Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn kĩ năng tổng hợp kiến thức cơ bản khi làm bài thi tốt nghiệp trung học phổ ...

Tài liệu Skkn kĩ năng tổng hợp kiến thức cơ bản khi làm bài thi tốt nghiệp trung học phổ thông và học sinh giỏi cấp tỉnh môn lịch sử

.DOC
27
1452
78

Mô tả:

Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung ĐỀ TÀI KĨ NĂNG TỔNG HỢP KIẾN THỨC CƠ BẢN KHI LÀM BÀI THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH MÔN LỊCH SỬ A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thực tế những năm gần đây việc dạy sử và học sử đang là vấn đề “không bình thường” trong các kỳ thi tốt nghiệp,thi đại học. Số thí sinh đạt điểm trung bình trở lên “rất khiêm tốn” đếm được trên đầu ngón tay.Nhưng làm thế nào để thay đổi kết quả đó lại là một vấn đề nan giải .Dư luận xã hội đang đặt ra nhiều câu hỏi mà ngành giáo dục phải giải quyết. Mặt khác, trong thời hội nhập học sinh được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, nhiều luồng tư tưởng nên rất dễ “mất thăng bằng” trong hướng đi. Làm thế nào để các thế hệ trẻ đừng đánh mất mình, đừng làm mất bản sắc dân tộc là trách nhiệm của mỗi người thầy hiện nay. Trong bối cảnh chung đó môn lịch sử có nhiều lợi thế và giữ vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng nhân cách, giáo dục nhân sinh quan cách mạng, lối sống và niềm tin cho thế hệ trẻ hiện nay và mai sau. Đứng ở góc độ của người dạy sử chúng tôi mong muốn thông qua bài giảng, học sinh hiểu được lịch sử thế giới và dân tộc một cách sâu sắc và khách quan, để từ đó khơi dậy ở các em lòng tự hào về những gì mà nhân loại và ông cha đã tạo ra và có trách nhiệm bảo vệ và phát triển nó. Từ những mong muốn và yêu cầu trên tôi chọn đề tài này. B.THỰC TRẠNG KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1.Thuận lợi Cá nhân có nhiều năm dạy lớp 12 và bồi dưỡng học sinh giỏi, luyện thi đại học khối C khá tâm huyết và yêu nghề. Được giới lãnh đạo quan tâm, chú trọng đến bộ môn. Một số ít học sinh có yêu thích với bộ môn 2.Khó khăn Do quan niệm chưa đúng về bộ môn, một số giáo viên, phụ huynh và học sinh coi lịch sử là môn phụ Do tác động của cơ chế thị trường hiện nay ngay từ khi bước vào trường Trung học phổ thông học sinh đã xác định khối thi vào đại học. Đa số các em lao vào khối A, D, còn rất ít hướng vào khối C ( Văn- Sử- Địa). Bởi vì vào khối A&D sau này sẽ dễ tìm được công việc có thu nhập cao. Còn khối C không chỉ số lượng trường đại học ít mà sau khi tốt nghiệp rất khó tìm được công việc phù hợp. Chính vì vậy nhiều người đã đặt ra câu hỏi: học sử để làm gì? Do yếu tố chủ quan, khách quan nên một số giáo viên trong giảng dạy và kiểm tra, đánh giá chỉ chú ý đến kiến thức.Và trong kiến thức người dạy chỉ xem xét vấn đề “biết” lịch sử, mà coi nhẹ việc “ hiểu” lịch sử. Phương pháp dạy còn ôm đồm, nhồi nhét kiến thức, ít phát huy tư duy độc lập của các em và khi kiểm tra đánh giá kết quả học tập thì nặng về sự kiện, không chú ý đến khả năng lập -1- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung luận, kĩ năng thực hành, thậm chí đôi khi còn mang nặng tính hình thức dẫn đến học sinh học đối phó và coi thường bộ môn. C. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận Dưới thời trung đại, sự hiểu biết lịch sử và khả năng vận dụng các bài học kinh nghiệm quá khứ là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá nhân tài qua các kì thi chọn người ra làm quan. Ngày nay, môn lịch sử trong trường phổ thông phải thực hiện nhiệm giáo dục tư tưởng đạo đức và phát triển tư duy năng lực hành động của môn học. Trên cơ sở những “ kiến thức cơ bản” về quá khứ, học sinh phải được khơi dậy những cảm xúc lành mạnh, những tình cảm đẹp đẽ, niềm tin, tìm ra những chuẩn mực đạo đức, hành vi đúng cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Muốn làm được điều này, người dạy sử phải là người làm cho học sinh hiểu rằng: Lịch sử vốn không khô khan, cứng nhắc, nó luôn luôn vận động và phát triển trong dòng văn hóa của nhân loại và dân tộc. Hiện tại hôm nay được kế thừa và phát huy của quá khứ hôm qua một cách sinh động, nó đang hiện hữu sống và len lách trong tâm tư tình cảm của mỗi con người, vì thế học sử là điều cần thiết. Từ thực tiễn và yêu cầu trên, đòi hỏi người dạy sử phải biết tổng hợp, xâu chuỗi những sự kiện lịch sử quá khứ một cách khoa học, hấp dẫn theo những chủ đề lịch sử . Cùng với những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn đưa người học sống lại quá khứ như nó đã diễn ra. Tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu và ghi nhớ. Thông qua đó họ rút ra bài học cho bản thân mình trong nhận thức và đánh giá vấn đề lịch sử và xã hội. 2. Cơ sở thực tiễn Sách giáo khoa lớp 12, theo chương trình chuẩn, đã viết sử với những nội dung riêng biệt theo từng thời gian cụ thể, ví dụ: Khi trình bày về sự ra đời và phát triển của phong trào công nhân Việt Nam từ 1919 đến 1930, Sách giáo khoa lớp 12( KHCB)được trình bày ở bài 12: phong trào dân tộc,dân chủ( 1919-1925; bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ 1925-1930) điều này tạo ra những khó khăn nhất định cho học sinh khi học. Nếu người dạy không biết xâu chuỗi, chọn lọc kiến thức thành chủ đề thì rất khó khăn cho học sinh khi làm bài thi. Những năm gần đây, trong các kì thi việc kiểm tra đánh giá thường ra theo những vấn đề xuyên suốt cả giai đoạn lịch sử hoặc cả một quá trình lịch sử và đòi hỏi học sinh phải hiểu và biết vận dụng lịch sử. Thực tế qua làm bài thi học kì I- trường THPT Long Thành 86%, Học sinh 12 đạt điểm 5 và thi học sinh giỏi cấp tỉnh năm học 2010-2011, do SGDĐT tổ chức có 46/146 thí sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh. Nguyên nhân học sinh có thuộc bài, nhưng không có khả năng tổng hợp, nhận định. Không biết phân tích, xâu chuỗi kiến thức cơ bản của một bài, một chương, một vấn đề cho khoa học đề để tìm ra nội dung trả lời cho phù hợp. Từ những thực trạng trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến thức cơ bản theo chủ đề, mang tính xuyên suốt ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể để học sinh dễ theo dõi và một số câu hỏi để giải quyết những vấn đề đã nêu trong đề tài. 3. Phạm vi đề tài -2- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 2000, ( Lớp 12- theo chương trình chuẩn) gồm 16 bài nhưng lại có rất nhiều vấn đề. Chúng tôi sẽ xâu chuỗi tổng hợp những vấn đề đó theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể để tiện cho các bạn đồng nghiệp và học sinh tham khảo Trong phạm vi bài viết này tôi xin trình bày các nội dung chính của lịch sử Việt Nam từ 1919-1930 , bao gồm: 1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Đông Dương ( Điểm mới trong chương trình khai thác lần thứ hai. Tác động của chương trình khai thác lần thứ hai với nền kinh tế và xã hội Việt Nam.) 2. Phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng dân chủ tư sản Ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930 ( Điểm tích cực của phong trào. Đóng góp của phong trào với việc thành lập Đảng cộng sản). 3. Phong trào công nhân Việt Nam từ 1919-1930. (Đóng góp của phong trào công nhân với việc thành lập Đảng cộng sản) 4. Hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1930. ( Ý nghĩa của các hoạt động đó với phong trào cách mạng Việt Nam.) 5. Các tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản ở Việt Nam. ( Sự thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam đầu 1930. ý nghĩa của việc thành lập Đảng.) 4. Mục đích đề tài Giúp giáo viên và học sinh nhận biết lịch sử theo vấn đề ở một giai đoạn lịch sử, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghiên cứu và học sử. D. NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. CHƯƠNG TRÌNH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN THỨ HAI CỦA PHÁP ( TỪ 1919 ĐẾN TRƯỚC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ( 1929-1933) 1. Bối cảnh Mặc dù là nước thắng trận, Pháp bước ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất với những tổn thất nặng nề về kinh tế và tài chính( 1,4 triệu người chết, thiệt hại về vật chất lên đến 200 tỉ phrăng), Pháp trở thành con nợ lớn, trước hết là nợ Mĩ. Nợ quốc gia năm 1920 lên đến 300 tỉ phrăng. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tiêu hủy hàng triệu phơrăng đầu tư của Pháp ở nước ngoài, nhất là với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga( 1917), thị trường đầu tư lớn nhất của Pháp tại châu Âu bị mất. Thêm vào đó là nạn lạm phát, sự leo thang của giá cả và đời sống khó khăn làm trỗi dậy cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động Pháp. Trong bối cảnh đó Pháp đẩy mạnh đầu tư khai thác thuộc địa, trước hết là Đông Dương 2. Mục đích chương trình khai thác Để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục nền kinh tế Pháp. 3. Nội dung khai thác a. Kinh tế Pháp đầu tư ồ ạt vào các ngành kinh tế Việt Nam với tốc độ nhanh , quy mô rộng lớn. Số vốn đầu tư tăng nhanh qua các năm, chỉ trong 6 năm ( 1924-1929) -3- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung vốn đầu tư vào Đông Dương( mà chủ yếu là Việt Nam ) là 4 tỉ phrăng (trong khi đó suốt 30 năm từ 1888 đến 1918, vốn đầu tư của Pháp vào Đông Dương là 1 tỉ phơrăng). Trong đó: Đầu tư Nông nghiệp: là 400 triệu phrăng( 1927). Với số vốn đó, Pháp ra sức cướp đoạt ruộng đất của nông dân lập đồn điền. Tính đến 1930, đồn điền do người Pháp chiếm giữ tới 1.2 triệu ha ( chiếm ¼ diện tích canh tác tại Việt Nam). Với diện tích này Pháp sử dụng để trồng lúa và cây công nghiệp như chè, cà phê, cao su, nhiều công ty cao su ra đời như công ty Đất đỏ, công ty Misơlanh, công ty Trồng cây nhiệt đới. Công nghiệp : đẩy mạnh Khai mỏ: chủ yếu là mỏ than, nhiều công ty khai thác than thành lập: như công ty than và cơ khí Đông Dương, than Tuyên Quang, Đông Triều… Sản lượng than tăng dần qua các năm ( 1919 là 665.000 tấn đến năm 1929 là 1.972.000 tần). Ngoài than, các cơ sở khai thác thác, kẽm, sắt đều đều được bổ sung thêm. Để phục vụ cho khai khoáng , Pháp đầu tư công nghiệp chế biến: quặng, đúc kẽm, thiếc… Các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến khá phát triển như sợi, rượu, xay sát gạo, được xây dựng và mở rộng ở Hà Nội, Nam Định, Sài Gòn- chợ lớn. Thương nghiệp, ngoại thương có bước phát triển rõ rệt so với trước chiến tranh tăng. Pháp giữ độc quyền thị trường Đông Dương bằng đánh thuế nặng vào hàng hóa của nước ngoài ( Trung Quốc và Nhật Bản). Bằng chính sách độc quyền đó hàng của Pháp ở Đông Dương tăng( trước chiến tranh là 37% , đến năm 1929 lên đến 63%). Quan hệ buôn bán nội địa đẩy mạnh. Giao thông vận tải : đường sắt và bộ được đầu tư phát triển để phục vụ cho khai thác và vận chuyển ( Đồng Đăng –Na sầm ( 1922)), giao thông thủy được chú ý ngoài cảng Hải Phòng , Sài Gòn, Đà Nẵng, Pháp xây dựng thêm cảng mới Hòn Gai- Bến Thủy. Tài chính: thành lập Ngân hàng Đông Dương và chỉ huy toàn bộ kinh tế Đông Dương.Tăng thuế( Thuế trực thu và gián thu). Vì vậy Ngân sách Đông Dương năm 1930 tăng gấp 3 lần so với năm 1912( 30 triệu Phrăng năm 1912 lên 90 tr Phrăng năm 1929). Tác động: Kinh tế tư bản Pháp ở Việt Nam có bước phát triển mới: kĩ thuật và nhân lực được đầu tư. Tuy nhiên kinh tế Việt Nam vẫn trong tình trạng lạc hậu, phát triển mất cân đối: nền kinh tế nông nghiệp cổ hủ bên cạnh nền công nghiệp mỏng manh, yếu ớt( chỉ có công nghiệp khai mỏ, các ngành khác thì hầu như không có). Đông Dương thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của Pháp và lệ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Pháp. b.Chính trị Thực dân Pháp tăng cường chính sách cai trị: cai trị chuyên chế, mọi quyền hành tập trung vào tay Pháp và bọn tay sai trung thành của chúng, bộ máy cảnh sát, mât thám, nhà tù vẫn tiếp tục củng cố và hoạt động ráo riết. Thực dân Pháp thi hành cải cách hành chính, đưa người Việt vào công sở, lập viện dân biểu Trung kì và Bắc kì…Chúng thông qua bộ phận cầm đầu tại hương thôn để xâm nhập vào làng xã Việt Nam. c.Văn hóa – giáo dục Hệ thống giáo dục Pháp-Việt được mở rộng gồm các cấp, tiểu, trung học và đại học. -4- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung Cơ sở xuất bản, in ấn xuất hiện nhiều, văn hoá phương Tây tràn vào Việt Nam đan xen với văn hóa truyền thống. Như vậy ở Việt Nam có sự đấu tranh về văn hóa. 4. Điểm mới trong chương trình khai thác lần thứ hai là… Pháp đầu tư ào ạt vào kinh tế Việt Nam với tốc độ nhanh, quy mô rộng. Nếu từ năm 1888 đến 1918 Pháp đầu tư vào Đông Dương ( chủ yếu là Việt Nam) là khoảng 1 tỉ Phrăng thì chỉ trong 6 năm ( 1924-1929) là 4 tỉ phrăng Hướng đầu tư: Tập trung vốn vào nông nghiệp ( chủ yếu là dồn điền cao su) và khai thác mỏ(chủ yếu là mỏ than) Lập ngân hàng Đông Dương để chỉ huy kinh tế Việt Nam. Chính những chính sách trên làm cho cơ cấu kinh tế và trình độ phát triển của các ngành kinh tế Việt Nam biến đổi mạnh mẽ. Điều đó tác động mạnh đến sự biến đến cơ cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam. 5. Sử dụng những kiến thức cơ bản trên để giải quyết những vấn đề sau trong các bài thi Tại sao Pháp thực hiện chương trình khai thác Việt Nam ngay sau chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc? Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp có gì mới so với chương trình khai thác lần thứ nhất. Lập bảng so sánh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất( 1897-1914) và lần thứ hai ( 1919 đến 1929) theo yêu cầu sau: Hoàn cảnh, mục đích, nội dung , hệ quả, tác động. Dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp kinh tế Việt Nam như thế nào? II. SỰ CHUYỂN BIẾN ĐỔI VỀ CƠ CẤU GIAI CẤP TRONG Xà HỘI VIỆT NAM 1.Sự chuyển biến về cơ cấu giai cấp Dưới tác động chương trình khai thác thuộc điạ lần thứ hai, xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc: Giai cấp địa chủ phong kiến tiếp tục phân hóa; một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia phong trào dân tộc dân chủ chống Pháp và tay sai. Giai cấp nông dân: bị đế quốc Pháp và phong kiến tay sai tước đoạt ruộng đất, bị bần cùng hóa, mâu thuẫn gay gắt với Pháp và tay sai. Là một lực lượng to lớn và hăng hái của cách mạng. Giai cấp tiểu tư sản phát triển nhanh về số lượng, nhạy bén với thời cuộc có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai. Rất hăng hái đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Giai cấp tư sản: số lượng ít, kinh tế yếu ( làm đại lí thầu khoán, cung cấp hàng hóa…, một số ít kinh doanh độc lập), mới ra đờì tư sản bị Pháp chèn ép. Họ bị phân hóa thành hai bộ phận: Tư sản mại bản, quyền lợi gắn với Pháp nên là kẻ thù của cách mạng. Tư sản dân tộc có khuynh hướng dân tộc dân chủ. Giai cấp công nhân: Ra đời trong chương trình khai thác của Pháp ở Việt Nam, số lượng tăng ( 10 vạn trước chiến tranh tăng lên 22 vạn năm 1929). Đặc điểm: Công nhân bị tư sản người Việt, đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột; có quan hệ gắn bó với nông dân; kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; -5- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản. Công nhân sớm trở thành một động lực cách mạng theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến. Tóm lại: mâu thuẫn nổi bật là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Mâu thuẫn này chính là nguồn gốc và là động lực của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. 2. Sử dụng những kiến thức cơ bản trên để giải quyết những vấn đề sau trong các bài thi Phân tích thái độ chính trị các giai cấp trong xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX Những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX. Do tác động của chương trình khai thác thuộc địa.Xã hội Việt Nam tạo ra điều kiện mới gì cho cuộc vận động giải phóng dân tộc? III. PHONG TRÀO DÂN TỘC DÂN CHỦ THEO KHUYNH HƯỚNG DÂN CHỦ TƯ SẢN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1930 1. Điều kiện bùng nổ phong trào Chủ quan: Do thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam phân hóa sâu sắc. Bên cạnh giai cấp cũ, xuất hiện thêm giai cấp và tầng lớp mới, đại diện cho phương thức sản xuất mới, như giai cấp tư sản, tiểu tư sản và giai cấp vô sản. Trong các giai cấp đó, đáng chú ý nhất là giai cấp tư sản ,vì họ có hệ tư tưởng riêng. Tư sản và tiểu tư sản bước lên vũ đài chính trị đấu tranh chống Pháp theo hệ tư tưởng của mình. Đầu thế kỉ ở Việt Nam có nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp ở VN theo những khuynh hướng khác nhau bùng nổ, sau đó thất bại; nhưng những làn sóng dân tộc dân chủ mới vẫn dâng cao. Khách quan: Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ nghĩa Mác- Lênin chưa được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Trong khi đó tư tưởng dân chủ tư sản ( Nhật Bản và Trung Quốc), nhất là chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn với nội dung “dân tộc độc lập, dân quyền tự do; dân sinh hạnh phúc” vẫn tiếp tục tràn vào Việt Nam và tác động không nhỏ đến phong trào dân tộc dân chủ của giai cấp tư sản và tiểu tư sản Việt Nam. 2. Phong trào do giai cấp tư sản khởi xướng Phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng dân chủ tư sản phát triển sôi nổi và mạnh mẽ cả trong và ngoài nước, hình thức đấu tranh phong phú: a.Hoạt động của tư sản ( 1919-1925) Giai cấp tư sản dân tộc ra đời muộn hơn giai cấp công nhân Việt Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển, tư sản Việt Nam luôn bị cạnh tranh, chèn ép. Do hoàn cảnh lịch sử đó nên tư sản Việt Nam vừa non yếu về kinh tế, vừa bạc nhược về chính trị. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản bước vào vũ đài chính trị. Muốn nhân đà làm ăn thuận lợi vươn lên giành vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam, và mong muốn có một số quyền lợi chính trị. Tư sản đòi một số quyền lợi về kinh tế: 1919, phong trào tẩy chay hàng Hoa kiều và vận động mua hàng của người Việt Nam ở một số thành phố lớn.( Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng , Nam Định…). Phong trào này chứng tỏ mâu thuẫn giữa tư sản Việt Nam và tư sản Hoa kiều gay -6- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung gắt. Tuy nhiên mũi nhọn đấu tranh của tư sản Việt Nam mới chỉ nhằm vào tư sản Hoa kiều, mà chưa dám trực tiếp hướng vào kẻ thù chính là tư bản Pháp. Năm 1923, Pháp mở cuộc vận động tại hội đồng thuộc địa chính thức giao quyền kinh doanh cảng Sài Gòn cho một công ty Pháp. Chính vì vậy tư sản và địa chủ Nam kì đấu tranh chống độc quyền thương cảng sài Gòn và xuất cảng lúa gạo Nam Kì. Phong trào lôi cuốn đông đảo thanh niên trí thức tư sản và tiểu tư sản Sài Gòn tham gia. Như vậy phong trào phát triển cao hơn một bước, tư sản Việt Nam chĩa mũi nhọn đấu tranh vào tư bản Pháp, nhưng mới chỉ chống lại một công ty tư bản Pháp, chứ chưa chống lại ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp trên đất nước ta. Tư sản đòi các quyền tự do dân chủ Tư sản và điạ chủ Nam Kì ( Đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long) thành lập Đảng lập hiến ( 1923) với cơ quan ngôn luận luận là: Diễn đàn Đông Dương và Tiếng dội An Nam. Hoạt động của Đảng lập hiến hướng vào đòi tham gia bộ máy chính quyền( hội đồng thuộc địa, hội đồng thành phố), đòi tự do, dân chủ, đòi tự do ngôn luận… để tranh thủ sự ủng hộ của dân làm áp lực với Pháp. Ngoài ra còn nhóm Nam Phong của Phạm Quỳnh, đề cao tư tưởng “quân chủ lập hiến”. Nhóm Trung bắc tân văn của Nguyên Văn Vĩnh đề cao tư tưởng “ trực trị” Nhận xét: Giai cấp tư sản Việt Nam sau chiến tranh đã có những cố gắng nhất định trong cuộc đấu tranh chống sự cạnh tranh chèn ép của tư bản nước ngoài. Thể hiện tính thần và ý thức dân tộc. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh này chