Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Hóa học Skkn hóa học quanh ta....

Tài liệu Skkn hóa học quanh ta.

.PDF
136
1184
72

Mô tả:

BM 01-Bia SKKN SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị Trường THPT Nguyễn Trãi Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM HÓA HỌC QUANH TA Người thực hiện: Ngô Thị Hồng . Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn: ............................. (Ghi rõ tên bộ môn) - Lĩnh vực khác: ....................................................... (Ghi rõ tên lĩnh vực) Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN Mô hình Đĩa CD (DVD) Phim ảnh Hiện vật khác (các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm) Năm học: 2014-2015. 1 BM02-LLKHSKKN SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC –––––––––––––––––– I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Ngô Thị Hồng. 2. Ngày tháng năm sinh: 16-06-1962. 3. Nam, nữ: Nữ. 4. Địa chỉ: 896/7 KP8A P. Tân Biên, Biên Hòa , Đồng Nai. 5. Điện thoại: (CQ)/ 0613881807 6. Fax: (NR); ĐTDĐ: 0919070446 E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: Giáo viên. 8. Nhiệm vụ được giao: Tổ trưởng Tổ Hóa- Giảng dạy môn Hóa lớp 12, 10. 9. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trãi. II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân môn Hóa. - Năm nhận bằng: 1984 - Chuyên ngành đào tạo: Đại học Sư phạm Hóa. III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Hóa. Số năm có kinh nghiệm: 31. - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 5. 2 BM03-TMSKKN Tên SKKN : HÓA HỌC QUANH TA. I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hiện nay trong giáo dục học đường đang hướng đến phương pháp dạy học tích cực, hướng đến việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt đông nhận thức của học sinh, nghĩa là phát huy tính tích cực của người học, học sinh phải tự tìm tòi khám phá các kiến thức mới dưới sự chỉ đạo tổ chức của giáo viên. Học sinh được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, trực tiếp quan sát, thảo luận và làm thí nghiệm, tìm hiểu những hiện tượng hóa học xảy ra trong đời sống thường ngày. Với lý do trên, tôi viết Sáng kiến kinh nghiệm này hầu giúp học sinh hiểu biết được những hiện tượng hóa học xảy ra xung quanh đời sống chúng ta, giúp học sinh biết gắn kết giữa lý thuyết và thực tế, biết tận dụng những ưu điểm của các hiện tượng đó và phòng tránh những điều có hại do các phản ứng bất lợi xảy ra. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Dạy học là tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, học sinh bị cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên chỉ đạo phân công công việc, thông qua đó tự khám phá những điều mình chưa hiểu chứ không thụ động tiếp thu tri thức. Do đó điểm mới của đề tài Sáng kiến kinh nghiệm này là: - Giúp học sinh tự tìm tòi những kiến thức mình được học thông qua các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và dùng kiến thức đã biết để giải thích các hiện tượng đó. - Hóa học là môn học phải được gắn liền với thực tế nên học sinh không còn có ranh giới giữa việc học lý thuyết ở trường với việc liên hệ thực tế các hiện tượng hóa học xảy ra xung quanh chúng ta. - Sự tìm tòi khám phá sẽ giúp học sinh hiểu rõ bài học và thích thú hơn khi phải thụ động tiếp thu kiến thức từ thầy cô đã chuẩn bị sẵn. - Theo đúng xu hướng dạy học hiện nay là phát huy năng lực học sinh bằng cách học sinh tích cực xây dựng bài học và liên hệ thực tế trong từng bài học. Giải pháp này mà tôi đưa ra là giải pháp thay thế một phần nào đó mà các bài học trước đây đã từng có liên hệ thực tế nhưng chưa được rõ và sâu, chưa có sự tham gia đồng hành của học sinh. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP - Giáo viên phân công cho học sinh tự tìm tòi liên hệ thực tế của từng bài học có thể một vài bài hoặc theo từng chương. - Học sinh sẽ tự trình bày trước lớp những phần mình đã tìm hiểu, các tài liệu tìm được là những nguồn minh chứng được xác định rõ ràng. - Sau khi trình bày xong các phần thuyết trình được sự góp ý của tập thể lớp và giáo viên. Tập thể lớp sau khi được xem những phần liên hệ thực tế sẽ được củng cố thêm về phần lý thuyết, bài học sẽ nhớ lâu hơn. Các hình ảnh sẽ tăng thêm tính hấp dẫn thuyết phục. So với việc chỉ đơn thuần học lý thuyết và liên hệ thực tế bằng lời nói thì phương pháp tự tìm tòi và tự liên hệ thực tế của học sinh sẽ giúp bài học có hiệu quả cao hơn. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI - Thông qua các tư liệu trình bày học sinh sẽ hiểu sâu hơn nội dung bài học. - Học sinh tiếp thu bài học một cách hào hứng, hấp dẫn, giảm bớt sự khô khan nhàm chán so với việc trình bày bằng phấn trắng bảng đen. - Học sinh có thể tham gia tìm tòi tư liệu hình ảnh để bổ sung cho bài học giúp học sinh phát huy năng lực tự học cao hơn. 3 - Giúp học học sinh tiếp cận các kiến thức bằng sự tìm tòi sáng tao . - Kết quả các buổi học có liên hệ thực tế và mở rộng thì hiệu quả của giờ dạy sẽ tăng cao hơn so với bình thường. - Học sinh học tập một cách chủ động, tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, giảm bớt sự thụ động trong học tập. - Học sinh hiểu rõ hơn những cái lợi, cái hại của các hóa chất và biện pháp phòng chống chúng. V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG - Đề tài này được áp dụng phổ biến cho cả ba khối lớp: 10, 11 và 12. - Theo đúng xu hướng học sinh chủ động trong học tập, phát huy năng lực tự tìm tòi các kiến thức để xây dựng bài học. - Đề tài này giúp học sinh hiểu rõ hơn những hiện tượng hóa học xảy ra trong đời sống và giải thích được chúng chứ không phải hiểu biết trên lý thuyết. VI. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PHH sưu tâm,& giới thiệu 9 -2013 - Nguồn TK chinh H2N2. 2. PHH sưu tầm & biên chỉnh 9 – 2013 .Nguồn: phần A theo internet; B theo BS. Nguyễn Võ Hinh 3. BS Phạm Huy Hoạt sưu tầm và giới thiệu – 8-2013. Nguồn HHNN +SK&ĐS 4. PHH sưu tầm 9 -2013. Nguồn SK&DS &Theo VnExpress 5. < http://tnmtvinhphuc.gov.vn/index.php/vi/news/Moi-truong/Tac-dong-cua-mot-sokhi-doc-den-suc-khoe-con-nguoi-71/ > 6. < https://sites.google.com/site/udthk36nguyenquochoc/-ung-dung-cua-halogen .> 7. < http://daitudien.net/y-hoc/y-hoc-ve-ngo-doc-brom.html > 8. 9. NGUỒN: SGK TRANG 143 Và 10. 11. < http://vi.wikipedia.org/wiki/Natri> 12. < http://vi.wikipedia.org/wiki/Kali > 13. 14. 15. 16. 17. nguồn: D. Cooling (3) 18. VII. PHỤ LỤC Đính kèm các biểu mẫu Phiếu khảo sát, Phiếu thăm dò, Phiếu lấy ý kiến; các bài tập, các bài giảng trong quá trình thực nghiệm; phim, ảnh, sản phẩm phần mềm và các sản phẩm khác thu được từ quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm,… 4 NGƯỜI THỰC HIỆN (Ký tên và ghi rõ họ tên) Ngô Thị Hồng Tìm hiểu hóa học quanh ta [1] 1. Vì sao các con tàu thường gắn một miếng kim loại Kẽm Zn ở đuôi tàu? 2. (H2N2)-Thân tàu biển được chế tạo bằng gang thép. Gang thép là hợp kim của sắt, cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên biển, thân tàu tiếp xúc thường xuyên với nước biển là dung dịch chất điện li nên sắt bị ăn mòn, gây hư hỏng. Để bảo vệ thân tàu thường áp dụng biện pháp sơn nhằm không cho gang thép của thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển. Nhưng ở phía đuôi tàu, do tác động của chân vịt, nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ. Do đó mà phải gắn tấm kẽm vào đuôi tàu. Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn điện hóa. Kẽm là kim loại hoạt động hơn sắt nên bị ăn mòn, còn sắt thì không bị mất mát gì. Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kì. Việc này vừa đở tốn kém hơn nhiều so với sửa chữa thân tàu. Áp dụng: Sự ăn mòn kim loại đặc biệt là ăn mòn điện hóa hàng năm gây tổn thất thật nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân. Con người luôn cố gắng tìm ra những phương pháp chống ăn mòn kim loại. Phương pháp điện hóa ( dùng Zn) để bảo vệ vỏ tàu biển như trên rất hiệu quả và được ứng dụng rất rộng rãi. Giáo viên có thể nêu vấn đề sau khi dạy xong bài “Ăn mòn kim loại”( Tiết 39-40 lớp 12) để cho học sinh giải thích nhằm giúp cho học sinh biết cách vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng trong cuộc sống. 3. Xăng máy bay có gì khác xăng thường? Xăng máy bay là nhiên liệu có chỉ số ốctan cao, được sử dụng cho các máy bay (hoặc dùng cho ôtô đua). Xăng máy bay trong tiếng Anh được viết tắt là Avgas (viết tắt của Aviation gasoline) để phân biệt với xăng Mogas (viết tắt của Motor gasoline) là các loại xăng sử dụng hàng ngày cho ôtô, xe máy. Xăng máy bay có tính bay hơi thấp hơn so với xăng Mogas và không bay hơi nhanh, đây là thuộc tính quan trọng để sử dụng ở các cao độ lớn. 5 Chỉ số ốctan cao thu được là nhờ sự bổ sung của tetraetyl chì (viết tắt tiếng Anh: TEL), một chất tương đối độc đã bị ngừng sử dụng cho ô tô ở phần lớn các nước trong những năm 1980. Thành phần dầu mỏ chính được sử dụng trong pha trộn xăng máy bay là alkylat, nó là hỗn hợp của các loại izôốctan khác nhau, và một số các nhà máy lọc dầu sử dụng cả reformat. Do TEL là một phụ gia khá đắt, một lượng cực tiểu của nó thông thường được thêm vào nhiên liệu để nó đạt chỉ số ốctan yêu cầu. Hiện xăng Avgas có 3 loại: Avgas 80/87, có ít chì nhất với hàm lượng tối đa là 0,5 gam chì trên 1 galông ("gallon"; 1 gallon = 3,785 lit), và nó được sử dụng trong các động cơ có tỷ số nén rất thấp; Avgas 100/130: là xăng máy bay có chỉ số ốctan cao hơn, chứa tối đa 4 gam chì trên 1 galông; Avgas 100LL: chứa tối đa 2 gam chì trên một galông, và là xăng máy bay phổ biến nhất. 100LL (LL trong tiếng Anh là ít chì) được tạo ra để thay thế cho Avgas 100/130. Để hỗ trợ phân biệt các loại xăng này, nhà sản xuất đã cho các chất nhuộm màu được thêm vào nhiên liệu. 80/87 có màu đỏ, 100/130 có màu xanh lục, và 100LL có màu lam, trong khi đó nhiên liệu máy bay phản lực, JET A1 thì không được nhuộm màu. 4. Thuỷ tinh có bị ăn mòn không? (H2N2)-Thuỷ tinh được xem là một vật liệu kỳ diệu vì khả năng chống ăn mòn cao. Không nói đến nước, chứ các loại axit rất mạnh như axit sunfuric, nitric, clohydric, và cả nước cường toan dùng để hoà tan vàng, thuỷ tinh cũng "chấp" hết đựng vạn năng, và đã bỏ vào đó axit flohydric. Không lâu sau, các bình này trở nên mờ đi. Tại sao vậy? Thì ra, axit fl. Có điều, người ta đã lầm khi nghĩ rằng thuỷ tinh không có đối thủ. Các nhà khoa học từng cho rằng thủy tinh là bình ohydic có thể tác dụng với silicat, thành phần chủ yếu của vật liệu làm bình. 6Axit flohydric tác dụng với silicat theo phản ứng sau: CaSiO3 + 6 HF = CaF2 + SiF4 + 3 H2O Do đó, thuỷ tinh bị ăn mòn. Phương pháp khắc, đánh dấu trang trí theo kiểu này được gọi là phương pháp khắc ăn mòn. Vì bình thuỷ tinh không đựng được axit flohydric, nên người ta phải tìm một vật liệu khác, đó là chì. Nguyên tố này trơ đối với axit flohydric. Ngày 6 nay, chất dẻo được thay thế cho chì để làm bình đựng vì nó khắc phục được tất cả các nhược điểm trên. 5. Làm thế nào để tranh sơn dầu hết đen? (H2N2)-Phòng triển lãm trưng bày nhiều bức họa vẽ cảnh tuyết bay, khoác lên vạn vật một màu trắng sống động. Nhưng sau nhiều năm, màu tuyết xỉn dần, tranh biến thành cảnh chết. Một nhà hoá học đến triển lãm, dùng bông tẩm hoá chất lau nhẹ mặt tranh. Cảnh tuyết hiện ra lung linh ngay sau đó. Nhà hóa học đã dùng dung dịch oxi hoá (nước oxy già - H202) để làm biến mất mầu đen trên bức tranh. Ông xử lý được "lỗi thời gian" này vì biết màu