất của các tập đoàn đại tư sản. Nó hoàn toàn không phải là sự vùng dậy của giai cấp tiểu tư sản như các đảng này tuyên truyền hòng lôi kéo đông đảo thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia bị biến thành lực lượng xung kích của chúng. Do vậy chủ nghĩa phát xít không chỉ mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội mà đối lập với tất cả các lực lượng đấu tranh cho hoà bình và dân chủ, chống chiến tranh đế quốc. Vấn đề 4: Sách lược đấu tranh của Quốc tế Cộng sản trước sự ra đời của chủ nghĩa phát xít. *Hoàn cảnh: -Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm xuất hiện chủ nghĩa phát xít ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Để cùng thực hiện chủ trương gây chiến tranh, phân chia lại thị trường thế giới, các nước phát xít đã liên minh lại với nhau tạo thành phe Trục (Béclin-RômaTôkyô), khối này vừa đối đầu với khối các nước đế quốc dân chủ (đại diện là Anh, Pháp, Mỹ), vừa chống Quốc tế Cộng sản, làm xuất hiện nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới. -Ngay từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, phong trào chống phát xít và nguy cơ chiến tranh lan rộng ở nhiều nước trên thế giới. -Trong tình hình đó, Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva từ ngày 25-7 đến ngày 25-8-1935. *Nội dung sách lược của Quốc tế Cộng sản: -Đại hội đã nêu rõ bản chất của chủ nghĩa phát xít là những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính. Nó không chỉ mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội mà còn đối lập với tất cả các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và chống chiến tranh đế quốc. -Từ đó, Đại hội chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. -Nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giành dân chủ và chống nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình. -Về tổ chức: chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, thống nhất các lực lượng công nhân trong từng quốc gia và trên phạm vi quốc tế, rồi mở rộng sự đoàn kết với các tầng lớp nhân dân, với tất cả các lực lượng chống chủ nghĩa phát xít. *Ý nghĩa: Đại hội đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản nhằm tập trung mũi nhọn đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít-kẻ thù nguy hiểm nhất của các dân tộc và hòa bình, an ninh thế giới, phù hợp với sự thay đổi của tình hình mới. Vấn đề 5: Thông qua quan hệ quốc tế trước khi chiến tranh thế giới bùng nổ, hãy làm rõ trách nhiệm của Anh, Pháp, Mỹ về sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai. -Thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai là chủ nghĩa phát xít mà đại diện là ba nước : Đức, Italia, Nhật Bản nhưng các nước Anh, Pháp, Mỹ với chính sách ngoại giao hai mặt của mình phải chịu một phần trách nhiệm về sự bùng nổ của cuộc chiến tranh này. Bởi vì: +Các nước này đều có chung mục đích là giữ nguyên trật tự thế giới có lợi cho mình. Họ lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít nhưng vẫn thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, giới cầm quyền của các nước Anh, Pháp đã không liên kết chặt chẽ với Liên Xô để chống phát xít. Trái lại, họ thực hiện chính sách nhượng bộ đổi lấy hòa bình, đẩy phát xít hướng mũi nhọn tấn công vào Liên Xô với âm mưu làm suy yếu cả hai kẻ thù này.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan