Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã
hội đặt ra trong tác phẩm văn học
A.Phần mở đầu
Môn Ngữ văn trong nhà trường THPT không chỉ đơn thuần là môn học
cung cấp tri thức cho học sinh mà còn là môn học giúp các em trau dồi vốn
sống, kinh nghiệm xã hội. Cùng với mảng văn nghị luận văn học, văn nghị luận
xã hội cũng chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn THPT. Tuy
nhiên quá trình đổi mới dạy học Văn trong nhà trường phổ thông hiện nay mới
thực sự bắt đầu chú trọng đến vai trò của mảng văn NLXH (nghị luận xã hội),
cũng vì vậy mà quá trình nghiên cứu và giảng dạy văn NLXH chưa thực sự thỏa
đáng.
Trong chương trình Ngữ văn THPT, số tiết dành cho kiểu bài nghị luận xã
hội còn khá khiêm tốn. Ở chương trình cơ bản, ngoài những bài viết trong
chương trình có dạng đề NLXH, học sinh chỉ được dành trọn vẹn hai tiết tương
đương với hai dạng bài của phần nghị luận xã hội (nghị luận về một hiện tượng
đời sống và nghị luận về một tư tưởng đạo lí) mà không có kiểu bài nghị luận về
một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Ở chương trình nâng cao có bổ
sung thêm một tiết luyện tập về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học. Như vậy chương trình nâng cao được tăng một tiết nhưng thực chất là mở
rộng thêm dạng nghị luận xã hội mà chương trình cơ bản không học. So với tầm
quan trọng của kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học, việc đề cập một cách chân sát về từng kĩ năng tạo dựng một văn bản
NLXH dạng này thì nội dung trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu học tập để có thể giúp học sinh tạo lập một văn bản thực
sự có chất lượng.
1
Dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong một tác phẩm văn học là
dạng bài với yêu cầu cao hơn đòi hỏi học sinh phải biết khéo léo kết hợp cách
làm bài văn nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Dạng bài này trước tiên giúp
kiểm tra kiến thức trong tác phẩm văn học mà học sinh đã được tìm hiểu, sau đó
học sinh phải vận dụng các kĩ năng viết văn nghị luận xã hội để có thể tạo lập
được văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
Nắm chắc kiến thức và thuần thục trong kĩ năng sẽ giúp học sinh viết kiểu văn
NLXH này một cách hiệu quả. Chính điều đó cũng sẽ thúc đẩy học sinh tiếp cận
gần hơn và nắm bắt được những kiến thức thực tế của cuộc sống thông qua các
tác phẩm văn học, từ đó giúp các em hình thành kinh nghiệm sống. Khi đã có
các kĩ năng để tạo lập được văn bản học sinh phải nắm bắt được các vấn đề
xoay quanh nội dung mà văn bản đó đề cập. Từ đây, học sinh cần đi sâu vào
thực tiễn cuộc sống để thu thập các kiến thức, thông tin liên quan đến vấn đề mà
bài văn nghị luận đề cập.
Chính từ thực tiễn dạy học làm văn NLXH trong nhà trường, chúng tôi
tiến hành thực hiện chuyên đề “Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội
đặt ra trong tác phẩm văn học” với mong muốn chia sẻ kinh nghiệm nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học phần làm văn trong nhà trường phổ thông trong mảng văn
NLXH đặc biệt là kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong một tác phẩm
văn học. Từ đó góp thêm một vài kinh nghiệm giúp giáo viên không còn cảm
thấy lúng túng mỗi khi dạy học kiểu bài này. Đồng thời từ đây giúp học sinh có
cái nhìn đúng hơn về mối quan hệ mật thiết giữa nghị luận văn học và nghị luận
xã hội; giúp các em nắm vững các kĩ năng và không còn cảm thấy khó khăn,
nặng nề mỗi khi đứng trước yêu cầu viết một bài văn nghị luận xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học.
II. Nội dung chính
1. Nghị luận xã hội và nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học
1.1. Nghị luận xã hội
2
Văn nghị luận nói chung và NLXH nói riêng ngày càng khẳng định vị trí
quan trọng trong nhà trường cũng như thực tiễn đời sống. Văn nghị luận là loại
văn trong đó người viết sử dụng lập luận với các luận điểm, luận chứng để trình
bày quan điểm, nhận xét, đánh giá của mình về một vấn đề nào đó nhằm thuyết
phục người nghe, người đọc. Văn nghị luận văn học bao gồm có nghị luận văn
học và NLXH
NLXH là loại văn nghị luận mà vấn đề được bàn bạc thuộc phạm vi xã
hội bao gồm các vấn đề trong quan hệ đời sống xã hội của con người. Những
vấn đề được bàn luận trong NLXH giúp hình thành nên thái độ tích cực nhằm
tác động đến đời sống xã hội.
Theo Bảo Quyến trong cuốn Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, NXB Giáo
dục, 2007, văn NLXH được khái quát như sau: " Văn NLXH là văn nghị luận về
một vấn đề xã hội thuộc mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi
lĩnh vực đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, giáo dục, đạo đức, môi trường,
dân số..."
Trong cuốn Dạy học văn NLXH do Đỗ Ngọc Thống chủ biên đưa ra khái
niệm văn NLXH như sau: "Văn NLXH là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc
về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã
hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con
người và những mối liên hệ giữa con người với con người trong xã hội"
Như vậy, có thể khái quát: Văn NLXH là bài văn mà người viết sử dụng lí
lẽ và dẫn chứng để đưa ra những ý kiến riêng của mình về một vấn đề xã hội
nhằm thuyết phục người đọc, người nghe.
Trong kiểu bài NLXH, căn cứ vào nội dung mà bài văn bàn luận, có thể
chia bài văn NLXH thành ba kiểu bài chính:
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
3
Sự phân chia thành ba kiểu trên hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi (Có ý
kiến cho rằng kiểu bài NLXH thứ ba không thể được xếp thành môt kiểu bài
riêng song song với hai kiểu bài NLXH nói trên mà nó chỉ là một bộ phận của
hai kiểu bài ấy). Tuy nhiên sự phân loại này giúp cho giáo viên dễ dàng rèn các
kĩ năng làm bài NLXH cho HS một cách thuận lợi và hiệu quả hơn.
1.2. Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là dạng đề mới
trong nội dung dạy - học làm văn. Dạng đề này nhằm rèn luyện đồng thời hai
năng lực: năng lực đọc - hiểu văn bản văn học và năng lực làm văn NLXH của
HS. Có thể coi đây là dạng đề tích hợp giữa đọc văn và làm văn. Đạng đề này
có đặc điểm là dựa vào một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó đặt ra trong
tác phẩm văn học, yêu cầu người viết phát biểu bàn bạc ý nghĩa của vấn đề đó.
Vấn đề xã hội có ý nghĩa chủ yếu được lấy từ hai nguồn:
- Tác phẩm văn học được học trong chương trình
VD:
Đề 1: Từ bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến, anh/ chị hãy bàn về mối
quan hệ danh và thực trong cuộc sống hôm nay?
Đề 2: " Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của
người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch(...) Người đàn
ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ
quạ(...)
(...) Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn.
Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt nước chỗ chiếc thuyền
đậu một thoáng, rồi đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng
rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra
một chiếc thắt lưng của lính ngụy thời xưa, có vẻ như những điều phải nói với
nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng ngừoi đàn bà, vừa đáng vừa
4
thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quật xuống lão lại rên
rỉ bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi
cho ông nhờ"
(...) Bóng một đứa con nít lao lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra
thằng Phác (...) Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi
chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã
nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn
giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông
(...) Khi tôi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng
bé. Không biết làm cách nào, nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn
thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy
nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão
đàn ông định giằng chiếc thắt lưng nhưng không được nữa, liền dang thẳng
cánh tay cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát... "
( Trích: Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu)
Từ đoạn trích trên, anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về hiện
tượng bạo lực gia đình
- Một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn mà HS chưa được học.
VD
Đề 3. Suy nghĩ của anh/ chị về câu chuyện sau:
" Xưa thật là xưa, có một ông vua nọ, một hôm ông ta sai quân lính đặt
một tảng đá lớn nằm chắn ngang đường đi. Xong, ông nấp vào một bụi cây gần
đấy và theo dõi.
Lần lượt ông ta thấy, những thương nhân giàu có đi qua, rồi đến những
cận thần của ông đi qua, nhưng không ai có ý định xê dịch tảng đá sang bên
nhường chỗ cho lối đi cả, họ chỉ lẩm nhẩm đổ lỗi cho nhà vua vì đã không cho
người giữ sạch sẽ con đường.
Một lúc sau, nhà vua nhìn thấy một người nông dân đi tới với một xe rau
cồng kềnh nặng trĩu. Nhìn thấy tảng đá, người nông dân liền ngừng xe và nhảy
5
xuống đất, cố hết sức mình ông ta đã đẩy được tảng đá sang bên kia vệ đường.
Vừa làm ông ta vừa lẩm bẩm: "Thật không may nếu có ai đó không thấy mày và
vấp phải, chắc là sẽ đau lắm đây".
Xong đâu đấy, người nông dân quay trở lại xe để tiếp tục đi tiếp, thì bỗng
nhìn thấy một bao tiền to đùng đặt ngay chỗ mà ông đã di chuyển tảng đá. Đó
là một một món quà của đức vua cho người nào dịch chuyển được tảng đá"
(Nguồn: http://htlove.org/5-bai-hoc-quan-trong-cua-doi-nguoi)
Đề 4: Suy nghĩ của anh/ chị về câu chuyện sau:
"Chuyện kể rằng ngày xửa ngày xưa,có một vòng tròn. Vòng tròn ta rất
tự hào về thân hình của mình, tròn một cách hoàn hảo đến từng milimét. Thế
nhưng, một sáng nọ thức dậy, nó bỗng thấy mình mất một góc lớn hình tam
giác. Buồn bực, vòng tròn tìm mảnh vỡ hình tam giác bị mất. Vì không còn
hoàn hảo nên nó lăn rất chậm chạp. Nó bắt đầu ngợi khen những bông hoa dại
đang tỏa sắc bên đường. Nó tâm tình cùng sâu bọ. Nó tận hưởng ánh sáng mặt
trời ấm áp. Vòng tròn tìm được nhiều mảnh vỡ nhưng chẳng mảnh nào vừa cả.
Nó lại tiếp tục tìm kiếm. Một ngày kia nó tìm được một mảnh hoàn toàn vừa
khít. Nó sướng đến run người. Giờ đây nó lại hoàn hảo như xưa. Nó ghép mảnh
vỡ kia vào rồi lăn đi. Nhưng, ơ kìa! Sao nó lăn nhanh đến thế! đến nỗi các
bông hoa nhòe đi trong mắt nó, tiếng chuyện trò thì bạt đi trong gió. Vòng tròn
nhận ra thế giới xung quanh nó trở nên khác hẳn khi nó lăn quá nhanh. Nó bèn
dừng lại, đặt mảnh vỡ bên đường rồi chầm chậm lăn đi!"
(Nguồn: http://htlove.org/ Quà tặng cuộc sống)
Từ những VD trên, có thể thấy: dạng đề này liên quan và xuất phát từ tác
phẩm văn học, nhưng tác phẩm văn học chỉ là "cái cớ" khởi đầu. Mục đích
chính là yêu cầu người viết bàn bạc, nghị luận về một vấn đề xã hội. Trong
trường hợp này, tác phẩm văn học chỉ được khai thác về giá trị nội dung tư
tưởng, rút ra ý nghĩa xã hội khái quát của tác phẩm ấy. Tác phẩm nào cũng có
một ý nghĩa xã hội nhất định. Điều quan trọng là vấn đề xã hội đó có mang tính
6
thời sự, tính giáo dục sâu sắc, có phù hợp với tâm lí tuổi trẻ học đường hay
không.
Xét về nội dung, dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học có thể thuộc kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí hay nghị
luận về một vấn đề đời sống, Tuy nhiên nó có những đặc trưng và yêu cầu riêng.
Kiểu bài này hướng người viết tới tìm hiểu, khai thác vấn đề xã hội được thổi
vào trong tác phẩm văn học. Từ đó người viết đi sâu vào bàn luận vấn đề được
tác phẩm đặt ra. Để làm tốt dạng bài này, đòi hỏi người viết phải có khả năng
nhạy bén trong việc phát hiện vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học
vừa có khả năng tư duy thẩm mĩ kết hợp với tư duy thực tiễn.Vì vậy việc rèn kĩ
năng cho HS làm tốt kiểu bài này là vô cùng cần thiết trong dạy làm văn NLXH.
2. Rèn kĩ năng làm bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học.
Trong quá trình rèn kĩ năng cho kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học, trước hết chúng tôi tập trung rèn nhuần nhuyễn cho HS
các kĩ năng làm hai kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về
một hiện tượng đời sống. Bởi như trên đã nói, xét về mặt nội dung, dạng bài này
có thể thuộc kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí hay nghị luận về một vấn
đề đời sống. Tuy nhiên nó cũng có những đặc trưng và yêu cầu riêng biệt về
cách làm. Kiểu bài này mang một phần nhỏ dáng dấp của kiểu bài nghị luận
văn học nên ngoài việc HS nắm vững các kiến thức xã hội, làm nổi bật ý kiến
của riêng mình đối với vấn đề đặt ra, đưa ra được ý kiến chủ quan nhìn nhận
vấn đề rõ ràng ở khía cạnh tích cực hay tiêu cực....HS còn phải có kĩ năng đọc hiểu văn bản, nhạy bén phát hiện những vấn đề được đặt ra trong văn bản ấy.
Mặc dù có những khác biết như vậy so với hai kiểu bài nghị luận về một tư
tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống nhưng khi rèn HS những
kĩ năng làm bài văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học,
chúng tôi vẫn tiến hành rèn đầy đủ những kĩ năng làm văn nghị luận nói chung
7
như phân tích đề; tìm ý; lập dàn ý; thiết lập, liên kết đoạn văn; kiểm tra, sửa
lỗi... trong đó tập trung vào những kĩ năng cơ bản sau:
2.1: Xác định vấn đề nghị luận:
Với bất cứ bài văn nghị luận nào bước xác định vấn đề nghị luận bao giờ
cũng giữ vai trò rất quan trọng, có tính chất quyết định đến thành công của bài
viết. Nếu HS xác định nhầm lẫn vấn đề thì sẽ như một cỗ xe đi nhầm đường
không thể quay đầu lại, và cái đích đến của bài văn sẽ bằng không. Còn nếu xác
định đúng yêu cầu của đề bài và nội dung cần bàn luận, khi đó HS sẽ xác định
được cách thức thực hiện và đáp ứng được yêu cầu của đề văn đó.
Việc chúng tôi đặc biệt chú trọng vào việc xác định vấn đề nghị luận là
vì: Thứ nhất, các bước tìm hiểu đề như xác định dạng đề, thao tác lập luận,
phạm vi dẫn chứng...HS đã được luyện tập khá nhiều ở hai kiểu bài nghị luận xã
hội trước đó. Thứ hai là với dạng đề mà vấn đề nghị luận đặt ra trong tác phẩm
văn học trong chương trình, HS rất dễ dàng xác định được vấn đề nghị luận, thì
với một mẩu chuyện nhỏ - có sự cô nén, hàm súc về mặt ý nghĩa, việc HS xác
định được vấn đề nghị luận không phải là dễ dàng, thậm chí, nếu HS không suy
nghĩ thấu đáo, rất có thể bài viết sẽ không đúng trọng tâm. Thứ ba là, có thể do
tầm nhận thức của HS ở trường phổ thông chưa chín, nhất là các vấn đề xã hội
nên những vấn đề nghị luận ở dạng tiềm ẩn HS khó có thể nhận diện hết nội
dung đặt ra trong câu chuyện vốn rất mới lạ.
Quay lại với hệ thống đề bài ở trên có thể thấy những đề bài mà vấn đề xã
hội được đặt ra trong các tác phẩm được học trong chương trình Ngữ văn (Đề
1,2), thường là vấn đề nghị luận đã nổi rõ trên đề bài. Như ở đề 1 vấn đề được
bàn luận là "mối quan hệ giữa danh và thực trong cuộc sống" sẽ là nội dung
chính được bàn luận và cũng tương tự ở đề 2, HS không khó để nhận diện.
Nhưng với những đề còn lại (Đề 3,4) HS chỉ có thể nhận diện được nội dung
cần bàn luận khi hiểu nội dung thông điệp mà câu chuyện đặt ra. Đây là dạng đề
có nội dung tiềm ẩn đòi hỏi HS phải có những am hiểu nhất định mới có thể
nhận diện được.
8
Để HS xác định được đúng vấn đề nghị luận HS phải nắm vững những kĩ
năng đọc - hiểu văn bản kết hợp với sự tinh tế trong cảm thụ. Trước hết, chúng
tôi yêu cầu HS đọc kĩ câu chuyện ở đề bài yêu cầu để biết được cách hành văn,
sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ ... của văn bản. Từ đó mà
đọc hiểu thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc. Như ở đề bài số 3, HS
cần phải làm rõ ý nghĩa hình ảnh: hòn đá, túi tiền; cách ứng xử khác nhau của
những thương nhân giàu có, những cận thần của nhà vua và người nông dân...
từ đó rút ra vấn đề cần nghị luận: Trước thử thách con người không nên than
thở hay tránh né mà phải đối mặt giải quyết, và đằng sau những gian khổ luôn
tiềm ẩn những cơ hội.
Tương tự như vậy, ở đề bài số 4 - câu chuyện về cái vòng tròn, HS cần
phải tập trung vào các hình ảnh: Vòng tròn, khi vòng tròn bị mất đi một góc lớn
hình tam giác; cảm nhận của vòng tròn khi khuyết đi mảnh lớn hình tam giác và
quyết định của vòng tròn khi từ chối mảnh ghép vừa khít với nó....qua những
hình ảnh, những từ ngữ đó HS có thể rút ra được vấn đề nghị luận: Trong cuộc
sống, con người khó có thể tránh khỏi những khiếm khuyết, ta phải biết cách
chấp nhận để tìm thấy niềm vui và ý nghĩa cuộc sống ngay trong chính những
khiếm khuyết đó.
Khi HS đã xác định được vấn đề cần nghị luận thì phần bàn bạc vấn đề sẽ
trở nên dễ dàng hơn bởi những vấn đề nghị luận được rút ra HS đã được luyện
tập ở kiểu bài nghị luận xã hội trước đó.
Như vậy có thể thấy việc tìm hiểu đề, trong đó xác định được vấn đề nghị
luận là vô cùng quan trọng. Khi đã thành thục những kĩ năng này, HS sẽ làm
bài văn đúng hướng và hiệu quả.
2.2. Lập dàn ý.
Trong cuốn Để làm tốt bài văn nghị luận xã hội do Nguyễn Xuân lạc chủ
biên có đề cập đến vấn đề lập dàn ý. Theo đó thì "Thực chất của bước này là tổ
chức, sắp xếp ý trong một bố cục khoa học, hợp lí". Như vậy, lập dàn ý là thiết
lập khung xương để làm cơ sở tạo nên một cơ thể hoàn chỉnh là bài văn
9
Để lập được dàn ý bài văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học, trước hết HS cần phải xác định vấn đề nghị luận thuộc dạng nào
trong hai dạng nghị luận xã hội đã học: nghị luận về một tư tưởng đạo lí hay
nghị luận về một hiện tượng đời sống. Sự phân loại này rất quan trọng bởi đó sẽ
là tiền đề để HS triển khai ý. Đồng thời HS cũng tất yếu đã phải trải qua bước
xác lập hệ thống luận điểm. Thao tác này thực chất HS đã được rèn luyện kĩ
càng trước đó vì vậy, chúng tôi không nhắc lại ở đây. Cụ thể, chúng tôi hướng
dẫn HS lập dàn bài theo hướng sau:
a. Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề.
- Nêu vấn đề cần nghị luận.
b. Thân bài.
* Bước 1:
+ Nêu xuất xứ xuất hiện vấn đề có ý nghĩa xã hội bằng cách phân tích văn bản
(hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện) để rút ra ý nghĩa của văn bản. Từ đó
khái quát vấn đề xã hội cần nghị luận
(GV chú ý rèn HS phân biệt thao tác phân tích văn bản trong kiểu bài nghị luận
về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học với thao tác phân tích trong
kiểu bài nghị luận văn học. Theo đó, ở dạng bài này, HS không được sa đà vào
khai thác giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm mà tập trung vào
những từ ngữ, những hình ảnh... then chốt mang nội dung thông tin chính từ đó
mà khái quát ý nghĩa xã hội của tác phẩm )
* Bước 2: Thực hiện các thao tác nghị luận (tùy thuộc vào vấn đề nghị luận là
một tư tưởng, đạo lí hay một hiện tượng đời sống HS áp dụng phương pháp làm
bài đã được học).
- Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
+ Giải thích (nếu có)
+ Xác định hiện tượng đó là tích cực hay tiêu cực. Nêu thực trạng hiện tượng
bằng những sự việc, những số liệu cụ thể...
10
+ Phân tích các mặt đúng - sai, lợi - hại của hiện tượng.
+ Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất hướng giải quyết
+ Phê phán/ ca ngợi những biểu hiện ngược lại của hiện tượng được bàn luận
+ Rút ra bài học
- Dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí
+ Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
vấn đề bàn luận (kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và dẫn chứng)
+ Nêu ý nghĩa tầm quan trọng của vấn đề nghị luận đối với tâm hồn, nhân cách
con người
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động
c. Kết bài:
Đánh giá ý nghĩa của vấn đề xã hội trong tác phẩm.
VD1: Với đề 2 ở phần trên đã nêu, vấn đề nghị luận đã rõ ngay trong đề
bài đó là vấn nạn bạo lực trong gia đình - một hiện tượng xã hội khá phổ biến
trong xã hội hiện nay. Với dạng đề này HS khá dễ dàng thực hiện bước 1 là bởi
đây là đoạn trích trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã được học trong
chương trình. Từ việc xác định được vấn đề nghị luận, chúng tôi hướng dẫn HS
lập dàn ý. Dàn ý cho đề bài này cần đảm bảo những nội dung sau:
a. Mở bài
- Giới thiệu về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa: Một trong những tác phẩm
xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu; đem lại nhiều ấn tượng cho người đọc về
những vấn đề bức xúc của xã hội...
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Trong đó, một vấn nạn đang được xã hội quan
tâm đó là vấn nạn bạo lực gia đình.
b. Thân bài
* Bước 1
- Sau khi chụp được bức ảnh bình minh trên biển "đắt trời cho", nhiếp ảnh gia
Phùng tưởng có thể yên tâm quay trở về, hoàn tất bộ lịch nhưng anh đã bắt gặp
một cảnh tượng mà anh chẳng bao giờ ngờ tới: Bước ra từ con thuyền ngư phủ
11
đẹp như mơ là vợ chồng thuyền chài xấu xí. Người đàn ông hùng hổ trút cơn
giận như lửa cháy vào lưng vợ bằng cách dùng "chiếc thắt lưng của lính ngụy
ngày xưa quật tới tập vào lưng người đàn bà". Hành động ấy không chỉ diễn ra
một lần mà " ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng", " bất cứ lúc nào
khổ quá là lão xách tôi ra đánh".
- Sự xuất hiện của con trai họ - thằng Phác, với hành động đầy bản năng, bột
phát: giằng lấy cái thắt lưng đánh lại bố, bảo vệ mẹ....
=> Người đàn ông đánh vợ để giải thoát những uất ức, khổ đau, gánh nặng mưu
sinh và hành động trái với luân thường đạo lí của con trai họ đã đặt ra một hiện
tượng xã hội đó là nạn bạo lực gia đình
* Bước 2
- Giải thích: Bạo lực gia đình là hành động trấn áp người khác bằng vũ lực, là sự
khống chế, đàn áp về cả tinh thần và thể xác để xúc phạm tinh thần nhau của
những thành viên trong gia đình
- Thực trạng hiện tượng:
+ Bạo lực gia đình là vấn nạn ở nhiều quốc gia nhất là những nước kém phát
triển và đang phát triển (Ở Ấn Ðộ, mỗi năm có khoảng hơn 5.000 phụ nữ bị
cướp đi mạng sống của mình do bạo lực gia đình; ở Băng-la-đét, theo thống kê
tội giết vợ chiếm 50% trong số vụ giết người. Ở nước ta, trung bình một năm
trên cả nước có tới 8.000 vụ ly hôn mà nguyên nhân do bạo lực gia đình, trên cả
nước cứ khoảng 2-3 ngày lại có một người bị giết có liên quan đến bạo lực gia
đình....)
+ Theo số liệu điều tra dân số tỉ lệ bạo hành xảy ra ở cả thành thị lẫn nông
thông, trong đó bạo hành gia đình xảy ra ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn và
miền núi
+ Bạo hành xảy ra dưới hai hình thức cơ bản: Bạo hành thể xác và bạo hành tinh
thần (đánh đập, lăng mạ...)
- Hậu quả của bạo hành gia đình
12
+ Bạo hành gia đình xảy ra để lại hậu quả đáng thương: tan vỡ gia đình; rối loạn
trật tự, an toàn xã hội...
+ Đặc biệt, bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ .Lớn
lên trong gia đình thường xuyên có bạo lực, các em mất niềm tin vào các thành
viên gia đình, từ đó chán học, sa ngã vào các tệ nạn xã hội hoặc có hành vi
phạm pháp....
- Nguyên nhân:
+ Do nghèo đói, khổ cực.
+ Do tư tưởng bất bình đẳng giới, lối xử sự gia trưởng từng tồn tại dai dẳng
trong xã hội.
+ Do một số nạn nhân của bạo lực gia đình có tâm lý cam chịu, không muốn tố
cáo, sợ "vạch áo cho người xem lưng".
+ Nhiều vụ bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng nhưng hình phạt dường
như còn quá nhẹ. Vì vậy tính phòng ngừa răn đe hạn chế.
- Giải pháp:
+ Cần chú trọng trước hết là công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình và làm
tốt công tác tư vấn hòa giải và đi đôi với phòng, chống tệ nạn xã hội.
Làm tốt công tác tuyên truyền sẽ giúp thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng
xử về gia đình (chiến dịch truyền thông phòng, chống bạo lực gia đình đã được
phát động với khẩu hiệu: “Mình là đàn ông, mình chống bạo lực gia đình”
hướng tới số đông nam giới).
+ Cần có sự kết hợp của các cơ quan đoàn thể, các tổ chức trong xã hội... để đưa
ra những chính sách bảo vệ cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người dân
+ Phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ có hành vi bạo lực gia đình.
- Rút ra bài học cho bản thân
+ Cần thẳng thắn lên án hành động bạo lực gia đình như nhân vật Phùng, Đẩu
trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
+ Hãy sống chan hòa, đầm ấm để không có bạo hành gia đình.
13
c. Kết bài:
Đánh giá ý nghĩa của vấn đề xã hội trong tác phẩm.
VD2: Với đề bài số 3, HS có thể lập dàn ý với những bước cơ bản sau.
a. Mở bài.
Giới thiệu câu chuyện
b. Thân bài
* Bước1: Phân tích ngắn gọn nội dung câu chuyện kết hợp giải thích ý nghĩa
một số hình ảnh...từ ngữ từ đó rút ra vấn đề nghị luận.
+ Tảng đá lớn: vật cản trên con đường lại qua có ý nghĩa biểu tượng cho những
khó khăn, trở ngại ngăn bước ta trên đường đời
+ Cách ứng xử của những người đi qua
. Những thương nhân, cận thần của nhà vua "không ai có ý định xê dịch" tảng
đá, họ chỉ lẩm bẩm đổ lỗi cho nhà vua. Khi gặp khó khăn, trở ngại thay vì
nghĩ cách giải quyết họ chỉ kêu ca, phàn nàn, đổ lỗi cho người khác
. Bác nông dân với xe rau cồng kềnh có cách ứng xử ngược lại: hết sức "đẩy
tảng đá sang bên kia vệ đường":
+ " Bao tiền to đùng": Phần thưởng xứng đáng cho những con người dám đối
diện với thử thách.
=> Luôn có một cơ hội mở ra sau những khó khăn. Vậy nên, hãy dám đương
đầu với thử thách, biến những trở ngại thành cơ hội để đạt được thành công.
* Bước 2: Bình luận vấn đề
- Khó khăn, trở ngại là điều không ai muốn nhưng ai cũng gặp ít nhất một lần
trong đời. Tuy nhiên thay vì lảng tránh, than vãn hay đổ lỗi cho người khác, hãy
chấp nhận thử thách, xắn tay giải quyết nó, khi đó, rất có thể, khó khăn mang lại
những giá trị bất ngờ.
+ Mang lại những kinh nghiệm, những bài học quý báu (dẫn chứng minh họa)
+ Thử thách năng lực, ý chí... của con người (chỉ trong khó khăn con người mới
phát huy được những khả năng tiềm tàng mà trong điều kiện bình thường không
được bộc lộ) dẫn chứng minh họa
14
Đối diện với thử thách con người có thể trưởng thành hơn Chẳng khác gì
"túi tiền của nhà vua"
- Mở rộng
+ Phê phán những con người mới gặp khó đã nản lòng, mới vấp ngã đã bỏ cuộc
+ Vựơt qua khó khăn không chỉ cần ý chí, nỗ lực của bản thân mà đôi khi còn
cần sự vô tư không toan tính, vụ lợi. Giống như bác nông dân kia, không chỉ
nghĩ đến chuyện cần đưa xe rau qua mà còn vì " nếu có ai đó không thấy mày
và vấp phải, chắc là sẽ đau lắm đây"
- Rút ra bài học
+ Không vì hoàn cảnh sống thuận lợi mà có tâm lí an phận, không có chí tiến
thủ, tinh thần cố gắng vươn lên...
+ Đối diện với khó khăn cần tỉnh táo, khôn khéo giống như "dòng sông thấy
núi thì đi đường vòng"
c. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm.
Nói tóm lại, rèn kĩ năng lập dàn ý trong bài văn nghị luận về một vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học có ý nghĩa quan trọng. Nắm chắc bước lập
dàn ý, HS có khả năng triển khai bài viết đúng hướng, không gặp lúng túng
trước những dạng đề bài của kiểu bài này.
Trên đây là hai kĩ năng cơ bản mà chúng tôi tập trung rèn luyện cho HS.
Hai kĩ năng này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi được kết hợp với các kĩ năng
cơ bản trong làm văn nghị luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng mà HS
đã được học trước đó. Đồng thời, GV cũng thường xuyên cho HS tiếp xúc với
nhiều dạng đề khác nhau để HS có cơ hội tư duy, suy nghĩ; kết hợp với việc
chấm, chữa bài tỉ mỉ, cho HS tham khảo các bài viết của nhau hay của các bài
viết xuất sắc để tự rút kinh nghiệm....
3. Bài viết minh họa
Đề bài: Suy nghĩ của anh/ chị về câu chuyện sau:
15
"Chuyện kể rằng ngày xửa ngày xưa,có một vòng tròn. Vòng tròn ta rất
tự hào về thân hình của mình, tròn một cách hoàn hảo đến từng milimét. Thế
nhưng, một sáng nọ thức dậy, nó bỗng thấy mình mất một góc lớn hình tam
giác. Buồn bực, vòng tròn tìm mảnh vỡ hình tam giác bị mất. Vì không còn
hoàn hảo nên nó lăn rất chậm chạp. Nó bắt đầu ngợi khen những bông hoa dại
đang tỏa sắc bên đường. Nó tâm tình cùng sâu bọ. Nó tận hưởng ánh sáng mặt
trời ấm áp. Vòng tròn tìm được nhiều mảnh vỡ nhưng chẳng mảnh nào vừa cả.
Nó lại tiếp tục tìm kiếm. Một ngày kia nó tìm được một mảnh hoàn toàn vừa
khít. Nó sướng đến run người. Giờ đây nó lại hoàn hảo như xưa. Nó ghép mảnh
vỡ kia vào rồi lăn đi. Nhưng, ơ kìa! Sao nó lăn nhanh đến thế! đến nỗi các
bông hoa nhòe đi trong mắt nó, tiếng chuyện trò thì bạt đi trong gió. Vòng tròn
nhận ra thế giới xung quanh nó trở nên khác hẳn khi nó lăn quá nhanh. Nó bèn
dừng lại, đặt mảnh vỡ bên đường rồi chầm chậm lăn đi!"
(Nguồn: http://htlove.org/Quà tặng cuộc sống)
Bài làm
Cuốn sổ nhỏ ẩm mốc hơi thở thời gian, lật trang đầu tiên, một dòng chữ
ngay ngắn ghi lại câu nói nổi tiếng: "Con người thường mơ ước những điều lớn
lao nhưng không biết rằng cuộc sống được tạo nên từ những điều rất nhỏ". Mải
mê tìm cho mình một vòng nguyệt quế, săn tìm những viên kim cương để tô
điểm cho cuộc sống, đến một lúc nào đó ta bỗng giật mình nhận ra mình đã bỏ
rơi và lãng quên những vẻ đẹp giản dị, đời thường: một bông hoa, một nhành lá,
tiếng chim hót. Câu chuyện về một vòng tròn đã giác ngộ ta không chỉ một chân
lí ở đời: về những khiếm khuyết và cách ta chấp nhận nó, thái độ sống nhanh
hay chậm, trân trọng hay hời hợt, mông muội hay tỉnh thức.
Vòng tròn - hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng là hiện thân cho những giá
trị mà con người khao khát tìm kiếm: giá trị của sự hoàn hảo, đầy đặn đến "từng
milimét". Vòng tròn đáng ngưỡng mộ thực sự tồn tại hay chỉ là câu chuyện
huyễn hoặc "ngày xửa ngày xưa". Sống ở đời, ai cũng muốn vươn tới hai chữ
"hoàn hảo". Quan điểm về cái đẹp của người xưa là sự đối xứng, cân bằng.
16
Nhưng chính con người, từ khi được Chúa trời tạo ra đã như một quả táo cắn
dở, hương vị càng thơm ngon càng bị cắn một miếng lớn. Đó là lí do tại sao
Bét-tô-ven lại bị điếc, Paganini lại mang nhiều bệnh tật, Van-gốc mắc phải
chứng thần kinh phân liệt và vô số những con người tài hoa bạc phận
khác..."Vòng tròn" của họ không bao giờ hoàn thiện, đều mất đi một góc nào
đó.
Sớm hay muộn chúng ta cũng phải đối diện với thực tế "thấy mình mất đi
một góc lớn hình tam giác" – tức là vòng tròn ấy đã không còn nguyên vẹn nữa.
Nó bắt đầu đi tìm " mảnh vỡ tam giác" bị mất. Khi bất hoàn hảo, người ta đồng
thời gặp phải trở ngại, "lăn rất chậm chạp". Nhưng nhiều khi trong trở ngại, khó
khăn, ta lại nhận ra nhiều điều. Ta không còn mất thời gian đi tìm kiếm "mảnh
vỡ". Thay vì chỉ nghĩ đến bản thân, ta bắt đầu hướng mình ra bên ngoài, để ý,
quan tâm đến những điều nhỏ nhặt, bình thường nhưng lại làm nên niềm vui
trong cuộc sống. Ta "khen ngợi những bông hoa dại đang tỏa sắc bên đường",
"tâm tình cùng sâu bọ", "tận hưởng ánh mặt trời ấm áp". Ta biết cho đi nhiều
hơn và tất nhiên sẽ được nhận lại, biết trân trọng, sẻ chia, tận hưởng và tận hiến.
Mải mê đi tìm "mảnh vỡ" để bù đắp những thiếu sót, vô hình chung ta đã tự tạo
ra khiếm khuyết lớn nhất: thái độ sống vội vàng đến vô tâm, hời hợt. Sống
nhanh "đến nỗi những bông hoa nhòe đi...tiếng nói chuyện thì bạt đi trong gió".
Vòng tròn nhận ra thế giới xung quanh trở nên khác hẳn khi nó lăn quá nhanh.
Và vòng tròn đã có một quyết định đúng đắn "đặt mảnh vỡ bên đường rồi chầm
chậm lăn đi". Con người - thay vì bị cuốn vào cuộc kiếm tìm sự hoàn hảo không
hề có, thay vì chỉ biết vun vén cho bản thân, hãy sống chậm lại, nghĩ khác đi,
yêu thương nhiều hơn, sống trọn vẹn, cởi mở... Chỉ có như vậy, vòng tròn lớn
mới được hình thành, là vòng tròn đầy ắp niềm vui, vẻ đẹp của tình đời, tình
người.
Nếu có ai nói với bạn rằng: "Tôi hoàn hảo" thì một là anh ta đang đùa,
hai là ngộ nhận về bản thân, ba là anh ta không có thật. Xô-crat, một triết gia cổ
đại Hi Lạp được hậu thế coi là tượng đài chân lí đã dõng dạc tuyên bố: "Tôi chỉ
17
biết có một điều là tôi không biết gì cả". Vậy lí do gì ta lại cho rằng mình hoàn
hảo, là tuyệt đối? Khoa học đã chứng minh mọi thứ trên đời đều chỉ mang tính
tương đối. Và theo tôi, con người là bằng chứng rõ nhất cho điều đó. Trên thế
giới, không ít người đã từng được vinh danh là thiên tài, là vĩ nhân, nhưng kì
thực họ có phải là những “vòng tròn hoàn hảo”? Đó có phải là Sechxpia –
“người khổng lồ” của thời đại Phục Hưng, người đã viết nên những vở kịch bất
hủ không phải để giành cho giới thượng lưu mà cho tầng lớp bình dân thưởng
thức, đã không thể giữ mình trước cám dỗ công danh mà xin ban tước hiệu quý
tộc? Là Na-pô-lê-ông, một thiên tài quân sự đã lãnh đủ thất bại vì sự nóng giận,
tự phụ, kiêu căng của mình? Là V.Huygô – cây đại thụ của Văn học Pháp thế kỉ
XIX không khao khát gì hơn là thủ đô Pari đổi thành tên mình để được lưu danh
muôn đời? Là Puskin - mặt trời của thi ca Nga, người đã cướp mất trái tim của
những ai trẻ tuổi và trẻ lòng nhưng chính con người ấy cũng nhận ra mình nông
nổi, hiếu thắng và mất cân bằng, đã dại dột đến mức mù quáng với tình yêu mà
tham gia đấu súng, để cuối cùng phải chết vì một viên đạn của tình địch?...Ai
trong số họ là vòng tròn hoàn hảo? Không ai cả. Bởi họ cũng chỉ là con người –
không thể không mắc lỗi, không thể không mắc những sai lầm chết người.
Không dừng lại ở đó, câu chuyện còn giúp ta nhận ra phương cách và
mục đích sống ở đời. Ngộ nhận về sự hoàn hảo và như con thiêu thân lao mình
vào cuộc tìm kiếm "mảnh vỡ hình tam giác" tức là ta đã để lỡ mất cơ hội được
sống hoàn hảo hơn - theo một nghĩa khác. Thay vì vị kỉ, chỉ biết đến bản thân,
tìm kiếm những giá trị ảo hãy biết cách "lăn chậm lại", đủ chậm để nhận ra
những vẻ đẹp giản dị mà đích thực của cuộc sống. Thay vì lao mình đi tìm
những "mảnh vỡ", vun vén cho lâu đài ước vọng lớn lao, hãy giành một phần
cuộc sống cho bạn bè, người thân, thiết tha với vẻ đẹp thô mộc của những nếp
rạ, của khói lam chiều. "Những bông hoa dại" tưởng không có gì là đẹp, "lũ sâu
bọ" tưởng như xấu xa hay "ánh mặt trời" ngày nào cũng có, một lúc nào đó, khi
đã sống chậm lại, dứt mình khỏi những guồng quay vòng tròn chóng mặt, ta sẽ
nhìn thấy sắc màu của cuộc sống nằm ở đó. Đừng vì năm nhuận tháng thiếu mà
18
cho phép mình sống nhanh đoạt vội, đừng vì mải miết tìm mảnh ghép để khiến
mình hoàn hảo hơn mà vô tình tạo nên "mảnh vỡ" lớn hơn, thiếu sót lớn hơn
trong tâm hồn. Tôi đã rất ấn tượng với cái tên của cuốn sách "Quẳng gánh lo đi
mà vui sống" – gánh lo nặng trĩu hai vai bởi những toan tính về sự thiếu hụt,
thiệt thòi, về những thiếu thốn trong cuộc sống thường nhật mà ta quẩy trên vai
ngày một nhiều thêm. Học cách trút hết những lo lắng về mảnh vỡ không hoàn
hảo của mình ra khỏi cuộc sống và thay vào đó là thả hồn thưởng thức những
hoa thơm trái ngọt, sẻ chia "tâm tình" với những người xung quanh... Có sống
chậm mới đủ thời gian để suy ngẫm về những giá trị đích thực ở đời, để nhận ra
mục đích cuối cùng không phải là "mảnh vỡ vừa khít" mà là những gì ta cho đi
nhận lại. Có như vậy mới đưa ra được quyết định đúng đắn giống như vòng tròn
kia "dừng lại đặt mảnh vỡ bên đường và chầm chậm lăn đi".
Có ai đó đã nói "Muốn thay đổi thế giới trước tiên anh phải thay đổi
chính mình". Thái độ sống gần như quyết định tất cả, chấp nhận quy luật bất
toàn của cuộc đời người ta sẽ nhận ra những thay đổi tích cực nhờ sống chậm
lại. Giống như vòng tròn kia, ta sẽ thấy ảnh vỡ kia không còn quan trọng nữa,
thay vào đó, ta biết lặng mình để nghe tiếng lá rơi, ngắm cảnh mặt trời mọc, xúc
động khi nghe bản tin về một cơn bão vừa tràn qua nước bạn....đó là lúc ta thực
sự tìm thấy mảnh vỡ của tâm hồn, ghép vào phần khuyết thiếu của trái tim đang
tỉnh thức.
Tuy nhiên không kiếm tìm sự hoàn hảo không có nghĩa là không cần sự
hoàn hảo mà bỏ mặc "vòng tròn" ngày càng vỡ ra nhiều mảnh, ngày càng sứt
mẻ tới mức nham nhở, dị dạng. Những kẻ lười biếng không chịu cố gắng, khắc
phục những nhược điểm có thể cải tạo...đó chỉ là những kẻ sống cuộc đời nhạt
nhẽo, vô vị thậm chí vô nghĩa. Tìm kiếm sự hoàn hảo đến từng milimét là điều
không thể nhưng nỗ lực để thu nhỏ độ lớn của những mảnh vỡ lại là điều hoàn
toàn có thể.
Những kẻ chỉ lo vun vén cho bản thân, sống nhanh đoạt vội đến mức
quên đi vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh, ta cho cũng là kẻ dại dột, hời hợt.
19
Ngược lại, sống chậm với tốc độ rùa bò cũng là điều tai hại không kém. Chậm
chạp đến nỗi bị thời đại bỏ xa, thành lạc hậu để đến khi bò đến đích những
thành quả đạt được trong cuộc đời trôi tuột trong miềm kí ức ít ỏi. Mùa hoa sưa
tàn nhanh cũng để nhắc con người hãy biết sống trọn vẹn từng khoảnh khắc,
nâng niu từng phút giây, nhưng cũng đồng thời như một lời thúc giục: nếu anh
cứ chậm chạp thì khi hoa sưa rụng, anh chưa chắc đã sống được nhiều, nhận
được nhiều, cho được nhiều – như một mùa hoa.
Gấp lại cuốn sách đã sờn mép, tôi đã không ngừng suy nghĩ về chân lí
của cuộc sống: Có những thứ tưởng như phải một hai ghép lại cho tròn lại hóa
thừa. Ta hoàn hảo ngay trong những thiếu sót. Đó phải chăng là lời nhắn nhủ
gửi đến từ câu chuyện " Quà tặng cuộc sống"
( Bài viết của em Đoàn Thị Hồng Ly – Lớp Văn 2012 - 2015)
4. Hệ thống đề luyện tập
Đề 1. Từ hành trình đuổi bắt con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô trong tác
phẩm Ông già và biển cả, anh/ chị hãy bàn về vai trò của ý chí, nghị lực và
niềm tin của con người trong cuộc sống?
Đề 2: Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
"...Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.."
Từ ý thơ trên, anh/ chị hãy trình bày những hiểu biết của mình về lẽ sống
của thanh niên ngày nay
Đề 3: Từ bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, anh/ chị hãy bàn luận về lối sống
nhanh, sống gấp của một bộ phận không nhỏ thanh niên trong xã hội hiện nay.
Đề 4: Suy nghĩ của anh/ chị về câu chuyện viên sỏi kể về nguồn gốc của mình:
“Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ trên núi cao, trải qua bao năm tháng dài
đằng đẵng bị mặt trời nung đốt, người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra và lăn xuống
núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi vào sông suối.
20
- Xem thêm -