Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn đổi mới phương pháp tổng kết và củng cố bài học (áp dụng đối với nhóm văn b...

Tài liệu Skkn đổi mới phương pháp tổng kết và củng cố bài học (áp dụng đối với nhóm văn bản văn học trung đại ngữ văn 11)

.PDF
15
1166
75
  • 1
    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
    ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
    Kính gửi: Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình
    Chúng tôi ghi tên dưới đây:
    S
    T
    T
    Họ và tên
    Ngày,tháng,
    năm sinh
    Nơi công
    tác
    Chức
    danh
    Trình độ
    chuyên
    môn
    Tỉ lệ
    (%)đóng
    góp vào
    việc tạo ra
    sáng kiến
    01
    Trần Thị Liễu
    22/09/1961
    THPT
    Đinh Tiên
    Hoàng
    Tổ trưởng
    chuyên
    môn
    Đại học
    Sư phạm
    Ngữ văn
    60%
    02
    Ngô Thị Thu Hiền
    04/06/1984
    THPT
    Đinh Tiên
    Hoàng
    Giáo viên
    Thạc sĩ
    Ngữ văn
    40%
    các đồng tác giả đề nghị t công nhận sáng kiến: Đổi mới phương pháp tổng kết
    và củng cố bài học (áp dụng đối với nhóm văn bản văn học trung đại Ngữ văn 11).
    - Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Liễu, Ngô Thị Thu Hiền
    - Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng trong việc dạy học Ngữ văn hàng
    năm cho học sinh lớp 11 trong nhà trường THPT.
    - Mô tả bản chất của sáng kiến:
    (1)Nội dung sáng kiến:
    + Gii pp cũ thường làm trong các tiết dạy đi vi phn tổng kết củng cố i học:
    Phần tổng kết và củng cố bài học là phần luôn được giáo viên chú ý trong mỗi tiết dạy
    vì phần này sẽ cô đúc những kiến thức cơ bản nhất để học sinh ghi nhớ, đồng thời gợi mở cho
    Trang 1
  • 2
    các em những vấn đề khác xung quanh bài học. Tuy nhiên hiện nay đối với các bài học nói
    chung và đối với nhóm i văn học trung đại trong chương trình lớp 11 nói riêng, việc thực
    hiện dạy trên lớp của giáo viên vẫn còn mang nặng tính khuôn mẫu, áp đặt.
    Thông thường đối với phần tổng kết bài học, giáo viên sẽ gọi một đến hai học sinh
    đứng lên trả lời câu hỏi “Trình bày những nét lớn về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm”. Sau
    đó, giáo viên sẽ bổ sung, chốt lại. dụ như đối với bài học Câu mùa thu” (Nguyễn
    Khuyến), giáo viên sẽ tập trung hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản, từ đó đi đến phần
    tổng kết. Cách dạy truyền thống thường là giáo viên sẽ đặt câu hỏi cho học sinh “Em hãy tóm
    lại những nét lớn về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Câu mùa thu”, sau đó gọi 1 đến 2
    học sinh khá, giỏi trong lớp trình bày. Học sinh phát biểu ý kiến, giáo viên chốt lại và cho học
    sinh ghi. Nếu học sinh không trả li được, go viên sẽ i ngắn gọn và học sinh tự ghi vào vở.
    Đối với phần củng cố bài học, một sbài, giáo viên thuyết trình ngắn gọn, một số bài
    những câu hỏi gợi ý để học sinh trả lời, giáo viên nhận xét. Ví dụ, qua việc khảo sát thực tế
    chúng tôi đã thấy, đối với tác phẩm “Tự tình” (Hồ Xuân Hương), phần đọc - hiểu chiếm mất
    khá nhiều thời gian nên đến phần củng cbài học thường chỉ còn lại từ 2 đến 3 phút. Giáo
    viên thường chọn cách thuyết trình để đảm bảo thời gian: “Tác phẩm giúp các em hiểu thêm
    về đề tài người phụ nữ trong văn học trung đại, cuộc đời éo le của Hồ Xuân Hương, cũng như
    đặc điểm của thể thơ Nôm Đường luật. Qua đó, tác phẩm gợi mở bài học về nghị lực sống, về
    sự cảm thông, chia sẻ trong cuộc sống”. Đối với các bài học khác, hoạt động của giáo viên
    học sinh cũng diễn ra ơng tự. biệt, một số tiết học, do không đủ thời gian nên giáo
    viên đã bỏ qua khâu củng cbài học hoặc dặn chung chung : Về nhà các em đọc xem
    kĩ lại bài học hôm nay”.
    Cách làm truyền thống theo hướng thuyết trình hoặc phát vấn đàm thoại đảm bảo
    được chuẩn kiến thức của bài học, tuy nhiên điều kiện để phát huy năng lực làm việc của học
    sinh còn hạn chế. Bài học nào cũng cùng một cách thức như thế, lại diễn ra phần cuối của
    tiết học, đôi khi vội vàng nguyên nhân khiến học sinh không tập trung, giảm hứng thú.