tuyết trắng trên bức tranh sơn dầu có thành phần là bột phấn chì (chì II oxit). Phấn chì thường là màu trắng, nhưng nó có thể tác dụng với khí hydro sunfua trong không khí tạo thành chì sunfua màu đen. Tuy nhiên, vì phản ứng xảy ra chậm, đồng thời, lượng khí hydro sunfua trong không khí ít, nên lượng chì sunfua tạo thành cũng không nhiều. Do vậy màu trắng trên bức họa chỉ bị sẫm màu mà không đen hẳn. Chỉ cần dùng dung dịch H202 lau qua bức tranh thì sẽ biến màu đen của chì sunfua thành phấn chì màu trắng. Hydro sunfua trong không khí xuất hiện khi chúng ta đốt nhiên liệu. Chẳng hạn trong than đá có từ 1-1,5 % lưu huỳnh, dầu mỏ cũng có lưu huỳnh. Khi đốt cháy nhiên liệu, lưu huỳnh tác dụng với oxi tạo thành hydro sunfua. Chất này cũng sinh ra trong quá trình thối rữa của động vật. 6. Khí CO2 trong khí quyển tồn tại và ảnh hưởng như thế nào? Hàng năm, một lượng lớn khí cacbonic (CO2) sinh ra trên trái đất, trong đó CO2 có nguồn gốc tự nhiên (núi lửa phun trào, sự phát thải của sinh vật…) là 600.000 triệu tấn, và có nguồn gốc từ hoạt động của con người (đốt nhiên liệu trong hoạt động sản xuất và đời sống) là 22.000 triệu tấn. Tuy sinh ra nhiều như vậy, nhưng sẽ có một lượng CO2 tương đương chuyển hoá sang dạng khác và tồn tại một cân bằng trong tự nhiên, các cân bằng này có liên kết mật thiết với các quá trình trên mặt đất, mặt biển và trong sinh vật. Như vậy, ngược lại với các quá trình phát sinh CO2, còn có quá trình “tiêu diệt CO2”. Đó là các quá trình quang hợp ở thực vật, quá trình hoà tan CO2 của nước (chủ yếu là nước biển), sự lắng đọng xác sinh vật giầu các bon (các loại vỏ đá vôi của sinh vật) và sự tạo thành hoá thạch… 7 Theo tính toán của các nhà khoa học CO2 sau khi hình thành trong khí quyển (dù có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo) đều có thể tồn tại từ 2 đến 4 năm. Trong thời kỳ tồn tại, CO2 đủ thời gian để phát tán suốt dọc vùng xích đạo và ảnh hưởng chung đến bầu khí quyển trái đất và gây ra hiệu ứng nhà kính, hấp thụ mạnh tia hồng ngoại. Theo dự báo của các nhà khoa học, vào năm 2050 nồng độ CO2 trong khí quyển sẽ vượt 0,06% thể tích (khoảng 10000 ppm), vào vào năm 2200 con số này sẽ là 0,07% thể tích (hiện tại là 0,035% thể tích hay 5.800 ppm) nếu như con người không có biện pháp giảm thải CO2. Khi nồng độ CO2 trong khí quyển tăng cao hơn nữa, có thể khí hậu sẽ có nhiều thay đổi bất lợi cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới và đe doạ sự sinh tồn của con người. 7. Giải thích hiện tượng "Ma trơi" (H2N2)-Hiện tượng “ma trơi” thường xuất hiện ở những vùng đầm lầy, nghĩa địa… Đó là hiện tượng xuất hiện những đốm lửa cháy sáng bay trong không khí. Bản chất của hiện tượng này được giải thích với sự tham gia của 2 chất khí đó là photphin(PH3) và diphotphin(P2H4), P2H4 là chất có khả năng tự cháy trong không khí, khi cháy nó tạo ra nhiệt lượng làm tăng nhiệt độ lên đến khoảng 1500C sau đó PH3 tiếp tục cháy và kết quả là xuất hiện “ngọn lửa ma trơi”. PH3, P2H4 xuất hiện do sự phân hủy xương, xác động thực vật ở khu vực như đầm lầy, nghĩa địa. Đó là nguồn photpho rất lớn để hình thành PH3,P2H4 bằng hoạt động của các vi khuẩn trong đất. Chúng tích tụ lại và khi gặp điều kiện thuận lợi thì bốc cháy. 8. Vì sao mà đom đóm lại có thể phát sáng được? Ánh sáng là một dạng năng lượng có thể tạo ra bằng cách chuyển hóa từ các dạng năng lượng khác sang. Thường thì chúng ta vẫn thấy ánh sáng nhân tạo đi từ việc đốt cháy một vật gì đó (nhiệt năng) hoặc sử dụng điện để làm sáng bóng đèn (điện năng). Tuy nhiên, đom đóm chẳng đốt cái gì và cũng không biết dùng điện nhưng lại có thể phát sáng vào những đêm hè. Nó dùng cách gì vậy nhỉ? Quá trình đom đóm tạo ra ánh sáng được gọi là quá trình phát quang sinh học (bio luminscence). Quá trình này xuất hiện trong nhiều sinh vật chứ không chỉ riêng đom đóm (ví dụ đối với các loài cá có khả năng phát sáng 8 ở dưới biển sâu). Phản ứng hóa học để phát ra ánh sáng là do một chất có tên gọi Adenosine Triphosphate (ATP), một chất hóa học có trong các tế bào sống dùng để lưu và chuyển hóa năng lượng. Đom đóm có các tế bào đặc biệt ở phần đuôi chứa một hợp chất hóa học gọi là luciferin và một enzyme là luciferase (dùng để làm chất xúc tác, đẩy nhanh thời gian phản ứng). Phản ứng hóa học của Luciferin và ATP cùng với oxy sẽ tạo ra hợp chất oxyluciferin và chính hợp chất này sẽ tạo ra ánh sáng của đom đóm. Tùy thuộc vào mức độ oxy nhiều hay ít mà đom đóm sẽ phát ra các ánh sáng màu xanh hoặc vàng. Ngày nay chúng ta có thể thấy hợp chất phát quang nhân tạo được sử dụng trong đồ chơi của trẻ em. Tuy vậy, hợp chất nhân tạo này chỉ có hiệu năng là 33% trong khi hiệu năng của quá trình phát quang sinh học đối với đom đóm là 88%. 9. Vì sao ở vùng núi có nhiều khoáng sản kim loại? Một điều thực tế là ở đồng bằng có rất ít khoáng sản kim loại. Vì thế, những nước đồng bằng tuy mạnh về nông nghiệp, nhưng lại thiếu các mỏ quặng đồng, sắt, kẽm... Bạn có biết vì sao kim loại lại hay xuất hiện ở vùng đồi núi không? Vùng đối núi là những khu vực bị nhô lên khi vỏ trái đất vận động. Tùy theo sự nhô lên của vỏ trái đất mà những dung nham nóng chảy (magma) vốn nằm sâu dưới lòng đất - có cơ hội nhô lên và hoạt động. Magma chứa một lượng lớn các muối của axit silic. Ngoài ra, magma còn chứa nhiều kim loại nóng chảy như vàng, đồng, chì, thiếc, molybden... Khi magma trào lên đến gần mặt đất, do nhiệt độ giảm, nó nguội đi, rắn thành đá peridot, đá hoa cương... Những đá rắn này chủ yếu do các muối của axit silic hợp thành. Còn các nguyên tố kim loại, khi gặp điều kiện nhiệt độ, áp lực thích hợp, thường phân ly khỏi magma, hình thành quặng khoáng sản kim loại. Các quặng này xuất hiện tương đối tập trung, hình thành mỏ. Chính vì thế, nguời ta hay tìm thấy khoáng sản kim loại ở vùng đồi núi. PHH sưu tâm,& giới thiệu 9 -2013 - Nguồn TK chinh H2N2. 9 Một số ứng dụng liên quan đến các Hóa chất độc hại Chất độc Sarin[2] A. Tổng quan về sarin và chất độc thần kinh 1/ chất độc Sarin Sarin, cũng được biết đến theo tên gọi của NATO là GB, là một chất độc thần kinh cực mạnh. Trong lĩnh vực quân sự, nó được dùng làm vũ khí hóa học và được Liên Hợp Quốc xếp vào loại Vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc sản xuất và tích trữ Sarin bị cấm bởi Hiệp định Vũ khí hoá học năm 1993. Tên khác: (RS)-O-isopropyl methylphosphonofluoridate Sarin có cấu trúc và tác động sinh lý tương tự như một số loại chất được sử dụng trong thuốc trừ sâu, như Malathion, carbamate, đồng thời có tác động sinh lý như Mestinon, Neostigmine và Antilirium được dùng trong y học. Ở nhiệt độ trong phòng, sarin là một chất lỏng không màu, không mùi Công thức hóa học là: công tức rút gọn : C4H10FO2P Sarin là một loại chất độc chiến tranh nhân tạo được phân loại là chất độc thần kinh. Các chất độc thần kinh là các chất có nồng độ độc hại cao nhất và phản ứng nhanh nhất trong số các loại hóa chất chiến tranh được biết tới. Các chất này tương tự như một số chất diệt côn trùng có tên gọi là organophosphates. Tên gọi này được hình thành dựa trên cách thức hoạt động và các ảnh hưởng có hại mà các chất này có thể gây ra. Tuy nhiên, các chất độc thần kinh thường dễ lây lan hơn nhiều so với chất các diệt côn trùng organophosphate. Sarin là một loại chất lỏng trong suốt, không màu, không mùi không vị ở dạng nguyên chất. Tuy nhiên, sarin có thể bay hơi thành khí và phát tán vào trong không khí. Chất độc Sarin và các chất độc thần kinh khác có thể đã được sử dụng làm hóa chất chiến tranh trong Cuộc Chiến Tranh Iran-Iraq vào những năm 1980. Chất khí sarin cũng được sử dụng trong hai cuộc tấn công khủng bố 10 tại Nhật Bản vào năm 1994 và 1995…Bây giờ đến lượt cuộc chiến tranh khủng bố hóa học tại Syria được thực hiện bằng vũ khí chất độc hóa học sarin cũng đã các nhà khoa học xác định trong thời gian vừa qua. Nạn nhân của chất độc HH tại Syrya năm 2013 2/ Một số chất đọc HH tác động hệ thần kinh Vũ khí hóa học hiện đại có xu hướng tập trung vào liều lượng nhỏ nhưng vẫn có khả năng gây ra những cuộc thảm sát số lượng lớn. Nhiều loại được điều chế từ các chất hóa học có trong thuốc trừ sâu. Bên cạnh đó các loại vũ khí hóa học không cần tên lửa hoặc đầu đạn để tấn công một thành phố như những gì bạn thấy trên phim ảnh. Một cuộc khủng bố tại Tokyo năm 1995, khí độc sarin đã được phát tàn chỉ bằng một chiếc hộp nhỏ có hẹn giờ, làm hàng ngàn người bị thương và 12 người thiệt mạng. • Khí Sarin tác động trong khoảng 5 đến 12 tiếng, nếu bạn hít phải 100mg sarin bạn có thể chết chỉ trong vòng 1 phút. • Cyclosarin, cũng giống như Sarin, Cyclosarin là một chất độc thần kinh, nó có tác động tương tự nhưng mức độ ảnh hưởng của nó cao gấp 2 lần khí sarin. Với 35mg khí Cyclosarin cũng đủ để khiển một người trưởng thành chết trong chưa đầy 1 phút. • Soman cũng là một chất độc thần kinh, Soman có tác động nhanh gấp 100 lần khí Sarin. Liên Xô đã từng dự trữ khí Soman trong những năm 1960. VX là vũ khí hóa học dạng lỏng, độc hơn khí Sarin gấp 10 lần. 10mg VX dính trên da là đủ để giết chết một người. Mỹ đã từng sản xuất loại vũ khí hóa học này trong những năm 1950 và 1960. • 11 So sánh công thức HH của một số chất độc TK có lân hữ cơ 2/ Tính chất độc hại của Sarin Đường lây nhiễm chất độc Con người có thể bị nhiễm chất độc hóa học sarin sau khi chất độc này bị phát tán, lan tỏa vào trong không khí; ngoài ra cũng có thể bị nhiễm chất độc độc qua đường tiếp xúc ở da và niêm mạc mắt. Nếu trong không khí có chứa chất độc sarin, con người có thể vô tình bị nhiễm độc do hít thở phải không khí qua đường hô hấp. Do chất độc hóa học sarin dễ hòa tan trong nước nên chúng có thể được sử dụng để gây nhiễm độc cho nguồn nước uống và sinh hoạt. Sau khi chất độc sarin phát tán, hòa tan vào trong nguồn nước; nếu người uống phải nguồn nước này hoặc tắm rửa, tiếp xúc với nước ô nhiễm chất hóa học có thể bị nhiễm độc. Đối với các loại thực phẩm bị nhiễm chất độc sarin, con người ăn phải thực phẩm này cũng có thể bị nhiễm độc qua đường tiêu hóa. Ngoài ra, sau khi tiếp xúc với hóa chất độc hại, quần áo đang mặc trên người có khả năng nhiễm chất độc và phát tán, phóng thích chất sarin trong khoảng 30 phút ra môi trường chung quanh, lây lan chất độc này sang cho những người khác. Do chất độc hóa học sarin phân hủy chậm trong cơ thể người bị nhiễm độc sau khi tiếp xúc nên đối với những người có tiếp xúc với chất độc này nhiều lần sẽ có nguy cơ gặp nhiều ảnh hưởng khác nghiêm trọng, có hại cho sức khỏe nhiều hơn. Cũng do đặc điểm chất độc nặng hơn không khí 12 nên sarin sẽ lắng đọng xuống các khu vực thấp trũng và làm tăng nguy cơ tiếp xúc của chất độc đối với con người sống ở những khu vực này. Tác dụng gây độc của chất sarin Mức độ cơ thể con người bị nhiễm chất độc sarin tùy thuộc vào lượng hóa chất đã tiếp xúc, cách thức tiếp xúc và khoảng thời gian tiếp xúc. Các triệu chứng bệnh lý thường xuất hiện chỉ sau vài giây khi con người tiếp xúc với chất sarin ở dưới dạng khí và khoảng chừng vài phút cho đến 18 giờ sau khi tiếp xúc với hóa chất dưới dạng lỏng. Tất cả các chất gây độc hệ thần kinh đều có ảnh hưởng độc hại do chúng ngăn chặn hoạt động bình thường của cơ chế kiểm soát hoạt động của các tuyến và cơ bắp trong cơ thể. Do không kiểm soát được hoạt động bình thường, các tuyến và cơ bắp liên tục bị kích thích; vì vậy chúng trở nên mệt mỏi và không còn duy trì được khả năng hô hấp, gây nguy hại cho người bị nhiễm độc. Sarin là chất hóa học dễ bay hơi nhất trong số các chất gây độc thần kinh, vì vậy chất độc này thường được sử dụng làm vũ khí hóa học vì chúng dễ bay hơi nhanh chóng từ dạng lỏng sang dạng khí và phát tán, lan tỏa dễ dàng vào trong môi trường. Do đó con người có thể tiếp xúc với chất khí sarin ngay cả khi không tiếp xúc với chất sarin dưới dạng lỏng. Với đặc điểm có khả năng bay hơi nhanh trong không khí nên chất độc hóa học sarin có thể gây nên mối nguy hiểm tức thì, tuy nhiên sự nguy hại này chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Biểu hiện triệu chứng và hậu quả nhiễm độc Do chất độc hóa học sarin có đặc điểm trong suốt, không màu, không mùi, không vị nên người dù có tiếp xúc cũng không thể biết được mình đã tiếp xúc với loại chất độc này. Những người tiếp xúc với chất độc hóa học sarin ở mức độ nhẹ hoặc vừa phải do hít thở không khí có chất độc vào phổi, ăn phải các loại thực phẩm hoặc uống nguồn nước bị nhiễm chất độc; để da và niêm mạc tiếp xúc chạm vào các bề mặt có dính chất độc... đều có thể bị nhiễm độc. Người bị nhiễm chất độc sarin có thể biểu hiện một triệu chứng, vài ba triệu chứng hoặc tất cả các triệu chứng nhiễm độc trong vòng từ vài giây cho đến nhiều giờ sau khi tiếp xúc. Các triệu chứng được ghi nhận là chảy nước mũi, chảy nước mắt, có những nốt lấm chấm nhỏ ở trên da; đau mắt, giảm thị lực; chảy nhiều nước bọt và ra mồ hôi nhiều hơn bình thường; ho, tức ngực, nhịp thở nhanh; đi tiêu chảy, tiểu tiện nhiều hơn; có hiện tượng lẫn lộn, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu; buồn nôn, nôn mửa và đau bụng; nhịp tim đập chậm hoặc nhanh hơn bình thường; huyết áp cao hoặc thấp... Chất sarin được xem là một chất độc hóa học khá độc hại vì chỉ cần một giọt chất độc bám trên da cũng có thể gây toát mồ hôi và xoắn cơ ở vùng tiếp xúc. Đối với cơ thể con người, khi tiếp xúc với một lượng chất độc sarin cao dù theo bất kỳ đường xâm nhập nào đều có thể gây ra những ảnh 13 hưởng trầm trọng, nguy hại đến sức khỏe như bất tỉnh, lên cơn co giật, tê liệt cơ, suy hô hấp và có khả năng dẫn đến tử vong. Các triệu chứng bệnh lý và dấu hiệu nhiễm độc không nhất thiết là do người bệnh đã từng tiếp xúc với chất sarin. Hậu quả khi bị nhiễm độc chất sarin để lại cho con người có ảnh hưởng khác nhau tùy theo mức độ. Những người tiếp xúc với sarin ở mức độ nhẹ và vừa phải thường bình phục trở lại hoàn toàn sau khi chất độc được đào thải khỏi cơ thể. Tuy vậy, hầu hết những người tiếp xúc với hóa chất ở mức độ nặng và nghiêm trọng thì ít có khả năng qua khỏi và có nguy cơ tử vong. Thực tế cho thấy chất độc hóa học sarin mặc dù tương tự như các hóa chất diệt côn trùng thuộc nhóm lân hữu cơ (organo phosphates) nhưng chưa có bằng chứng nào ghi nhận các chất độc thần kinh có liên quan đến các vấn đề về thần kinh kéo dài hơn một đến hai tuần sau khi tiếp xúc. Biện pháp phòng ngừa nhiễm độc Các nhà khoa học đã khuyến cáo biện pháp điều trị có thể giúp con người bị nhiễm độc phục hồi lại sức khỏe sau khi tiếp xúc với chất độc hóa học sarin trong chiến tranh khủng bố hóa học nhưng phải sử dụng các loại thuốc đặc hiệu kháng độc có sẵn tại chỗ và dùng kịp thời mới có hiệu quả mong muốn. Do đó việc phòng ngừa nhiễm độc vẫn là biện pháp tốt nhất để đề phòng bằng cách rời xa ra khỏi khu vực nghi ngờ có chất độc sarin lan tỏa, phát tán ra môi trường để đến nơi có không khí trong lành. Thực tế cho thấy việc nhanh chóng di chuyển tới khu vực thoáng khí, an toàn sẽ giúp ích rất nhiều trong việc giảm bớt những nguy cơ tử vong do tiếp xúc với chất độc hóa học sarin. Nếu chất sarin bị phát tán ở bên ngoài nhà, cần tránh xa khu vực có phát tán chất độc hại. Nên cố gắng di chuyển đến khu đất càng cao càng tốt vì tỷ trọng chất độc sarin nặng hơn không khí nên thường đọng xuống ở các khu vực thấp trũng. Nếu chất sarin phát tán ở bên trong nhà, phải nhanh chóng rời khỏi căn nhà đó. Trong những trường hợp nghi ngờ đã tiếp xúc và bị nhiễm chất độc sarin, nên cởi bỏ ngay quần áo, cần nhanh chóng tắm rửa toàn thân bằng nước sạch với xà phòng và đến cơ sở y tế kịp thời để theo dõi, điều trị càng sớm càng tốt. Việc cởi và vất bỏ nhanh chóng quần áo đang mặc là điều cần thiết, nhất là khi quần áo có dính chất độc sarin. Nếu mặc loại áo chui đầu, cần dùng kéo cắt phần thân áo để cởi bỏ, không nên chui đầu qua áo. Quần áo cởi bỏ phải cho vào túi ny lông và đóng kín, sau đó bỏ chiếc túi ny lông này vào chiếc túi ny lông thứ hai với mục đích sẽ giúp tránh tiếp xúc với bất kỳ loại hóa chất nào đó đã dính trên quần áo. Sau khi bỏ quần áo vào túi ny lông, phải thông báo ngay cho cơ sở y tế tại địa phương và nhân viên cấp cứu khi đến hiện trường; đồng thời không được chạm đến các túi ny lông đó. Nếu giúp người khác cởi bỏ quần áo, nên cố gắng tránh đụng chạm vào bất cứ vùng 14 nào trên cơ thể nạn nhân đã bị nhiễm chất độc sarin và cởi bỏ áo quần càng nhanh càng tốt. Việc tắm rửa toàn thân nhằm mục đích loại bỏ chất độc sarin bám trên da cần được thực hiện nhanh chóng với phương pháp dùng nhiều xà phòng và nước sạch. Dùng xà phòng và nước để tắm rửa sẽ giúp cơ thể bảo vệ, loại bỏ bất kỳ loại hóa chất nào đó dính trên người, trong đó có chất độc sarin. Trong một số trường hợp, cần xối rửa mắt bằng nước sạch trong khoảng thời gian từ 10 đến 15 phút nếu mắt có cảm giác bỏng rát hoặc giảm thị lực do nhiễm chất độc. Đối với những nạn nhân nuốt phải chất độc hóa học sarin, điều cần chú ý là không nên gây ói mửa hoặc cho uống chất lỏng vì sẽ tạo điều kiện cho chất độc lan tỏa, phát tán đến nhiều chỗ khác. Phải gọi điện thoại báo tin cho đơn vị cấp cứu y tế và đến ngay cơ sở y tế để được theo dõi, điều trị, xử trí phù hợp. Biện pháp điều trị tốt nhất khi phát hiện nạn nhân bị nhiễm chất độc hóa học sarin là tìm mọi cách loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể càng nhanh càng tốt, đồng thời thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc y tế một cách đầy đủ tại các bệnh viện. Cần sử dụng các loại thuốc kháng chất độc sarin có hiệu quả, các loại thuốc này chỉ có hiệu lực điều trị khi cho nạn nhân sử dụng sớm và kịp thời ngay sau khi tiếp xúc với chất độc. Với những tác hại nguy hiểm của chất độc sarin được dùng trong chiến tranh khủng bố hóa học đã được các nhà khoa học xác nhận. Việc sử dụng loại vũ khí này đã và đang bị cộng đồng các dân tộc trên toàn thế giới phản ứng khá mạnh mẽ. Vì vậy biện pháp phòng ngừa nhiễm chất độc là cách tốt nhất để đề phòng khi có yếu tố nghi ngờ và điều quan trọng nhất là các quốc gia trên thế giới cần cam kết không sử dụng vũ khí hóa học để can thiệp khi có sự xung đột vũ trang hay chiến tranh khủng bố vì tính chất nguy hại của đó đối với con người, đối với cộng đồng người dân. PHH sưu tầm & biên chỉnh 9 – 2013 .Nguồn: phần A theo internet; B theo BS. Nguyễn Võ Hinh 15 16 CHẤT ĐỘC HÓA HỌC VÀ CHẤT ĐỘC DA CAM [3] BS Phạm Huy Hoạt sưu tầm và giới thiệu – 8-2013. Nguồn HHNN +SK&ĐS Chất độc hóa học dùng trong chiến tranh đã có lịch sử từ lâu, nhưng hiện nay vẫn còn đang là vấn đề thời sự với thế hệ chúng ta. Đó là giải quyết hậu quả của chất độc hóa học mà Mĩ dùng ở chiến trường Miền Nam. Trên thế giới, hiên nay cũng còn các lò lửa chiến tranh, nơi đó “Vũ khí hóa học”, măc dù bị cấm nhưng vẫn bị nhiều phía lén lút sử dụng. Học hóa học, mời các bạn tham khảo tài liệu này Tiêu hủy chất độc sau chiến tranh 17 18 19 64 thùng chất độc CS trên địa bàn của Huyện Ia Grai, Chư Pah, Đăk Pơ. Đây là số chất độc hóa học trong số 9.000 tấn mà Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 72 triệu lít chất độc Mĩ rải ở VN 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan