Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận xã hội dạng đề mở...

Tài liệu Skkn hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận xã hội dạng đề mở

.DOC
39
1006
96

Mô tả:

SÔÛ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO ÑOÀNG NAI Ñôn vò: Tröôøng THPT Chuyên Lương Thế Vinh Maõ soá:…………………… SAÙNG KIEÁN KINH NGHIEÄM HÖÔÙNG DAÃN HOÏC SINH LAØM VAÊN NGHÒ LUAÄN XAÕ HOÄI DAÏNG ÑEÀ MÔÛ Ngöôøi thöïc hieän: Traàn Thò Chaâu Thöôûng Lónh vöïc nghieân cöùu: Quaûn lyù giaùo duïc: Phöông phaùp daïy hoïc boä moân: Ngöõ Vaên Phöông phaùp giaùo duïc: Lónh vöïc khaùc: Coù ñính keøm: Moâ hình Phaàn meàn Phim aûnh Hieän vaät khaùc Naêm hoïc: 2012 – 2013 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Trần Thị Châu Thưởng 2. Ngày tháng năm sinh: 04-10-1964 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: R317, đường A3, Võ Thị Sáu, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 5. Điện thoại (NR): 0613.600660 6. Fax: 7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn tổ Ngữ văn 8. Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị: Tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Năm nhận bằng: 1986 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Ngữ văn bậc THPT Số năm kinh nghiệm: 27 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: +, Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy văn nghị luận theo chương trình và sách giáo khoa mới, bậc trung học phổ thông, 2007. +, Nghị luận xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2009;… +, Chuyên đề: Nguyễn Minh Châu – cuộc đời và sự nghiệp văn chương, 2009. +, SKKN: Học theo dự án – Kết hợp học và du khảo về văn hóa Đồng Nai, 2010. +, SKKN: Một số kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn, 2011. +, SKKN: Mấy vấn đề về việc dạy học tác phẩm “Vũ Như Tô” và trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng, 2012. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Tư tưởng và mục đích của hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Với tinh thần này, Chương trình và sách giáo khoa hiện hành đã có nhiều đổi mới về cách kiểm tra, đánh giá. Một trong những phương diện đổi mới là việc chú trọng văn nghị luận xã hội (NLXH). Đây là một cách rất tốt hình thành cho học sinh – những công dân trẻ của đất nước tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, suy nghĩ sâu sắc trước mọi vấn đề của cuộc sống. Bên cạnh đó, để tăng cường tính chủ động, tích cực của học sinh (HS), việc ra đề văn NLXH theo hướng mở ngày càng được xã hội đồng tình, nhiều giáo viên (GV) tích cực đổi mới cách ra đề. Ưu điểm của lối ra đề NLXH theo hướng mở là rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo và gây hứng thú cho học sinh. Kết quả chúng ta đã có những bài viết thể hiện suy nghĩ riêng, độc đáo và chân thực của học sinh được đăng tải trên báo và các phương tiện thông tin đại chúng. 2. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay việc ra đề NLXH theo hướng mở và viết bài văn theo đề mở là vấn đề mới và còn nhiều khó khăn đối với giáo viên và học sinh. Một số giáo viên vẫn chưa khuyến khích ý tưởng riêng, có cá tính được thể hiện trong bài viết của học sinh, mà chỉ đi theo những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên hoặc suy nghĩ chủ quan của bản thân. Nhiều GV tâm đắc với việc ra đề NLXH theo hướng mở nhưng lại cảm thấy lúng túng trong cách hướng dẫn học sinh làm tốt dạng đề này. Một số học sinh không thích đề mở vì quen với lối làm văn máy móc, rập khuôn theo mẫu có sẵn hoặc theo đúng ý thầy cô đã truyền thụ. Những học sinh hứng thú với đề mở lại xuất phát từ quan niệm chưa đúng. Các em cho đề mở là nghĩ gì viết nấy, dẫn đến lối viết tùy tiện không đáp ứng đúng yêu cầu của một bài văn nghị luận. 3. Xuất phát từ công việc giảng dạy của một giáo viên ở bậc THPT và từ thực tế trên, chúng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm: HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ nhằm làm rõ thêm quan niệm về đề mở và một số hoạt động dạy học giúp học sinh làm tốt dạng đề này. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận - Trong bài viết Đề mở - Nhận dịện và cách làm (Tài liệu chuyên văn), PGS. TS Đỗ Ngọc Thống đã dẫn lại ý kiến của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Dạy Làm văn chủ yếu là dạy cho HS diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục). Từ đó, ông Đỗ Ngọc Thống nhận xét: Đó là những tư tưởng rất quan trọng, làm cơ sở cho việc xác định phương hướng dạy Làm văn nói chung và dạy Làm văn ở THPT nói riêng. Để hiện thực hóa tư tưởng đó, trước hết cần hình thành và rèn luyện năng lực chủ động và linh hoạt trong việc làm bài văn. - GS. TS Trần Đình Sử, một trong hai Tổng Chủ biên của bộ sách giáo khoa mới, trong bài Đề mở trong dạy – học Làm văn (Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ số 1 năm 2012) đánh giá: Đề mở là một hướng tiến bộ trong dạy học Làm văn, nhưng vẫn đang là một vấn đề mới, chưa được nghiên cứu sâu, còn có những khía cạnh chưa rõ, phải qua thực tiễn thì mới nhìn thấy hết được. Vấn đề này đòi hỏi các giáo viên nghiên cứu, suy nghĩ, nhìn thấy chỗ mạnh, chỗ khó, thậm chí chỗ yếu của nó, nghiên cứu phương pháp dạy học phù hợp thì phương hướng này mới phát huy được tác dụng tích cực của nó. - Như vậy, có thể nói, việc dạy – học Làm văn theo đề mở là một hướng đi đúng đắn và tích cực. Tuy nhiên, làm thế nào để hình thành và rèn luyện năng lực chủ động và linh hoạt trong việc làm bài văn? Làm thế nào để có phương pháp dạy học phù hợp và phát huy được tác dụng tích cực của nó, là những vấn đề mà người thầy giáo cần quan tâm và cần có một quá trình để thực hiện. - Tìm hiểu những bài viết bàn về việc hướng dẫn cách làm đề mở nói chung, đề NLXH theo hướng mở nói riêng, chúng tôi nhận thấy, các tác giả chỉ mới đề cập đến các bước như: tìm ý, lập dàn ý,… (Đỗ Ngọc Thống - TLĐD). Ngay cả cuộc thi Ra đề và viết văn theo hướng mở của Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ tổ chức từ 1/4/2011 cho đến nay cũng chỉ mới dừng lại ở việc giáo viên ra đề và gợi ý cách làm bài. Là người trực tiếp đứng lớp, chúng tôi nhận thấy, để làm tốt bài văn NLXH theo hướng mở, HS cần có một quá trình rèn luyện. Bắt đầu từ việc tích lũy vốn sống. Sau đó là có thói quen suy nghĩ về những vấn đề đạo lí, có chính kiến trước một tư tưởng, hình thành những quan niệm sống, biết trăn trở và có cái nhìn đa chiều trước mọi hiện tượng, sự việc của cuộc sống. Cuối cùng là cách bày tỏ những hiểu biết, suy nghĩ của bản thân trên trang giấy một cách thuyết phục, hấp dẫn. Đây chính là những nội dung chính chúng tôi trình bày trong SKKN này. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1. Nghị luận xã hội dạng đề mở: quan niệm và dạng thức 2.1.1. Đề nghị luận theo quan niệm truyền thống Trong quan niệm truyền thống, một đề văn nghị luận xã hội thường có hai phần: phần nêu vấn đề cần nghị luận và phần yêu cầu kiểu bài (tức thao tác lập luận). Nói cách khác, đó là dạng đề mệnh lệnh. Trong đề bài, không chỉ nêu vấn đề cần nghị luận mà cả yêu cầu thực hiện (mệnh lệnh) như: suy nghĩ, bình luận, giải thích, chứng minh,…Ví dụ các đề văn sau: - Đề 1: Nhà thơ Pháp La Phôngten có nói: “Tính ích kỉ là thuốc độc giết chết tình bạn”. Hãy bình luận câu nói trên. (Làm văn 10 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) - Đề 2. Giải thích câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”. (Làm văn 10 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) - Đề 3: Nhà bác học Đacuyn nói về kinh nghiệm thành công của mình như sau: “Tôi nghĩ rằng tất cả những gì có giá trị một chút, tôi đều đã thu nhận được bằng cách tự học”. Bình luận câu nói trên. Em có suy nghĩ gì về con đường học tập sắp tới của mình. (Làm văn 12 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) Rõ ràng, những đề văn vừa nêu trên đều yêu cầu học sinh viết về một vấn đề cụ thể (tính ích kỉ giết chết tình bạn; uống nước nhớ nguồn, …), cùng sử dụng một hoặc hai thao tác lập luận (bình luận; giải thích; …) và dĩ nhiên là cùng một phương thức biểu đạt – văn nghị luận. Mặt khác, vấn đề nghị luận thường là một chân lí đã được thừa nhận (tác hại của tính ích kỉ; đạo lí truyền thống của dân tộc,…), học sinh thường không cần phản biện, chỉ việc làm rõ hay minh họa tính đúng đắn tư tưởng ấy. Về phía giáo viên, khi ra đề nghị luận cũng chỉ có một đáp án duy nhất dùng để chấm bài cho học sinh. Có thể, cách ra đề văn NLXH truyền thống sẽ tiện lợi cho người giáo viên và phần nào “dễ” hơn cho học sinh. Tuy nhiên, đúng như nhận xét của giáo sư Hoàng Như Mai viết: Cách ra đề các kì thi văn của chúng ta hiện nay còn khá khô cứng... Ra đề thi phải khơi dậy những suy nghĩ riêng đồng thời phải rèn luyện cho HS óc phê phán, nhìn vấn đề trên nhiều mặt. Cần tránh kiểu ra đề suôn sẻ, dạng thỏa hiệp một chiều (Sự rung cảm và sáng tạo của học sinh có nguy cơ mòn; Tạp chí Dạy và Học ngày nay số 6 – 2005). 2.1.2. Quan niệm về đề mở Năm 2006, Chương trình và sách giáo khoa mới đã có nhiều đổi mới trong cách kiểm tra, đánh giá học sinh, trong đó có sự đổi mới quan niệm về đề văn. Nhằm kích thích suy nghĩ phong phú, đa dạng của nhiều đối tượng học sinh, xu hướng ra đề văn nghị luận xã hội theo hướng mở ngày càng trở nên phổ biến. Theo chúng tôi, khái niệm đề mở được sử dụng trong sự so sánh với đề đóng hay đề truyền thống. - Đề đóng là đề có yêu cầu rõ ràng, cụ thể về nội dung vấn đề nghị luận; thao tác lập luận và cả phạm vi, tư liệu (giới hạn). - Đề mở là loại đề hoặc chỉ nêu vấn đề cần nghị luận, không nêu yêu cầu về thao tác lập luận (như: hãy chứng minh, giải thích, bình luận,...) cũng như giới hạn của đề. Ví dụ: Câu tục ngữ:“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” thời nay có còn phù hợp? - Đề mở cũng có thể là loại đề mà nội hàm của vấn đề nghị luận tùy thuộc vào sự nhận thức của người viết. Ví dụ:  Thinh lặng là quê hương của kẻ mạnh.  Vì sao mà tôi sống trên đời ? Tất cả các loại đề mở đều không áp đặt tính chân lí – cụ thể đối với học sinh khi nghị luận về một vấn đề nào đó, cũng không bó buộc người viết trong một khung hình thức thể hiện nhất định. 2.1.3. Các dạng đề mở thường gặp: Theo GS. TS Trần Đình Sử (Tlđd), có ba dạng đề mở thường gặp là: a, Đề cho đề tài: Đề chỉ cung cấp một đề tài chung, HS có thể cụ thể hóa thành đề mục hay nhan đề của bài viết. Ví dụ đề cho HS lớp 10: - Đề 1: Suy nghĩ về ngọn lửa. - Đề 2: Hãy viết bài văn về chủ đề người chiến thắng. - Đề 3: Suy nghĩ từ hạt giống. b, Đề cho tài liệu Đề cung cấp một bức tranh hoặc ảnh, hoặc một câu chuyện, một mẩu tin trên báo, HS tự chọn lấy vấn đề, chủ đề để viết bài văn. Ví dụ đề cho HS lớp 12: - Đề: Chọn một trong ba tài liệu dưới đây làm bài theo yêu cầu bên dưới: a. Báo Dương Thành buổi tối (Quảng Châu) tường thuật, khoảng 17g30 ngày 13-10-2010, tại một con đường nhỏ ở Quảng Phật Ngũ Kim Thành thuộc quận Nam Hải ở Phật Sơn, bé gái Duyệt Duyệt 2 tuổi đang lững thững đi ra đường đã bị một xe hơi loại bảy chỗ tông phải và cán lên phần gần đầu của bé. Lúc này bé Duyệt Duyệt còn cử động, tài xế cho xe dừng lại vài giây rồi thản nhiên cho xe chạy tiếp và bánh sau lại nghiến nát một phần thân thể bé gái. Chỉ vài phút sau, một chiếc xe tải nhỏ tiếp tục cán nát đôi chân bé gái này. b. Cậu bé 14 tuổi xả thân cứu người. Đây là lần thứ 3 Nguyên cứu người, lại là lần định mệnh cướp đi sinh mạng của em. Cả xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, những ngày qua xôn xao về sự ra đi của cậu học trò Trường THCS Bình Chánh. Trưa 8-9, sau khi tập tành múa lân đón tết Trung thu, nhóm trẻ khoảng 10 đứa rủ nhau đi tắm ao để giải nhiệt. Em Phạm Văn Thơ, học sinh lớp 6, không biết bơi lại lội ra xa cách bờ khoảng 3m thì sụp hố sâu đuối nước. “Trong khi em vùng vẫy thì được anh Nguyên cứu vào bờ”, cậu bé kể rồi khóc: “không ngờ ảnh kiệt sức...”