TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
………….o0o………….
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ SỰ BIỂU HIỆN CỦA NÓ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Sinh viên thực hiện: Phạm Ngọc Anh
Lớp tín chỉ: TRI115.13
Lớp hành chính: Pháp-03
Khối: Ngôn ngữ thương mại
Khóa: K60
Mã sinh viên: 2114730008
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Đinh Thị Quỳnh Hà
HÀ NỘI, 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………...2
CHƯƠNG I: NỘI DUNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ...3
1.
Nội dung của quy luật giá trị ……………………………………………3
a. Quan điểm của Mác về giá trị……………………………………….3
b. Nội dung và yêu cầu chung của quy luật giá trị…………………….3
c. Tác động của quy luật giá trị………………………………………...4
2.
Một số quan điểm khác về giá trị……………………………………….5
3.
Kết luận…………………………………………………………………9
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM …………………………………….9
1.
Nền kinh tế thị trường…………………………………………………..9
2.
Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế Việt Nam……………..11
a. Khái quát về nền kinh tế thị trường………………………………..11
b. Biểu hiện của quy luật giá trị………………………………………13
c. Giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế thị
trường Việt Nam…………………………………………………..14
KẾT LUẬN………………………………………………………………….15
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….…….16
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hàng hóa, có những quy luật kinh tế ràng buộc và chi
phối hoạt động của những người sản xuất hàng hóa như: quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật tiết kiệm thời
gian lao động; quy luật tăng năng suất lao động. Trong đó, quy luật giá trị là
quy luật kinh tế quan trọng nhất; giữ vai trò chi phối nền sản xuất hàng hóa. Ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng
của quy luật giá trị. Vì vậy, việc tìm hiểu, nắm bắt nội dung và tác động của quy
luật giá trị có ý nghĩa hết sức to lớn.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang tiến hành xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà
nước ta luôn hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Muốn thực hiện được điều đó thì trong chính sách phát triển
của mỗi quốc gia đòi hỏi phải dựa trên một nền tảng cơ sở lý thuyết vững chắc
về các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị. Tác động của quy luật giá trị
tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ hoàn thiện của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và vào khả năng nhận thức vận dụng vận
dụng và tổ chức các hoạt động kinh tế thực tiễn nhà nước.
Vì vậy em đã quyết định lựa chọn đề tài “Quy luật giá trị và sự biểu
hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam”. Em xin cảm ơn sự
hướng dẫn và và dạy dỗ tận tình qua các bài giảng của cô Đinh Thị Quỳnh Hà.
Rất mong sự đóng góp ý kiến của cô để bài tiểu luận hoàn thiện hơn. Em xin
chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I: NỘI DUNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ
1. Nội dung của quy luật giá trị
a. Quan điểm của Mác về giá trị
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế như : quy luật
giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật lưu thông tiền tệ,… Nhưng vai trò cơ sở cho
sự chi phối nền sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
b. Nội dung và yêu cầu chung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng
hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy
tác dụng của quy luật giá trị. Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất
và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao
động xã hội cần thiết. Cụ thể:
- Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao
động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định
bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí
lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi
phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá
biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
- Trong lưu thông, hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết, có nghĩa trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
- Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng
hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá
trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá
3
cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị còn , giá cả còn phụ
thuộc vào các nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.
Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách
rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả
thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động
của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật
giá trị phát huy tác dụng.
c. Tác động của quy luật giá trị: Trong sản xuất hàng hóa , quy luật giá trị có
ba tác động chủ yếu sau:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
• Điều tiết sản xuất tức là điều hòa , phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông qua
thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của
quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa
sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô
vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào
ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành ấy vượt quá cầu, giá cả hàng
hóa sẽ giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy
buộc người sản xuất phảo thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư
vào nhành có giả cả hàng hóa cao.
• Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị
trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng
từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông
suốt.
4
- Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động. thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Trong nền kinh tế hàng hóa,
mỗi người sản xuất hàng háo là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau
nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có
hao phí lao động xá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa ở thế có
lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn
hao phí lao đỗng xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong
cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động
cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ
phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm
chặt chẽ, tăng năng suất lao động. sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá
trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất
xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng
hóa thành người giàu, người nghèo. Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất
yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình
độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn
hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ
mua sắm them tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những
người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh
doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản, trở thành nghèo khó.
2. Một số quan điểm khác về giá trị
a. William.Petty
5
Theo ông, nếu như giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo
là giá cả thị trường của hàng hoá. Giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả
tự nhiên và quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường. Đối với W.Petty, việc
phân biệt giá cả tự nhiên - hao phí lao động trong điều kiện bình thường với giá
cả chính trị – lao động chi phí trong điều kiện chính trị không thuận lợi có ý
nghĩa to lớn. Ông là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá
trị lao động. Lý thuyết giá trị lao động của W.Petty còn chịu ảnh hưởng tư tưởng
chủ nghĩa trọng thương. Ông có luận điểm nổi tiếng là: “Lao động là cha còn
đất là mẹ của mọi của cải ”. Về phương diện của cải vật chất, đó là công lao to
lớn của ông, nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị – lao động khi kết luận “Lao
động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm” tức là cả lao động
và đất đai là nguồn gốc của giá trị.
b. A.Đam.Simith
Ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động
là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử
dụng và giá trị trao đổi và khẳng định giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi.
Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá là do hao phí lao động trung bình cần thiết
quyết định và đưa ra hai định nghĩa về giá cả là giá cả tự nhiên và giá cả thị
trường. Về bản chất, giá cả thị trường là biểu hiện tiền tệ của giá trị. Lý thuyết
giá trị – lao động của A.Smith còn có hạn chế. Ông nêu lên hai định nghĩa: Thứ
nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định. Lao động là
thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông là người đứng vững
trên cơ sở lý thuyết giá trị–lao động. Thứ hai, ông cho rằng, giá trị là do lao
động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định. Từ định nghĩa
này, ông suy ra giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá
giản đơn. Còn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị do các nguồn thu nhập
6
tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô.. Ông cho rằng “Tiền
lương, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là
của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị – lao động
“Giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định, lao động là
thước đo thực tế của mọi giá trị”.
c. David Ricardo
Ông phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng
không phải là thước đo của nó. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối,
còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng
duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối. Ricardo chỉ ra là định nghĩa “Giá trị lao
động hao phí quyết định” là đúng, còn định nghĩa “Giá trị lao động mà người ta
có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định” là không đúng. Theo ông,
không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn mà ngay cả trong nền sản
xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ricardo cũng khẳng định
“Giá trị là do lao động hao phí quyết định” và cấu tạo giá trị hàng hoá bao gồm
3 bộ phận là: c+v+m, nhưng ông cũng chưa phân tích được sự dịch chuyển “c”
vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Phương pháp nghiên cứu của ông còn
có tính siêu hình. Ông coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn. Ông chưa phân biệt
được giá trị hàng hoá và giá cả sản xuất, chưa thấy được mâu thuẩn giữa giá trị
và giá trị sử dụng vì chưa có được lý thuyết tính hai mặt của lao động.
d. J.Batis.SAY
J.B.Say đã đồng nhất giá trị với giá trị sử dụng và phủ nhận vai trò duy
nhất của lao động trong việc tạo ra giá trị của hàng hoá. Ông còn cho rằng, giá
trị chỉ được xác định trên thị trường – tức là chỉ được xác định trong trao đổi.
7
Thước đo giá trị của một vật phẩm chính là số lượng vật phẩm khác mà người
khác đưa lại để đổi lấy vật phẩm đó. Nói khác đi theo ông, giá trị được quyết
định với quan hệ cung – cầu. Rõ ràng ở đây, Say đã đồng nhất giá trị với giá cả
thị trường.
e. Sismondi
Ông thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá. Ông
đã tiến thêm một bước so với D.Ricardo là đưa ra thước đo giá trị hàng hoá:
“thời gian lao động xã hội cần thiết”. Do đó, ông đã quy lao động thành mối
liên hệ giữa nhu cầu xã hội và thời gian lao động xã hội cần thiết để thoả mãn
nhu cầu. Tuy nhiên, so với D.Ricardo thì Sismondi còn có chỗ thụt lùi:
D.Ricardo coi giá trị tương đối của hàng hoá được đo bằng lượng lao động chi
phí để sản xuất ra hàng hoá, còn Sismondi, giá trị tương đối của hàng hoá được
qui định bởi cạnh tranh, bởi lượng cầu về hàng hoá.
f. Pi-e Giô-Dép PruĐông
Giá trị bao gồm hai mặt mâu thẫn với nhau: Giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi, chúng phản ánh hai mặt khuynh hướng mâu thuẫn: dồi dào và khan hiếm.
Theo ông, giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào, còn giá trị trao đổi là hiện
thân của sư khan hiếm. Mâu thuẫn tưởng tượng này chỉ có thể xoá đi bằng việc
thiết lập sự trao đổi ngang giá, tức là “giá trị xác lập”. Do đó, ông đề nghị không
chỉ sản xuất những hàng hoá, mà còn đòi hỏi tạo ra sự trao đổi ngang giá để tất
cả các hàng hoá được thực hiện, tức là biến thành “giá trị xác lập”. Tức là, giá
trị mà nó xuất hiện trong trao đổi và thị trường chấp nhận, ông cho rằng trao đổi
và lao động là nguồn gốc giá trị. C.Mác đã nhận xét. “Lý luận giá trị của
Prudong” là sự giải thích một cách không tưởng lý luận của Ricardo. Và bằng
chính cách đó đã bóp méo, tầm thường hoá cả những phạm trù giá trị khác.
8
3. Kết luận:
Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, đó là lao động cụ thể và trìu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội.
Mác định nghĩa lượng giá trị hàng hóa đo được bằng thời gian lao động xã hội
cân thiết, phê phán các quan điểm đi trước. Mác là người đầu tiên phát hiện ra
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Trên cơ ở phát hiện này, Mác đã
thực hiện một cuộc cách mạng trong khoa học kinh tế chính trị. Ông viết:” Tôi
là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và
khoa học kinh tế chính trị xoay quanh điểm này”. Những tác động của quy luật
giá trị đến nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn:
một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, dào thải các yêu kém,
kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ
giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu
cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước
cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó,
đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1. Nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Có thể trừu tượng hoá một số đặc điểm cụ
9
thể, phản ánh sự giao thoa, chuyển tiếp và đan xen giữa các mô hình để quy về
ba mô hình chủ yếu sau:
● Mô hình kinh tế thị trường tự do
● Mô hình kinh tế thị trường - xã hội
● Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam)
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đang được thực thi chỉ
ở hai nước (Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN và Trung Quốc kinh tế thị trường XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ
thử nghiệm. Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức
sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn. Hệ thống kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau:
• Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường,
vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ,
ngân hàng, quốc phòng...) được nhà nước quản lý. Các thông lệ quốc tế trong
quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu
sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
• Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân.
• Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập
kinh tế thành công.
10
• Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua
phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng
nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng
xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.
• Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
• Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được
khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
2. Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế Việt Nam
a. Khái quát về nền kinh tế thị trường Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh
tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt
Nam từ thập niên 1990. Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung
rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt
chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng
này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thêm
vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp
thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động
vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương
11
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21- NQ/TW ngày
30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam
mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của
Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
a) Giai đoạn trước Đại VI (1986)
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp.
Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính
cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung,
bao cấp và đóng cửa.
b) Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung
chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước,
theo định hướng XHCN. Đại hội VI thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” trên con đường đi lên CNXH (Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Hội
nghị giữa kỳ Đại hội VII).
c) Giai đoạn từ ĐH IX (2001) đến nay
Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế
sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai
12
đoạn tiến lên CNXH, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
b. Biểu hiện của quy luật giá trị
Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên CHXN ở
Việt Nam. Mục tiêu phát triển là nhằm xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu”. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền
kinh tế vận động theo những kinh tế vốn có của kinh tế thị trường. Các doanh
nghiệp, hộ gia đình tự quyết định hành vi của mình để trả lời thỏa đáng ba câu
hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản vuất như thế nào. Trên thị trường hàng
hóa và dịch vụ, giá cả điều tiết cung cầu. tiến hành đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, mở rộng quyền tự chủ doanh nghiệp, xóa bỏ dần việc nhà nước bao cấp
và sản xuất tiêu chực, giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua
lỗ lâu dài.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường. Mỗi thành phần kinh tế theo
đuổi mục đích riêng và bằng những cách khác nhau, chịu sự tác động của quy
luật kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải nắm giữ
vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt. Đó là những "đài chỉ huy", là huyết
mạch chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính
định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế
thị trường định hướng XHCN so với các mô hình kinh tế thị trường khác.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở
sức mạnh định hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải
13
ở quy mô và sự hiện diện của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả
hoặc hầu hết các ngành, các lĩnh vực. Mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào
thị trường khu vực và thế giới. Chủ động hòa nhập, thực hiện đa dạng hóa kinh
tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế, định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ chế
quản lý: xóa bỏ hoàn toàn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa .
c. Giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường Việt
Nam
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh cơ chế quản lý, phát triển kinh
tế thị trường.
- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nang cao hiệu quả khu vực doanh
nghiệp nhà nước.
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Tiếp tục chủ đồng hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tếxã hội và điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế.
14
KẾT LUẬN
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa, tác động đến sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Đây cũng là một quy luật kinh tế có vai trò quan
trọng đối với sự hình thành và phát triển nền kinh tế của nước ta trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy rất rõ ràng rằng quy luật giá trị
và những biểu hiện của nó như giá cả, tiền tệ, giá trị hàng hóa, …là lĩnh vực tác
động rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội. Đảng và nhà nước nước ta đã nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc dổi mới xã hội và vận dụng quy luật
giá trị vào nền kinh tế đất nước. Việc tuân theo nội dung của quy luật giá trị để
hình thành và xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, sự vân dụng đó vẫn còn những
hạn chế nhất định và rất cần phải thực hiện các biện pháp kịp thời để khắc phục.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin” (2010) .
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] Lê Thành Nghiệp – “Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam”. NXB Khoa học
Kỹ thuật, Hà Nội.
[3] Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng – “Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm
và đột phá” (2009). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] BCHTW (2008). Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản - Nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.
[5] Nguyễn Văn Linh - “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương (khóa
VI) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII” (1986). Văn kiện Đảng Cộng
sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
16
- Xem thêm -