    Trong khi đây phần rất quan trọng, giúp học sinh nhớ bài lâu hơn, chủ động hơn, sở
    để gợi mở những sáng tạo sự vận dụng bài học vào cuộc sống. Đến tiết học sau, khi kiểm
    tra bài cũ, nếu giáo viên yêu cầu nhắc lại nội dung, nghệ thuật bản của tác phẩm, th
    học sinh không trả lời được. Điều đó đã dẫn đến hệ quả học sinh có kết quả học tập không
    cao khiến các em lại càng thờ ơ với môn Văn.
    + Giải pháp mới áp dụng trong phần tổng kết, củng cố bài học các bài học văn
    học trung đại Ngữ văn 11:
    Để khắc phục những hạn chế của phương pháp dạy truyền thống, chúng tôi đã đầu
    công sức trí tuệ để xây dựng ng kiến đồ hoá phần tổng kết bài học thiết kế một số
    Trang 2
  • 3
    trò chơi cho phần củng cố bài học của nhóm gồm tám bài học trong phần n học trung đại
    Ngữ văn 11 - phần chương trình được đánh giá khó dạy, khó học nhất của chương trình
    Ngữ văn 11:
    (1) Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác.
    (2) Tự tình - Hồ Xuân Hương.
    (3) Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến.
    (4) Thương vợ - Tú Xương.
    (5) Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ.
    (6) Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Cao Bá Quát.
    (7) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu.
    (8) Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm.
    -> Tính mới của giải pháp:
    * Phần tổng kết bài học sẽ được sơ đồ hoá, điều đó sẽ hiển thị liên kết giữa các phần
    của bài học một cách ràng, cung cấp thêm một số cách thức tổng kết i học tránh rập
    khuôn, nhàm chán. Giáo viên thể linh hoạt, sử dụng nhiều cách thức khác nhau để khai
    thác đồ tổng kết (chúng tôi đã đưa ra 5 gợi ý về cách thức sdụng). Đồng thời, với đồ
    được giáo viên cung cấp hoặc do học sinh tự hoàn thành, đó s cơ sở đhọc sinh vnhà
    tiếp tục triển khai chi tiết theo hướng xây dựng bản đồ duy, phục vcho việc học bài, ôn
    bài. (xem ví dụ - phụ lục 1 – trang 9)
    Với đồ y, tuỳ vào từng lớp, từng tiết dạy, giáo viên có thể sử dụng theo nhiều cách
    thức khác nhau:
    - Đưa ra sơ đồ, bỏ trống ngẫu nhiên một số ô để học sinh tự hoàn thành. (xem ví dụ -
    phụ lục 2 – trang 9)
    - Bỏ trống có hệ thống các phần của sơ dồ để học sinh hoàn thành. (xem ví dụ - phụ lục
    3 – trang 10)
    - Đưa ra mô hình sơ đồ và nội dung tổng kết, sau đó yêu cầu học sinh xếp các nội dung
    đó vào các ô tương ứng. (xem ví dụ - phụ lục 4 – trang 11)
    - Đưa ra sơ đồ, bỏ trống một số từ ngữ trong các ô để học sinh hoàn thành. (xem ví dụ -
    phụ lục 5 – trang 11)
    - Đưa ra sơ đồ và hệ thống câu hỏi gợi ý để học sinh hoàn thành sơ đồ. (xem ví dụ - phụ
    lục 6 – trang 13)
    Giáo viên có thể căn ctheo tình hình lớp học, đối tượng học sinh, thời lượng bài học
    những điều kiện thực tế khác để áp dụng phù hợp đối với giờ học, mang lại hiệu quả dy
    và học cao hơn. Giáo viên cũng có thể trên cơ sở sơ đồ đã có, thiết kế thêm nhiều cách thức sử
    dụng khác để phục vụ cho bài học
    Trang 3
  • 4
    * Phần củng cố bài học, chúng tôi hướng tới việc thiết kế những trò chơi đơn giản,
    giáo viên dễ dàng thực hiện có hiệu quả. Hình thức trò chơi đã được sử dụng trong khá
    nhiều môn học khác nhau. Đối với môn Ngữ văn chúng tôi cố gắng thiết kế những trò chơi
    vừa thú, gần gũi, đồng thời cũng mang u sắc riêng của môn Văn. Trong mỗi trò chơi,
    chúng tôi vừa nhắc lại nội dung bài học, đồng thời mở rộng thêm các phần kiến thức khác cho
    học sinh. Khi chơi hoặc làm bài tập, lớp sẽ được chia thành các nhóm, trả lời, tính điểm, tăng
    tính cạnh tranh tích cực khiến các em sẽ hào hứng tham gia các trò chơi, tự mình tiếp thu
    thêm những kiến thức bổ ích rèn luyện thêm năng làm việc nhóm. Giáo viên thể kết
    hợp cho điểm những học sinh tiêu biểu, khích lệ các em nhiệt tình tham gia trả lời câu hỏi.
    (xem ví dụ - phụ lục 7 – trang 12)
    Ngoài ra, hai phần này, chúng tôi thiết kế trên powerpoint, mang lại nh trực quan,
    sinh động thể dễ ng chia sẻ với bạn đồng nghiệp. Phần thiết kế sẽ nhanh chóng
    được áp dụng rộng rãi, tiếp tục được bổ sung, cải tiến những năm tiếp theo. Trên cơ sở
    những thiết kế đã có, giáo viên thể tiến hành thực hiện hình thiết kế này đối với những
    bài học còn lại trong chương trình Ngữ văn lớp 10,11, 12.
    -> Tính sáng tạo của giải pháp
    - Thứ nhất giúp giáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng tính linh
    hoạt cho bài giảng, coi việc đổi mới phương pháp giảng dạy là việc làm thường xuyên ở tất cả
    các tiết học, ở tất cả các khâu, các phần của bài học.
    - Thứ hai, c hình ảnh trực quan, sinh động tính logic sẽ thu hút sự cý của
    học sinh, giúp giáo viên dễ dàng tổ chức giờ học, tăng tính tương tác thày – trò, phối hợp hoạt
    động có hiệu quả.
    - Thứ ba, theo chúng tôi quan trọng nhất, đó học sinh được tăng cường tính chủ
    động, sáng tạo và duy qua bài học, mạnh dạn chia sẻ, hợp tác, năng làm việc nhóm,
    có năng lực tự học và sử dụng ngôn ngữ. Ngoài ra, học sinh hoàn toàn có thể đặt ra những câu
    hỏi, nêu những cách hiểu khác, ý kiến riêng của bản thân, thể hiện sự làm chủ kiến thức.
    (2) Khả năng áp dụng:
    Sáng kiến được áp dụng trong c bài dạy phần văn học trung đại trong chương trình
    Ngữ văn 11. Điều quan trọng là các giáo viên sử dụng máy chiếu linh hoạt và tạo được không
    khí cạnh tranh lành mạnh trong giờ học
    Ngoài ra, trên sở của sáng kiến đã có, thể tiếp tục xây dựng đồ trò chơi
    tương tự cho các phần học khác của chương trình Ngữ văn 11, cũng như cho chương trình
    Ngữ văn 10 và Ngữ văn 12.
    Sáng kiến khi được chia sẻ thể dễ dàng sử dụng cho tất cả các giáo viên dạy Ngữ
    văn trong toàn tỉnh và toàn quốc do tính linh hoạt của nó.
    Trang 4
  • 5
    - Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
    + Cần có các phòng học có máy chiếu.
    +Giáo viên cần phải các phương pháp khéo léo, hướng học sinh tập trung cao độ
    trong một khoảng thời gian không dài.
    - Những lợi ích thu được sau khi áp dụng sáng kiến:
    (1) Hiệu quả kinh tế:
    Qua một số năm áp dụng sáng kiến này bản thân chúng tôinhómn Văn đã đạt được
    một số kết quả hết sức khả quan.
    - Tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức tìm tòi, vẽ, in ấn của giáo viên trong việc thiết
    kế các đồ tổng kết bài học hay tranh ảnh phục vụ cho các trò chơi của phần củng cbài
    học.
    - Tiết kiệm được tiền in ấn cho nhiều năm học hệ thống sơ đồ các trò chơi được thiết kế
    trên powertpoint có thể tái sử dụng và nếu cần chỉnh sửa có thể được chỉnh sửa dễ dàng.
    - Sáng kiến có thể đạt hiệu quả tối ưu về mặt kinh tế (đặc biệt kinh tế tri thức) khi được
    chia sẻ áp dụng rộng rãi trong tỉnh cũng như trên toàn quốc thông qua các trang mạng
    violet.vn, doko.vn, ninhbinh.edu.vn,…
    (2) Hiệu quả xã hội:
    - Học sinh có hứng thú học tập hơn: tích cực, chủ động, sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết.
    - Học sinh có cơ hội để khẳng định mình, không còn lúng túng, lo ngại khi bước vào giờ học.
    - Học sinh hứng thú với các kiến thức liên môn.
    - Giảm thiểu được tệ nạn xã hội gây ra bởi những học sinh lười học, lưu ban.
    - Đào tạo ra những công dân đủ trình độ, ng lực, phẩm chất đáp ứng nhu cầu ngày ng
    cao của xã hội.
    - Giáo viên chia sẻ, giúp đỡ nhau trong chuyên môn. Tạo môi trường giáo dục thân thiện, gắn
    bó, gần gũi giữa thày và trò.
    Cụ thể:
    Thái độ học tập của học sinh:
    Về hoạt động trên lớp, trực quan thể thấy học sinh hứng thú học bài hơn, say mê
    với giờ học không còn tình trạng uể oải cuối giờ học. Việc học bài nhà của các em cũng
    tốt hơn, kết quả kiếm tra bài cũ cũng cao hơn.
    Để đánh giá cụ thể kết quả, chúng tôi đã tiến hành làm phiếu thăm ra đề kiểm
    tra phần văn học trung đại, nội dung như nhau trong hai năm học liên tiếp 08 lớp. Năm học
    2012-2013, chúng tôi vẫn tiến hành dạy - học phần Tổng kết, củng cố bài học theo truyền
    Trang 5

Mô tả:

Tài liệu liên quan