. Người lớn đã cấp tốc đưa Nguyên đến Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi để cấp cứu, song em kiệt sức lịm dần, rơi vào hôn mê sâu và không bao giờ tỉnh lại nữa... c. “Hiệp sĩ đường phố” lập công ba ngày liên tiếp. Đây là vụ thứ ba liên tiếp trong ba ngày “hiệp sĩ đường phố” lập công. Hai ngày trứơc, anh Tiến cũng đã bắt hai tên cướp giật dây chuyền trên đường Tô Hiến Thành. Sau đó, đôi trộm giàn giáo công trình ở quận 11 cũng bị anh bắt quả tang. Ngưỡng mộ thành tích hàng trăm lần bắt cuớp của anh Tiến, nhiều người đã xin được làm “đệ tử” của anh, cùng anh rong ruổi trên khắp các tuyến đường Sài Gòn để bắt tội phạm. Hiện nay, nhóm”hiệp sĩ đường phố” có khoảng chục người. Đọc kĩ tài liệu đã chọn, tự xác định đề mục, viết bài làm văn nghị luận, biểu cảm không quá 800 chữ. (Trần Đình Sử: Đề mở trong dạy – học làm văn, trong Tạp chí Văn học và tuổi trẻ số 1 năm 2012) c, Đề cho học sinh điền vào chỗ trống: Đề đưa ra mệnh đề còn bỏ trống, HS điền vào chỗ trống để thể hiện quan niệm của bản thân. Ví dụ đề cho HS lớp 11: - Đề 1: Hạnh phúc là... - Đề 2: Tôi ước mong... 2.1.4. Đề mở có nhiều lựa chọn: Ngoài những dạng đề trên, theo chúng tôi, cần có thêm dạng Đề nhiều lựa chọn. Với dạng đề này, HS vừa được gợi ý, vừa tự do lựa chọn hướng giải quyết theo suy nghĩ của bản thân. Đây cũng là cách hình thành cho HS độc lập suy nghĩ, thói quen nhìn cuộc sống ở nhiều góc độ và rèn luyện tư duy phản biện cho các em. Ví dụ đề cho HS lớp 12: - Đề 1: Phát biểu ý kiến về lối sống sành điệu của một bộ phận thanh niên hiện nay. - Đề 2: Con người sinh ra đã có tính hưởng thụ. Anh/ chị có đồng ý không? Theo anh/ chị tính hưởng thụ là tốt hay xấu? - Đề 3: Internet – ông thầy không mời mà đến – đang là mối bận tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Ý kiến của anh/ chị về vấn đề này. - Đề 4: Nhà sư phạm nổi tiếng V.A. Xu-khôm-lin-xki có viết: “Niềm tin và thế giới xúc cảm của con người có đạo đức đúng đắn, tâm hồn đẹp đẽ được xây dựng trên cơ sở khinh bỉ những điều không xứng đáng”. Theo anh (chị), đối với một con người có đạo đức và tâm hồn đẹp đẽ, những điều gì là không xứng đáng ? 2.2. Nghị luận xã hội dạng đề mở: tác dụng và yêu cầu 2.2.1. Tác dụng Việc ra đề mở trong nghị luận xã hội có nhiều tác dụng đối với học sinh: - Đề mở khuyến khích tối đa sự sáng tạo, cách cảm thụ, sự linh hoạt của người viết, rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh trước một vấn đề tư tưởng, đạo lí hay một hiện tượng, sự việc trong đời sống. - Đề mở tạo cơ hội cho học sinh có dịp bộc lộ tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của cá nhân, đề xuất những ý kiến về cuộc sống, xã hội với những trải nghiệm của bản thân. - Đề mở rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy phản biện xã hội, biết xem xét một vấn đề, một sự việc, hiện tượng trên nhiều bình diện khác nhau. - Đề mở tạo điều kiện cho người viết có những suy nghĩ trẻ trung, cảm xúc tươi mới, và quan trọng hơn, là thể hiện phẩm chất của con người thành thực, dám nghĩ và dám viết. Với đề mở, tình trạng học tủ, học vẹt, sao chép văn mẫu trong học sinh cũng sẽ bị hạn chế. Đối với giáo viên, việc ra đề mở trong nghị luận xã hội cũng có những tác dụng trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn Làm văn nói riêng: - Đề mở có tác dụng giúp phân hóa trình độ học sinh trong kiểm tra, đánh giá. - Từ những tác dụng đối với học sinh khi làm văn, đề mở trong nghị luận xã hội góp phần tác động đến cả việc đổi mới giảng dạy và học tập ở bộ môn Ngữ văn. - Đề mở không chỉ tạo hứng thú cho học sinh trong khi nghị luận mà còn tạo hứng thú cho cả giáo viên khi ra đề cũng như chấm bài. Dĩ nhiên, trên đây là những tác dụng tích cực của đề nghị luận xã hội theo hướng mở. Nói thế, không có nghĩa đối với dạng đề này không có những khó khăn, thậm chí phức tạp nhất định trong quá trình giảng dạy. Điều đó càng không có nghĩa là chỉ nên ra mỗi một loại đề không mệnh lệnh (đề mở), bỏ hẳn loại đề mệnh lệnh (đề đóng) trong nghị luận xã hội. 2.2.2. Yêu cầu Việc ra đề / làm bài / chấm bài nghị luận xã hội theo dạng mở không chỉ mới mẻ mà còn là loại đề khó. Vì thế, học sinh và giáo viên cần nắm vững một số yêu cầu khi dạy học và làm văn: 2.2.2.1. Về phía học sinh: - Đề mở thường không nêu rõ các phương thức biểu đạt, thao tác lập luận, không có gợi ý về phạm vi, tư liệu, không có nghĩa là học sinh sẽ viết một cách tùy tiện. Trái lại, người viết phải hiểu rõ vấn đề từ nghĩa tường minh đến nghĩa hàm ẩn. Từ đó, lựa chọn và định hướng viết sao cho bài văn thể hiện được suy nghĩ sâu sắc, lối viết sáng tạo, có tính thuyết phục đối với người đọc theo hướng tích cực. Điều đó có nghĩa, chính người viết phải tự xác lập được phương thức biểu đạt, thao tác lập luận và phạm vi vấn đề nghị luận. - Đề mở không chỉ có tính mở về phương thức biểu đạt, thao tác lập luận hay phạm vi, tư liệu, mà đôi khi tính mở lại thể hiện ngay ở vấn đề cần nghị luận. Do đó, người viết cũng phải xác định nội hàm của vấn đề, dự liệu hướng yêu cầu của người ra đề. 2.2.2.2. Về phía giáo viên: - Đề ra theo hướng mở cần chọn được vấn đề mở, đặt người viết trước một tình huống bất ngờ, đa chiều, gợi được hứng thú làm bài cho học sinh. Vấn đề đặt ra vừa có chất văn, khơi gợi được cảm xúc, vừa gắn với cuộc sống, thường là những vấn đề xã hội và các em đang quan tâm, tránh xa lạ, nặng về học thuật, mà cũng không gượng ép. Đề ra theo hướng mở còn là cách giúp các em trưởng thành trong suy nghĩ, hướng các em đến lí tưởng đẹp, hoàn thiện dần tư cách của một công dân có trách nhiệm với xã hội. Muốn vậy, người giáo viên phải cân nhắc đến tính vừa sức ở học sinh. Có những vấn đề nghị luận chỉ phù hợp với học sinh lớp 12 mà lại quá sức với học sinh lớp 10, càng khó khăn cho học sinh ở bậc trung học cơ sở. - Để học sinh có thể làm tốt dạng đề mở, giáo viên phải huấn luyện cho các em kĩ năng làm văn nghị luận, nhất là các kĩ năng: phân tích đề; lập ý, lập dàn ý; thao tác lập luận,… Nói rốt ráo, học sinh không có kĩ năng làm văn nghị luận thì đề đóng đã không thể thực hiện được, huống gì đề mở. - Tương ứng với việc ra đề mở, người giáo viên phải có đáp án mở và cách chấm mở. Đáp án mở là đáp án không cụ thể, chi tiết, không mang tính áp đặt, không đếm ý cho điểm, nhưng cũng không chung chung để dẫn đến việc cho điểm tùy hứng, thiếu công bằng. Đáp án mở vẫn có những yêu cầu nhất định về kiến thức, kĩ năng và tư tưởng tình cảm của người viết. Người ra đề và soạn đáp án cần phải lường trước khả năng học sinh có thể viết để lên phương án cho điểm. Cách chấm mở là cách chấm tôn trọng suy nghĩ và sự sáng tạo của người viết, không áp đặt cách giải quyết vấn đề theo lối một chiều. 3. Hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận xã hội theo dạng đề mở Để học sinh làm được bài văn NLXH theo đề mở, người thầy giáo cần có quá trình rèn luyện cho các em, có phương pháp dạy học phù hợp mới phát huy hết tác dụng của nó. Sau đây chúng tôi xin đề xuất những hoạt động dạy – học nhằm Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận xã hội theo đề mở: 3. 1. Hoạt động dạy học hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống: 3.1.1. Ý nghĩa của việc tích lũy kiến thức và vốn sống Để có một bài nghị luận xã hội giàu tính thuyết phục, học sinh cần có lí lẽ sắc sảo và dẫn chứng phong phú. Có thể tích lũy kiến thức từ sách vở: lĩnh vực văn học, báo chí, bộ sách Hạt giống cho tâm hồn... ; kiến thức từ cuộc sống và trải nghiệm bản thân: đó là những gì các em quan sát hàng ngày, suy ngẫm về những sự việc xảy ra trong cuộc sống. Trải nghiệm bản thân, cách cảm, cách nghĩ của các em chính là nguồn tư liệu làm bài viết thêm phong phú và giàu sức thuyết phục. Việc tích lũy kiến thức và vốn sống sẽ rất hữu ích cho các em trong việc xây dựng các luận cứ, bao gồm lí lẽ và dẫn chứng. 3.1.2. Hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống Đa phần học sinh thường chưa có ý thức trong việc tích lũy tư liệu, không có thói quen đọc báo, xem thời sự để nâng cao hiểu biết thực tế đời sống. Do đó, giáo viên cần có các hoạt động dạy học giúp các em hình thành thói quen này. 3.1.2.1. Cách thức tiến hành hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống: HĐ 1: GV cho bài tập về nhà. HĐ 2: GV đưa ra yêu cầu: - Quy định ngày, giờ nộp sản phẩm; - Quy định hình thức sản phẩm: gửi đến địa chỉ mail của giáo viên (đây là cách GV tập hợp sản phẩm của HS); - Quy định hình thức trình bày (bản word, font chữ...),… HĐ 3: Giáo viên tập hợp sản phẩm. HĐ 4: Giáo viên xóa tên học sinh, cho in thành nhiều bản, phát cho các học sinh trong lớp. HĐ 5:Học sinh đọc và bình chọn sản phẩm hay nhất (không chọn của mình). HĐ 6: Giáo viên thống kê, cho điểm và nhận xét, đánh giá. 3.1.2.2. Ưu điểm của hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống Yêu cầu học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống không phải là hoạt động dạy học mới của giáo viên. Khi dạy văn nghị luận, chúng ta vẫn thường nhắc nhở các em dẫn chứng phải cụ thể, xác thực, lí lẽ phải sắc sảo. Song, chúng ta chỉ dừng lại ở việc gợi ý nên làm, mà chưa tạo thành một yêu cầu, một thói quen cho học sinh. Chính vì thế, bài văn các em thường nghèo nàn về ý, dẫn chứng sáo mòn với những câu danh ngôn quen thuộc, những tấm gương chưa đọc đã biết. Và như thế, làm sao có được những bài văn suy nghĩ sâu sắc và giàu cảm xúc? Hoạt động dạy học trên có ưu điểm: - HS tự giác sưu tầm tư liệu, chọn tư liệu hay và bổ ích. - Trong quá trình tìm hiểu và chọn tư liệu, một cách tự nhiên học sinh đã đọc nhiều tư liệu khác, làm giàu vốn sống của bản thân, thấm nhuần tư tưởng cao cả. - Học sinh hình thành thói quen theo dõi thông tin về đời sống được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, điều mà trước đây có những em không hề quan tâm. - Kết thúc hoạt động dạy học, mỗi học sinh đều có một bộ tư liệu phong phú, phục vụ cho quá trình học lâu dài. 3.1.3. Minh họa một vài bài tập giáo viên đã tiến hành: 3.1.3.1. Bài tập 1 a, Đề: Hãy sưu tầm một số câu danh ngôn mà anh/ chị chọn làm lẽ sống cho bản thân. Chọn một câu để viết một đoạn văn ngắn (dưới 10 câu) trình bày vì sao mình tâm đắc? b, Kết quả sản phẩm:  Đề trên được ra cho lớp 11 Văn, Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh (năm học 2012 - 2013). Lớp có tất cả 19 học sinh. Mỗi em sưu tập từ 3-4 câu danh ngôn. Tổng cộng cả lớp có hơn 50 câu danh ngôn được sưu tập và 19 lời bình của các em về tư tưởng đã được chính các em cho là tâm đắc nhất.  Một số câu danh ngôn cùng lời bình của học sinh: - Hãy luôn khao khát, hãy cứ dại khờ (Stay hungry, stay foolish). (Kết thúc phát biểu của Steve Jobs tại lễ trao bằng tốt nghiệp trường ĐH Stanford) THANH THẢO: Khao khát - để ước mơ. Dại khờ - để dám biến ước mơ thành hiê ên thực. Khao khát và dại khờ, ấy là khởi đầu cho mọi điều tốt đẹp hơn đến với thế giới này. Trước khắc nghiê êt cuô êc đời, không khao khát, không dại khờ, thì bạn và tôi sẽ uổng phí thời gian ngắn ngủi để sống trong vỏ bọc an toàn. Không dám làm gì, chẳng có được gì, và chẳng là gì cả. - Chính lựa chọn của chúng ta, chứ không phải khả năng, mới chứng tỏ chúng ta thực sự là ai (It's our choices that show what we truly are, far more than our abilities) (J.K.Rowling, trích Harry Potter và Phòng chứa Bí mâ ât) THANH THẢO: Hồi nhỏ xem phim Gọi giấc mơ về, tôi nhớ hoài mô tê câu của người ông làm nghề nước mắm nói với cô cháu gái: Cá loại mô êt thì sẽ làm ra được nước mắm loại mô êt, nhưng nước mắm loại mô êt không phải tất cả đều làm từ cá loại mô êt. Cá hay người thì cũng vâ yê thôi. Cái quan trọng không phải tôi có gì, mà là tôi sẽ làm gì với những điều tôi có. Có ít hơn so với người khác, nhưng biết vâ ên dụng, vẫn có thể thành không. Có tất cả, mà dùng sai mục đích thì cũng là vô ích. Vả lại, có bao giờ ta đánh giá được hết khả năng của chính mình mà dựa vào đó để ngại ngần? - Hạnh phúc là mô ât hành trình, không phải mô ât điểm đến (Happiness is a journey, not a destination) (Paulo Coelho, trích Nhà giả kim) - Bạn có thể thất vọng nếu thất bại, nhưng sẽ sụp đổ đến tâ ân cùng nếu từ bỏ mọi ước mơ. (Miguel de Unamuno) HOÀNG THỊ MAI DUNG: Ước mơ nuôi dưỡng tâm hồn con người. Từ bỏ ước mơ cũng đồng nghĩa rằng ta đã đánh mất sức sống tâm hồn, đánh mất điểm tựa của niềm tin. Thất bại chưa phải là chấm hết, nếu như còn biết ước mơ thì ước mơ ta ấp ủ sẽ là ngôi sao chỉ đường định hướng ta đến thành công. Câu danh ngôn đã luôn thôi thúc tinh thần, làm đô nê g lực và nhắc nhở nhở không nên từ bỏ ước mơ. - Ý nghĩa của cuô âc sống không phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì, mà ở chỗ ta có thái đô â đối với nó ra sao; không phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào. (Lewis L. Dunnington) HOÀNG THỊ MAI DUNG: Câu danh ngôn nhắc nhở về ý nghĩa của cuô êc sống là gì và đem đến cho em thái đô ê tích cực trước những gì cuô êc sống mang đến, từ đó có suy nghĩ trưởng thành hơn khi đối diê ên với khó khăn thử thách. - Dù nó thật tồi tàn đi nữa, nhưng không nơi nào có thể sánh được với mái ấm gia đình. J.H.Payne ĐẶNG BÍCH NGỌC: Có lẽ không nơi nào trên Trái Đất có thể đem đến cho bạn cảm giác yên bình cho bằng gia đình. Gia đình, với những con người luôn yêu thương bạn, dù bạn là ai, bạn đến từ đâu, bạn như thế nào. Tình yêu của những người trong gia đình là thứ tình cảm mãnh liệt và vô vị lợi. Gia đình không chỉ là nơi nuôi dưỡng thể chất mỗi người mà đó còn là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm cho những ước mơ, rèn luyện những giá trị đao đức tốt đẹp cho mỗi con người. Và hơn hết thảy, khi bạn đã đi khắp nơi, trải qua bao thăng trầm trong cuộc sống, đối diện với những vấp ngã, những phản bội, những lừa lọc, giả tạo, cuối cùng chỉ khi ở bên gia đình bạn mới cảm thấy thoải mái nhất, yên bình nhất, và HẠNH PHÚC nhất. - Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác. (Xukhômlinski ) TRÀ GIANG: Câu danh ngôn này em thích ở mặt tư tưởng bởi thể hiện rõ lí do của sự sống của con người trong cõi đời. Nó khiến cho em phải nhìn nhận lại chính mình, nhìn lại một phần đời mà mình đã đi qua. Và từ đây, em có thể xác định rõ hơn mục tiêu, mục đích sống của bản thân, nhắc nhở em phải sống thế nào cho ý nghĩa. - Sự tranh biện và cãi lẽ, có thể làm cho người khác ngượng được, nhưng thắng như vậy thì có ích gì đâu, vì không khi nào làm cho người ta thành thật đồng ý với mình hết. (Franklin) NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH: Đa phần con người vì cái tôi và sĩ diện sẽ cố chấp không nhận sai về mình khi bị người khác chỉ trích và đả kích mạnh mẽ, cho dù bản thân nhận thấy mình không đúng. Vì thế, khi em không hài lòng, em không muốn cố cãi lại hay chống đối, như trong Kinh Thánh đã ghi: “Câu trả lời nhã nhặn của bạn đã làm tiêu tan hết mọi giận dữ”. Thay vì làm hả hê bản thân khi chiến thắng trên sự nhục nhã của người khác, hãy suy nghĩ thấu đáo, khiêm tốn, nhẹ nhàng giúp họ nhận sai. - Bạn sẽ tìm thấy niềm vui khi giúp đỡ người khác bằng tất cả tấm lòng. (Paul Newman) NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH: Em hoàn toàn có thể cảm nhận được câu nói này mỗi khi thật lòng giúp đỡ người khác. Niềm vui không đơn thuần ta nhận được nhiều yêu thương mà còn từ việc ta biết sẻ chia nó. Khi thật sự trải lòng, em không còn quan tâm vật chất nữa, không quan tâm mình mất gì, mà chỉ có thể cảm nhận được niềm vui khi làm cho người khác hạnh phúc. Em không đòi hỏi nhận được nơi họ nụ cười hoặc lời cảm ơn, chỉ cần thấy họ nhận lấy sự giúp đỡ của em, điều đó đã làm em hạnh phúc. - Ngu ngốc không phải là do thiếu kiến thức, không phải là do không muốn học mà do tin rằng đã biết hết tất cả. (Anita Joachim-Daniel). TRẦN THỊ BẢO YẾN: Tự tin vào chính mình là một điều tốt, góp phần đưa con người đi đến thành công, song tự tin thái quá, cho rằng mình hơn người lại là một con dao sắc nhọn từng bước bào mòn sự thành công trong mỗi chúng ta. Con người ta luôn phải học hỏi không ngừng để hoàn thiện chính mình và thái độ “tự tin rằng đã biết hết tất cả” là một vật cản vô cùng lớn lao trên bước đường thành công. Vì thế, tôi luôn tập cho mình một thái độ sống khiêm nhường, học hỏi và chọn lọc mọi thứ, vì tôi biết rằng, mình là một người chưa hoàn hảo, vẫn còn nhiều khiếm khuyết trên bước đường nắm bắt cuộc sống. 3.1.3.2. Bài tập 2 a, Đề: Hãy kể về một tấm gương làm ảnh hưởng tới lối sống hoặc suy nghĩ của anh/ chị. b, Kết quả sản phẩm:  Đề trên cũng được ra cho lớp 11 Văn, Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh (năm học 2012 - 2013). Kết quả có 15 bài viết kể về tấm gương ảnh hưởng đến lối sống và suy nghĩ của các em. Nếu phân tích kĩ các bài viết, chúng ta sẽ thấy có nhiều điều thú vị về suy nghĩ của những người trẻ, không riêng gì kĩ năng nghị luận xã hội. Chẳng hạn, trong số 15 bài viết, chỉ có 2 bài trùng nhau về danh nhân được lựa chọn (Thomas Edison). Trong số các tấm gương được các em cho là thần tượng có các chính trị gia (Abraham Lincol, Chủ tịch Hồ Chí Minh), nhà khoa học (Thomas Edison, Marie Curie), doanh nhân (Đặng Lê Nguyên Vũ, Steve Jobs), những vượt lên số phận nghiệt ngã của mình (Satoshi Fukushima, Hellen Keller, Bethany Hamilton, Bạch Quang Thái),… Đặc biệt, có đến 5 tấm gương là người Việt Nam (Bác Hồ, Nguyễn Thị Phương, Bạch Quang Thái, Nguyễn Thị Khánh Huyền, Đặng Lê Nguyên Vũ). Qua cách giới thiệu của các em, tấm gương nào được lựa chọn cũng đều có những nét đặc biệt, thực sự xứng đáng là “tấm gương”.  Một số tấm gương được học sinh lựa chọn: - TRẦN THỊ BẢO YẾN: Trong cuộc đời mỗi con người, hai chữ “thần tượng” có vẻ là một khái niệm rất rộng. Chúng ta thần tượng cha mẹ – những con người mẫu mực đáng để noi theo, chúng ta thần tượng một nhóm nhạc Hàn Quốc, vì họ hát hay, nhảy đẹp… Không quan trọng là bạn yêu thích hay ngưỡng mộ ai, điều căn bản ở đây là qua những con người ấy, bạn học được điều gì – trở thành một con người như thế nào? Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà nước ta lại phát động “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Bác đúng là một tấm gương sáng để mọi người học tập, chẳng những qua các hoạt động chính trị lớn lao mà ngay trong những việc nhỏ nhặt nhất, Bác luôn khéo léo biến mọi việc dù phức tạp cũng trở nên giản đơn vô cùng. Đó là một đức tính mà tôi luôn rèn luyện, học hỏi từ Bác. Năm 1929, khi các tổ chức cộng sản được thành lập, đất nước ta chưa kịp reo ca vì tìm được chính Đảng lãnh đạo thì mọi người lại một lần nữa hoang mang vì các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, đều cho rằng chủ trương của mình là đúng đắn, không ai chịu ai. Trước tình hình đó, đầu năm 1930, Bác Hồ đang từ Xiêm phải trở về nước để chủ trì hội nghị họp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất. Cuộc họp diễn ra sôi nổi, những người đại diện các tổ chức cộng sản đều đưa ra những lí lẽ thuyết phục người khác, duy chỉ có Bác là vẫn ngồi yên. Đến khi gần kết thúc buổi họp, Bác đột ngột đứng dậy. Mọi người im lặng. Người không nói nhiều, chỉ hỏi có một câu: - Ai trong các anh không phải người Việt Nam thì bước ra đây!… Một sự yên lặng kéo dài… Sau vài phút không thấy ai lên tiếng Bác mới nói tiếp: - Nếu tất cả là người Việt Nam thì tại sao lại phải phân chia đảng phái này nọ, sao không tổ chức thành một đảng duy nhất để tiến hành giải phóng đất nước chúng ta trong lúc nguy cấp này… Thêm một khoảng thời gian yên lặng… Và… bây giờ… chúng ta có một Đảng cộng sản lãnh đạo duy nhất; một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; một đất nước hòa bình – dân chủ. Thế đó, không phải cứ nói nhiều là thành công. Quan trọng là tôi và bạn phải biết cách nói như thế nào, nói vào lúc nào… Quan trọng là cách tôi và bạn ứng xử như thế nào trước một sự việc… Quan trọng là cách tôi và bạn kiểm soát được chính mình và thuyết phục người khác ra sao… Tất cả những điều ấy tưởng như đơn giản nhưng một khi đưa vào thực tiễn, bạn sẽ thấy nó khó đến mức nào. Không phải ngẫu nhiên khi Bác có rất nhiều hành động to lớn, tốt đẹp mà tôi lại chọn mẫu chuyện rất nhỏ này về Bác. Mọi việc phải được bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất, có như thế, tôi và bạn mới có thể thành công, mới có thể làm nên sự khác biệt giữa mấy tỉ người trên trái đất này. Thái độ bình tĩnh của Bác khi đứng trước một đám đông đang chia rẽ nhau thật bình tĩnh, dõng dạc. Bác dùng lí lẽ của chính mình để chống lại những lí lẽ rất “có lí” khác. Một câu hỏi, một lời nói bình thường nhưng đúng lúc và đúng mục đích, lại đem đến cho con người ta một kết cục không ngờ. Tôi và bạn nói và làm rất nhiều nhưng liệu có bao lần chúng ta nói đúng, bao lần nói hay? Cách chúng ta cư xử với mọi người trong cuộc sống thường ngày
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan