Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn các biện pháp sư phạm nhằm phát triển tư duy học sinh trong dạy học bài “ph...

Tài liệu Skkn các biện pháp sư phạm nhằm phát triển tư duy học sinh trong dạy học bài “phong trào dân chủ 1936 139” (lịch sử 12 – chương trình chuẩn)

.PDF
35
1487
147

Mô tả:

MỤC LỤC NỘI DUNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài 3. Đóng góp của đề tài NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN TƯ DUY HỌC SINH TRONG DẠY HỌC BÀI: “PHONG TRÀO DÂN CHỦ 19361939” (Lịch sử 12 – Chương trình Chuẩn) I. MỤC TIÊU BÀI HỌC II. THIẾT BỊ VÀ TÀI LIỆU DẠY HỌC. III. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN TƯ DUY HỌC SINH 1. Trình bày miệng sinh động, gây hứng thú học tập qua đó phát triển tính tích cực của tư duy học sinh. 2. Khai thác triệt để việc sử dụng đồ dùng trực quan để phát triển tư duy học sinh. 3. Sử dụng hệ thống câu hỏi và bài tập nhận thức để phát triển tư duy học sinh. 4. Khai thác, sử dụng các loại tài liệu tham khảo để phát triển tư duy học sinh. 5. Tổ chức trao đổi, thảo luận để phát triển tính tích cực của tư duy học sinh. 6. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO TRANG 1 2 2 4 4 6 6 7 7 7 13 17 24 28 30 32 33 34 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học là để nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần hình thành và phát triển toàn diện về: đức, trí, văn, thể, mỹ cho học sinh. Hiện nay nền giáo dục-đào tạo nước nhà đang có những bước chuyển mình rõ rệt sau ba năm thực hiện cuộc vận động hai không với bốn nội dung. Chúng ta đang cố gắng để xây dựng cho từng môi trường sư phạm thật trong lành, thân thiện và mỗi nhà giáo của chúng ta cũng đang phấn đấu để trở thành tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo. Trên con đường phát triển của đất nước, sự đổi mới của nền giáo dục-đào tạo để đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa chắc chắn không thể thiếu sự đổi mới và sáng tạo các phương pháp và phương tiện trong quá trình dạy học của mỗi thầy, cô giáo chúng ta. Vì đó chính là trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp. Phát biểu về điều này Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ giáo dục-đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã nói: “đã đến lúc chúng ta không thể để giáo viên đơn độc và tự bơi trong quá trình đổi mới. Phải cụ thể hoá khái niệm “dạy tốt” và xem lại việc công nhận giáo viên dạy giỏi như hiện nay. Không thể đạt danh hiệu “giáo viên dạy giỏi” chỉ qua giờ lên lớp của một cuộc thi nào đó. Giáo viên giỏi trong cách nhìn nhận mới chắc chắn phải là tấm gương về đổi mới phương pháp dạy học.” Bên cạnh đó, Nghị quyết Hội nghị TW Đảng lần thứ hai, khóa VIII đã khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học 2 sinh”. Xuất phát từ nội dung trên, việc dạy học lịch sử trong thời gian vừa qua đã có nhiều thay đổi quan trọng về nội dung, phương pháp dạy học; song hiệu quả chưa cao, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đào tạo thế hệ trẻ trong tình hình mới. Nguyên nhân của thực trạng trên là tổng hợp của nhiều yếu tố, đó là chúng ta chưa đặt đúng vị trí, chức năng của môn Lịch sử trong hệ thống các môn học ở phổ thông, khiến học sinh có xu hướng coi nhẹ môn Lịch sử. Điều này thể hiện rõ ràng nhất khi biết năm học nào không thi môn sử thì nhiều trường cho học nhanh môn sử để dành thời gian cho các môn học khác; Đó là do trong một bộ phận cán bộ quản lý và giáo viên vẫn còn quan niệm môn Lịch sử là môn học phụ; Đó là do nội dung sách giáo khoa còn nặng nề và quá khô khan, thiên về quan điểm áp đặt đối với học sinh hơn là tính trung thực, khách quan của lịch sử và cuối cùng với lối dạy "như sách" thiếu sinh động của một số thầy cô giáo với lối truyền thụ một chiều, nặng về đọc – chép, khiến đa số học sinh chán học môn sử…Vì vậy việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học Lịch sử là một việc làm thường xuyên, liên tục, bao gồm nhiều khâu, nhiều việc, có liên quan đến nhiều người. Trước hết đòi hỏi sự nổ lực để tìm phương thức giải quyết hợp lý, có hiệu quả của bản thân giáo viên trên nhiều mặt: cải tiến một bước về sử dụng ngôn ngữ nói, cách trình bày bảng, sử dụng đồ dùng dạy học, kiểm tra – đánh giá… Đổi mới phương pháp dạy học là thể hiện sự sáng tạo của mỗi giáo viên, do đó đổi mới phương pháp dạy học là một hoạt động mang tính liên tục và sẽ không bao giờ có điểm cuối. Trong quá trình sáng tạo đó giáo viên cần phải có sự quan tâm và hỗ trợ đắc lực của các cấp quản lý giáo dục. Để nâng cao chất lượng dạy – học bộ môn Lịch sử ở trường trung học trong thời gian đến, các nhà quản lý giáo dục, giáo viên cần nhận thức đúng hơn về vai trò của bộ môn Lịch sử trong trường phổ thông. 3 Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài: “Các biện pháp sư phạm nhằm phát triển tư duy học sinh trong dạy học bài: “Phong trào dân chủ 1936-139” (Lịch sử 12 – Chương trình Chuẩn)” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân trong năm học 2013-2014. Trong quá trình thực hiện khó tránh khỏi những hạn chế, kính mong nhận được sự góp ý của quý đồng nghiệp để bài viết ngày càng hoàn thiện hơn. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài 2.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự kết hợp giữa các biện pháp giáo dục trong giảng dạy trong một bài lịch sử cụ thể với bài “ PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936-1939”. 2.2 Phạm vi nghiên cứu Các phương pháp dạy học và những vấn đề lịch sử liên quan đến phong trào dân chủ giai đoạn 1936-1939, lịch sử 12-chương trình chuẩn. 2.3 Nhiệm vụ của đề tài Sử dụng các biện pháp sư phạm trong bài phong trào dân chủ 19361939 nhằm giúp giáo viên đạt hiêụ quả cao hơn trong việc tích hợp các phương pháp dạy học để bài dạy sinh động, hấp dẫn hơn. Qua đó, khơi dậy trong học sinh niềm hứng thú, say mê đối với bộ môn lịch sử. 3. Đóng góp của đề tài Qua việc nghiên cứu các phương pháp dạy học và áp dụng vào một bài dạy cụ thể sẽ giúp cho bản thân cũng như quý đồng nghiệp thành công hơn trong việc giảng dạy bài này. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ giúp cho bản thân cũng như đội ngũ giáo viên sẽ có nhiều sáng tạo hơn trong việc soạn giảng. 4 Ngoài ra, nhằm giáo dục lòng yêu quê hương, đề tài đã sử dụng một số tài liệu lịch sử địa phương diễn ra trên địa bàn hai huyện Đức Cơ và Chưprông đó là những sự kiện về phong trào đấu tranh của đội ngũ công nhân ở đồn điền chè Bàu Kạn trong giai đoạn này. Qua đó, sẽ cho học sinh thấy được mối liên hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử cả nước. Từ đó, các em sẽ thấy được trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng đất nước, giữ gìn và phát triển những thành quả mà cha ông đã tạo dựng. 4. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài được kết cấu thành 4 phần: I. MỤC TIÊU BÀI HỌC II. THIẾT BỊ VÀ TÀI LIỆU DẠY HỌC III. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN TƯ DUY HỌC SINH IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 5 Phần nội dung CÁC BIỆN PHÁP SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN TƯ DUY HỌC SINH TRONG DẠY HỌC BÀI: “PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936-1939” (Lịch sử 12 – Chương trình Chuẩn) I. MỤC TIÊU BÀI HỌC: Sau khi học xong bài này yêu cầu học sinh cần nắm và hiểu được: 1. Về kiến thức: học sinh cần nắm vững các nội dung cơ bản: - Hiểu rõ thời kì thứ hai trong cuộc đấu tranh giành chính quyền do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo (1936-1939). Đây là phong trào đấu tranh khác hẳn thời kì 1930-1931 về mục tiêu, khẩu hiệu, hình thức và phương pháp đấu tranh. - Phong trào 1936-1939 diễn ra dưới tác động của yếu tố khách quan rất lớn, nhất là nghị quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế cộng sản (7/1935) và sự kiện Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. - Đặc biệt có những hình thức đấu tranh, phong trào đấu tranh mới mẻ, lần đầu tiên được Đảng tiến hành. - Kết quả thu được rất to lớn, chính quền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách của quần chúng. - Phong trào dân chủ 1936-1939 đã để lại cho Đảng nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. 2. Giáo dục tư tưởng: - Bồi dưỡng lòng nhiệt tình cách mạng của công dân trong thời kì mới. - Nâng cao nhiệt tình cách mạng, tham gia các cuộc vận động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng vì lợi ích của đất nước, của nhân dân. 6 3. Kĩ năng: - Rèn kĩ năng phân tích, đánh giá các sự kiện lịch sử. So sánh chủ trương sách lược của Đảng trong hai thời kì: 1930 – 1931 và 1936 – 1939. II. THIẾT BỊ VÀ TÀI LIỆU DẠY HỌC. - Các tác phẩm lịch sử về thời kì 1936-1939. - Các hồi kí, văn học về thời kì 1936-1939. III. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN TƯ DUY HỌC SINH: 1. Trình bày miệng sinh động, gây hứng thú học tập qua đó phát triển tính tích cực của tư duy học sinh. Trình bày có hình ảnh không chỉ là điểm tựa của nhận thức cảm tính, mà còn là cơ sở cho tư duy trong việc hiểu bản chất và đánh giá sự kiện lịch sử. Để phát triển tư duy học sinh trước hết phải xây dựng cho các em hứng thú học tập lịch sử. Hứng thú học tập lịch sử của học sinh được biểu hiện trước hết ở sự tập trung, chú ý của học sinh vào đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu. Khi các em đã chú ý, tập trung nghe giảng, quan sát, tư duy…sẽ dần dần hình thành được biểu tượng lịch sử. Chính biểu tượng lịch sử là yếu tố đầu tiên góp phần phát triển hứng thú học tập lịch sử cho học sinh. Hứng thú học tập lịch sử còn được biểu hiện ở tính tích cực của tư duy học sinh. Nếu các em chú ý, tập trung nghe giảng, chủ động tích cực tham gia vào quá trình nhận thức lịch sử sẽ tạo ra hứng thú học tập bộ môn cho các em. Ngược lại, từ chỗ hứng thú với môn học các em ngày càng tích cực, tự giác tìm tòi, khát khao nhận thức về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, luôn muốn khám phá kiến thức mới của bộ môn mà mình ưa thích, từ đó các thao tác tư duy của các em được rèn luyện và phát triển. Muốn phát triển tư duy học sinh, đặc biệt là tư duy lịch sử, trước hết giáo viên phải tạo biểu tượng chân xác, sinh động về các sự kiện và nhân vật lịch sử, để học sinh có được những hình ảnh của quá khứ. Chính biểu tượng 7 lịch sử là biểu hiện sinh động của nhận thức cảm tính, đó là loại biểu tượng gián tiếp được hình thành trong óc học sinh thông qua quá trình tri giác và tưởng tượng tái tạo, từ đó các em sẽ ghi nhớ sự kiện. Trên cơ sở tạo biểu tượng, bằng các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, nhận xét, đánh giá, hệ thống hoá, khái quát hoá,… để hình thành khái niệm, nêu quy luật và rút bài học lịch sử. Khái niệm, quy luật…là các hình thức biểu hiện của nhận thức lý tính, của tư duy trừu tượng. Việc rút bài học kinh nghiệm cho cuộc sống ngày nay chính là quá trình đi từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn. Có nhiều biện pháp và thủ pháp sư phạm khác nhau để tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, nêu quy luật và rút bài học trong dạy học lịch sử, trong đó sử dụng nhóm phương pháp trình bày miệng đóng vai trò quan trọng. Trong giờ học lịch sử, để khôi phục quá khứ lịch sử, người thầy phải sử dụng nhóm phương pháp trình bày miệng để kể chuyện, miêu tả, tường thuật, giải thích… Lời nói giúp cho học sinh tạo được những biểu tượng rõ ràng, cụ thể về một sự kiện, một biến cố lịch sử nào đó và giúp cho học sinh nhanh chóng đi đến nhận thức khái niệm lịch sử, nhằm tìm hiểu bản chất sự vật, quy luật của quá trình phát triển của lịch sử. Trong dạy học lịch sử, giáo viên căn cứ vào chương trình, mục tiêu, nội dung bài học để lựa chọn sử dụng các cách của phương pháp trình bày miệng phù hợp: khi nào thì sử dụng các đoạn tường thuật, miêu tả; trường hợp nào thì kể chuyện, nêu đặc điểm; trường hợp nào thì giải thích hay thông báo… Trong giảng dạy, ngôn ngữ (lời giảng) của giáo viên phải giàu hình ảnh, sinh động, phải làm sống lại quá khứ lịch sử, phải có âm thanh và nhạc tính; có âm độ, trường độ và cường độ phù hợp với những tình huống cụ thể của nội dung bài giảng. Giáo viên phải biết kết hợp hợp lý giữa lời nói với phong cách biểu hiện của thái độ, hành vi. Muốn lời giảng được sinh động, giàu hình 8 ảnh, giáo viên có thể biên tập lại một số đoạn tường thuật miêu tả nhưng vẫn đảm bảo tính trung thực lịch sử hoặc sử dụng các đoạn tài liệu tham khảo. Một điều lưu ý, nhóm phương pháp trình bày miệng không chỉ do giáo viên tiến hành, mà cần định hướng cho học sinh sưu tầm, xây dựng và sử dụng các đoạn tường thuật, miêu tả…trong tự học ở nhà hay trình bày trên lớp. Tóm lại, sử dụng nhóm phương pháp trình bày miệng trong dạy học lịch sử có tác dụng to lớn trong việc phát triển tư duy học sinh. Nó góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng chân xác, sinh động để khôi phục quá khứ lịch sử. Thông qua việc tạo biểu tượng, học sinh sẽ hình dung, tưởng tượng về các sự vật, nhân vật, các sự kiện đã diễn ra như thế nào, từ đó trong óc học sinh sẽ có hình ảnh về quá khứ, đó là dạng tưởng tượng tái tạo, học sinh được rèn luyện kĩ năng ghi nhớ sự kiện. Trên cơ sở hình ảnh của quá khứ, với các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, hệ thống hoá, khái quát hoá…để hình thành khái niệm, nêu quy luật và rút ra bài học lịch sử. Ví dụ, để trình bày thông báo tới học sinh một cách sinh động, hấp dẫn về các phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong phong trào dân chủ 1936-1930 (mục 2), giáo viên kết hợp giới thiệu hình 31 trong sách giáo khoa “Mít tinh kỉ niệm ngày quốc tế lao động(1-5-1938)tại khu Đấu Xảo (nay thuộc khu vực Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội)” và biên tập đoạn lược thuật với nội dung như sau: “Đây là bức hình được chụp lại từ bộ ảnh tư liệu trưng bày tại bảo tàng cách mạng Việt Nam. Bức ảnh chụp toàn cảnh buổi mít tinh ngày 1/5/1938 ở khu Đấu Xảo – Hà Nội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương, phong trào dân chủ 1936-1939 đã diễn ra với nhiều hình thức phong phú: phong trào dân sinh, dân chủ, đấu tranh nghị trường, báo chí công khai…Trong phong tào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, bên cạnh các cuộc đấu tranh của công-nông, cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân ở các đô thị cũng phát triển. Tiêu 9 biểu là những cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội, Sài Gòn nhân ngày Quốc tế lao động 1-5-1938. Đây là cuộc mít tinh do nhóm “ Tin tức”( Nhóm cộng sản hoạt động công khai của Đảng) đã vận động chi nhánh Đảng Xã hội của Quốc tế thứ hai đứng ra xin phép thực dân Pháp cho tổ chức. Chiều 1-5-1938, các đoàn thể quần chúng đại diện cho các ngành nghề, tầng lớp xã hội: thợ máy, thanh niên, trí thức, phụ nữ…gồm 25 000 người, hàng ngũ chỉnh tề, có người phụ trách từng nhóm, từng đoàn tập trung ở địa điểm quy định. Mỗi người đều có huy hiệu trước ngực và khẩu hiệu cài trên mũ, nón. Các đoàn tuần hành qua các phố, hô vang khẩu hiệu và lôi cuốn them nhiều người tham gia. Họ tiến vào khu vực nhà Đấu Xảo. Trước lễ đài, cuộc mít tinh có nhiều khẩu hiệu lớn “ Ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp”, “Đi tới Mặt trận Dân chủ Đông Dương”, “ Tự do dân chủ”, “Chống phát xít và đấu tranh chống nạn sinh hoạt đắt đỏ”…. Cuộc mít tinh khai mạc, sau bài Quốc ca Pháp, quần chúng hát vang bài Quốc tế ca. Tiếp đó, 12 lá cờ khổ lớn của 12 đoàn thể nhân dândược gương cao, chào đón những đại biểu lên phát biểu ý kiến: Trần Văn Lai, Muytê, Capuýt (đại biểu Đảng Xã hội Pháp), Trần Huy Liệu đại biểu nhóm cộng sản hoạt động công khai, nhóm “Tin tức”, Nguyễn Văn Hòe đại biểu thợ máy, Mai Khắc Thổ đại biểu nông dân, Nguyễn Thị Thảo đại biểu phụ nữ…Xen vào các bài phát biểu, máy truyền thanh lại phát bài Quốc tế ca và mọi người hưởng ứng hát theo”[3,98-99]. Để trình bày được đoạn lược thuật trên, ngoài việc xây dựng bài nói sinh động, giàu hình ảnh, đương nhiên giáo viên phải xây dựng và sử dụng tổng hợp hệ thống thao tác sư phạm. Ở đây, thao tác về mắt, thầy phải thể hiện cái nhìn trong sáng, tin tưởng và ủng hộ tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân. Giọng thầy phải truyền cảm, nhấn mạnh những từ ngữ như: các đoàn thể quần chúng đại diện cho các ngành nghề, tầng lớp xã hội: thợ 10 máy, thanh niên, trí thức, phụ nữ…gồm 25 000 người, hàng ngũ chỉnh tề… có người phụ trách từng nhóm, từng đoàn tập trung ở địa điểm quy định. Mỗi người đều có huy hiệu trước ngực và khẩu hiệu cài trên mũ, nón. Các đoàn tuần hành qua các phố, hô vang khẩu hiệu và lôi cuốn them nhiều người tham gia. Kết hợp với việc phân tích và mô tả không khí cách mạng của phong trào đấu tranh. Điều này sẽ gây sự chú ý, lôi cuốn học sinh vào bài học, qua đó tạo biểu tượng sinh động trong óc học sinh về phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân trong những năm 1936-1939. Qua đó, giáo viên có thể giúp các em rút ra kết luận khái quát như: mặc dù cuộc mít tinh chỉ diễn ra trong vài tiếng đồng hồ nhưng qua đó đã thể hiện được sự đúng đắn trong việc Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo cách mạng cũng như khẳng định được khả năng lãnh đạo của Đảng và Đảng đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Để minh họa rõ cho kết luận trên, giaó viên nhấn mạnh: Mặc dù cuộc mít tinh chỉ kéo dài mấy tiếng đồng hồ song đã thu hút được quần chúng tham gia một cách đông đảo và được tổ chức bài bản, rất trật tự. Đại diện các đảng phái và đại biểu của công nhân, nông dân, phụ nữ, tiểu thương, trí thức đều được lên phát biểu. Chính điều đó đã làm cho thực dân Pháp rất căm tức nhưng chúng đành bất lực trước cuộc mít tinh khổng lồ, được tổ chức chặt chẽ, quy mô. Mặt khác, lúc này trong óc học sinh cũng có thể nảy sinh tư duy so sánh phong trào đấu tranh trong giai đoạn 1930-1931. Hoặc, khi dạy học mục I: “Tình hình thế giới và trong nước”, giáo viên có thể sử dụng một số số liệu như: Một số chính sách cụ thể của chính quyền thực dân trong thời kỳ này đã làm cho cuộc sống của công nhân, viên chức và dân chúng bản xứ thêm khốn khó: năm 1937 tổng số công nhân ở Việt Nam ước chừng chỉ 150.000 người và số người thất nghiệp có đăng ký chính thức là hơn 40.000 người [9,183]; giá cả các mặt hàng sinh hoạt thiết yếu bị đẩy 11 lên từ 20% đến 50%, thậm chí tới 70% hoặc trên 100%[9,49-51]; các chính sách nói trên của chính quyền thực dân cũng làm cho cuộc sống của giới tiểu tư sản thành thị điêu đứng. Tiểu chủ, tiểu thương tiếp tục phá sản hoặc kinh doanh lay lắt, cầm chừng. Công chức và tư chức, giáo viên cũng vẫn phải hưởng đồng lương đã bị cắt giảm từ 30% đến 70% từ thời kỳ khủng hoảng. Ngay cả giới tư sản, địa chủ bản xứ cũng vẫn cảm thấy môi trường kinh doanh còn quá ngột ngạt, vận mệnh bấp bênh, nhất là khi chính phủ tiếp tục chính sách bảo vệ lợi ích của bọn tài phiệt và mặc sức thả nổi doanh nghiệp nhỏ và vừa, mặc cho họ phải vật lộn trong cuộc cạnh tranh với một môi trường không lành mạnh. Tình hình trên cho thấy nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 19361939, tuy đã dần dần khôi phục lại sau khủng hoảng, nhưng sự phục hồi chậm chạp, không chắc chắn. Thêm vào đó, các chính sách kinh tế của chính quyền thuộc địa chỉ chú trọng việc bảo hộ quyền lợi của giới tài phiệt, tiếp tục là nguyên nhân khiến cho cuộc sống của nhân dân lao động bản xứ lâm vào cùng quẫn, trong khi đó tình cảnh của các tầng lớp trung gian và thượng lưu cũng vẫn tiếp tục bị đe doạ. Do đó, một yêu cầu cấp thiết nhất đối với các giai cấp, tầng lớp Việt Nam lúc bấy giờ đó là vấn đề đòi quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Như vậy, sử dụng các số liệu trên kết hợp phân tích, giáo viên đã tạo biểu tượng chân thực, sinh động trong óc học sinh về đời sống khốn cùng của người các giai cấp Việt Nam trước chính sách bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp…. từ đó giúp các em hiểu rõ vì sao đa số nhân dân lại đứng dậy đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. 12 2. Khai thác triệt để việc sử dụng đồ dùng trực quan để phát triển tư duy học sinh. Đồ dùng trực quan giữ một vai trò, vị trí quan trọng trong dạy học lịch sử, nó không chỉ là phương tiện dạy học mà còn là một kênh thông tin và nguồn kiến thức vô cùng quan trọng đối với việc nhận thức lịch sử. Hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học lịch sử do nhiều yếu tố quyết định, như chất lượng của bài học, tranh ảnh lịch sử, phương pháp sử dụng, kĩ năng và năng lực sư phạm của giáo viên. Ở đây chúng tôi đề cập đến biện pháp khai thác, sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào để phát triển tư duy học sinh. Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú, hình dung, tưởng tượng. Đồ dùng trực quan có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vũng chắc trong trí nhớ là hình ảnh thu nhận được bằng trực quan và những hình ảnh đó sẽ giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu được bài học lịch sử. Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ cho các em. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ánh như thế nào. Các em sẽ đào sâu suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. 13 Ví dụ như, ở bài này, giáo viên sử dụng bức tranh “Mít tinh kỉ niệm ngày quốc tế lao động(1-5-1938)tại khu Đấu Xảo (nay thuộc khu vực Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội)” Để sử dụng đồ dùng trực quan một cách có hiệu quả, giáo viên không chỉ đơn thuần giới thiệu cho học sinh quan sát đồ dùng trực quan mà phải kết hợp với miêu tả, tường thuật, phân tích và bằng những lời nói sinh động với những câu hỏi phát vấn, gợi mở để khai thác đồ dùng trực quan đang sử dụng, qua đó phát huy được tính tích cực, hoạt động nhận thức và sự sáng tạo của học sinh. Tất cả những đồ dùng trực quan trên, giáo viên đều phải phóng to treo trên bảng hoặc trình chiếu trên Power Poin cho học sinh quan sát, phải chọn thời điểm sử dụng loại đồ dùng trực quan đúng lúc cho phù hợp với nội dung bài giảng. Cụ thể, giáo viên sử dụng bức tranh:“Mít tinh kỉ niệm ngày quốc tế lao động(1-5-1938)tại khu Đấu Xảo (nay thuộc khu vực Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội)”, cho học sinh quan sát và đặt ra câu hỏi: “Em có nhận xét gì về bức tranh này?”. Qua tri giác đối tượng (quan sát bức tranh), học sinh sẽ hình dung, phán đoán, tưởng tượng và nhận thấy có nhiều người tham gia, được tổ chức công khai với quy mô chưa từng có...Giaó viên hướng dẫn học sinh quan sát, gợi ý sau đó nhận xét và nhấn mạnh : Đây là cuộc biểu dương lực lượng lớn nhất trong thời kì Mặt trân dân chủ, đánh dấu uy tín và nghệ thuật tổ chức của những người cộng sản. Sự kiện này đã được Nguyễn Ái Quốc đánh giá “ Ngày đó thật là to lớn và đối với Đông Dương có thể nói là vĩ đại”. Tóm lại, để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy được tính tích cực của tư duy học sinh, giáo viên cần tuân thủ các bước sau: Bước 1: Cho HS quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát nội dung tranh ảnh cần khai thác. 14 Bước 2: GV nêu câu hỏi, nêu vấn đề, tổ chức hướng dẫn HS tìm hiệu nội dung tranh ảnh. Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh sau khi đã quan sát, kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung trong bài học. Bước 4: GV nhận xét, bổ sung HS trả lời, hoàn thiện nội dung khai thác tranh ảnh cung cấp cho học sinh. Hoặc, khi dạy học mục 2: “Phong dân chủ 1936-1939”, giáo viên sử phiếu bài tập yêu cầu học sinh so sánh chủ trương của Đảng trong Hội nghị trung ương (7-1936) với chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1930-1931 để tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm qua đó cho các em thấy được đường lối của Đảng 1936-1939: Nội dung 1930-1931 1936-1939 Kẻ thù Nhiệm vụ (khẩu hiệu) Mặt trận Hình thức,phương pháp đấu tranh Lực lượng tham gia Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét, chốt ý và hoàn thiện niên biểu với nội dung như sau: Nội dung Kẻ thù 1930-1931 Đế quốc và phong kiến Nhiệm vụ Chống đế quốc giành độc lập, (khẩu chống phong kiến giành hiệu) ruộng đất cho dân cày 1936-1939 Thực dân Pháp phản động, tay sai, phát xít Chống phát xít và chiến tranh.Chống thực dân phản động. Đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình 15 Nội dung Mặt trận Hình thức, phương pháp đấu tranh 1930-1931 Bước đầu thực hiện liên minh công nông 1936-1939 Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương sau đổi là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Bí mật, bất hợp pháp. Bạo động vũ trang như bãi công, Hợp pháp, nửa hợp pháp, công chuyển sang biểu tình vũ khai hay nửa công khai. trang ở Hưng Nguyên, Thanh Chương, Vinh Đông đảo, không phân biệt thành Lực lượng Công nhân. phần, giai cấp.Ở thành thị rất sôi tham gia nổi tạo nên đội quân chính trị Nông dân hùng hậu. Nhận xét: Sự khác nhau giữa phong trào 1930-1931 và phong trào dân chủ 19361939 cho thấy do hoàn cảnh thế giới và trong nước khác nhau,nên chủ trương sách lược, hình thức tập hợp lực lượng và hình thức đấu tranh phải khác nhau mới phù hợp. Chủ trương của Đảng trong thời kỳ 1936-1939 chỉ có tính chất sách lược nhưng rất kịp thời và phù hợp với tình hình mới, tạo ra cao trào đấu tranh sôi nổi. Qua đó chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành, có khả năng đối phó với mọi tình huống, đưa cách mạng tiến lên không ngừng Như vậy, qua sử dụng viên sử phiếu bài tập, các thao tác tư duy của học sinh được rèn luyện. Các em có cái nhìn hệ thống về phong trào dân chủ 19361939, biết so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa các đấu tranh nói trên; các em bước đầu biết nhận định đánh giá và rút ra những kết luận có tính chất 16 khái quát về hình thức đấu tranh, mục tiêu đấu tranh, tính chất và quy mô của phong trào… 3. Sử dụng hệ thống câu hỏi và bài tập nhận thức để phát triển tư duy học sinh. Xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy cho học sinh. Đặc biệt, khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, việc đặt và sử dụng hệ thống câu hỏi lại càng cần thiết nhằm tích cực hoá hoạt động học tập, phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo của học sinh. Để phát triển tư duy học sinh, khi xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây: - Xác định câu hỏi trọng tâm, chủ đạo cho cả bài hay từng phần, từng đơn vị kiến thức. - Xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở giúp giải quyết từng phần cho câu hỏi trọng tâm. - Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của kiến thức bài học để xây dựng các loại câu hỏi theo các mức độ nhận thức khác nhau của học sinh. - Xây dựng câu hỏi vừa sức, sát đúng với học sinh, phù hợp với nội dung bài học, chú ý phát triển năng lực tư duy của học sinh trong học tập lịch sử. - Giải quyết linh hoạt mối quan hệ giữa hệ thống câu hỏi và các nguồn kiến thức, kết hợp với các dạng hoạt động học tập của học sinh. Các loại câu hỏi sử dụng trong dạy học lịch sử bao gồm nhiều mức độ nhận thức khác nhau: biết, hiểu, vận dụng. Nó giúp học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của 17 một sự kiện hay quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó không chỉ đòi hỏi các em biết sự kiện (tái hiện) mà đi sâu hiểu bản chất sự kiện (phát hiện), vận dụng kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới và áp dụng vào cuộc sống. Đối với học sinh THPT cần tăng cường hợp lý các câu hỏi mang tính chất tìm tòi, phát hiện, bởi vì năng lực tư duy của các em đã bước đầu trưởng thành. Hỏi và trả lời chính là đặt ra tình huống có vấn đề rồi tìm cách giải quyết vấn đề. Hỏi và trả lời có thể tiến hành giữa thầy giáo và học sinh, giữa học sinh với nhau, thậm chí đối với từng cá nhân (tự hỏi và tự trả lời). Hỏi và trả lời không phải là sự “đánh đố”, mà phải giúp học sinh hiểu sâu sắc lịch sử hơn. Ở bài này, để phát triển tư duy học sinh, giáo viên xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập nhận thức theo các mức độ nhận thức và mục đích sau đây: Thứ nhất, sử dụng câu hỏi nhằm định hướng nhận thức cho học sinh trong giờ học lịch sử. Đây là một hình thức của dạy học nêu vấn đề. Có nhiều cách nêu yêu cầu học tập cho học sinh trước khi nghiên cứu bài mới, nội dung mới, trong đó hiệu quả nhất là đặt các câu hỏi nêu vấn đề dưới dạng bài tập nhận thức, hoặc nêu lên các câu hỏi nhận thức. Khi đưa ra bài tập nhận thức cho phép phối hợp khâu trình bày nêu vấn đề, tạo tình huống có vấn đề và phát biểu vấn đề. Nhưng không phải bất cứ câu hỏi nào cũng là bài tập nhận thức. Câu hỏi chỉ trở thành câu hỏi nêu vấn đề khi câu trả lời của học sinh là sản phẩm của hoạt động tư duy độc lập không phải là sự nhắc lại những kiến thức có sẵn. Câu hỏi nhận thức lịch sử và bài tập nhận thức lịch sử có quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Xét về mặt hình thức và nội dung của chúng có sự khác nhau. Trong câu hỏi nhận thức chỉ chứa đựng yêu cầu. Trong bài tập nhận thức vừa có dữ liệu (phần dẫn dắt) vừa có yêu cầu, lại chứa 18 đựng tình huống có vấn đề, tạo ra mâu thuẫn cần giải quyết giữa cái đã biết và cái chưa biết. Câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ học cho học sinh phải hướng vào những kiến thức trọng tâm của bài học. Nội dung của nó phải bao quát toàn bài, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, nắm bắt được những sự kiện cơ bản của bài học thì mới trả lời được. Điều này buộc học sinh phải tập trung theo dõi bài học suốt thời gian học tập. Đó chính là điều kiện để phát triển tư duy của học sinh. Ví dụ, ở bài này khi dẫn dắt vào bài mới, giáo viên sử dụng câu hỏi nêu vấn đề với nội dung như sau: “Vào nửa cuối nhưng năm 30 của thế kỉ XX trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, Đảng cộng sản Đông Dương đã thay đổi chủ trương, phong trào đấu tranh sang hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp với mục tiêu đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Vậy cơ sở nào đã dẫn đến việc Đảng ta có sự thay đổi về chủ trương trên? Sự thay chuy ển đổi về chủ trương đó bao gồm những nội dung gì ?phong trào đấu tranh diễn ra như thế nào và nó đã để lại những bài học gì cho phong trào cách mạng Việt Nam? Để làm rõ các vấn đề trên chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay để trả lời những câu hỏi này nhé!”. Cách đặt câu hỏi nêu vấn đề như vậy đã tạo ra mâu thuẫn xung đột giữa những điều đã biết với những điều chưa biết, cho nên có tác dụng kích thích các hoạt động nhận thức của học sinh vào vấn đề nghiên cứu. Bài tập nhận thức, câu hỏi nhận thức dùng để định hướng nhiệm vụ nhận thức cho học sinh không chỉ sử dụng vào đầu giờ học cho cả bài, mà còn được sử dụng cho từng phần, từng đơn vị cho kiến thức của bài học. Ví dụ, trước khi dạy học mục I: “Tình hình thế giới và trong nước”, giáo viên nêu vấn đề bằng câu hỏi nhận thức như sau: “Nguyên nhân dẫn đến phong trào 19 dân chủ 1936-1939 nổ ra là gì?” để gây sự tập trung chú ý của học sinh vào giải quyết kiến thức trọng tâm của mục. Thứ hai, sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở trong trao đổi đàm thoại giúp giải quyết từng phần cho câu hỏi trọng tâm. Câu hỏi trọng tâm được trình bày dưới dạng câu hỏi nêu vấn đề hoặc câu hỏi nhận thức, được hiểu như là một tiền đề quan trọng để giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản, trọng tâm của một bài, một vấn đề. Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh. Nó đòi hỏi các em phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Học sinh rất khó trả lời ngay được câu hỏi vừa nêu ra vì thiếu dữ kiện. Do vậy, cùng với quá trình cung cấp thông tin, giáo viên phải xây dựng các câu hỏi gợi mở để giúp học sinh giải đáp dần câu hỏi trọng tâm. Giáo viên phải dự kiến trước câu trả lời của học sinh để có phương án sử dụng câu hỏi phù hợp với tình huống thực tế dạy học đặt ra. Ví dụ, khi dạy học về I: “Tình hình thế giới và trong nước”, giáo viên nêu vấn đề bằng câu hỏi nhận thức như sau: “Nguyên nhân dẫn đến phong trào dân chủ 1936-1939 nổ ra là gì?”. Để giúp học sinh trả lời được câu hỏi này, giáo viên dự kiến nêu các câu hỏi gợi mở nhằm giải quyết từng phần câu hỏi nhận thức, từng bước làm sáng tỏ vấn đề: “Dựa trên kiến thức đã học trong phần lịch sử thế giới giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, em hãy cho biết những sự kiện lịch sử thế giới nào có tác động đến Việt Nam?”, "Những sự kiện đó tác động đến Việt Nam như thế nào?”, “ Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam trong những năm 1936-1939 như thế nào?, “ Em có nhận xét gì về tình hình kinh tế và xã hội Việt Nam giai đoạn này?”, “Trước tình hình chính trị, kinh tế, xã hội như vậy, yêu của trước mắt của nhân dân Việt Nam là gì?... 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan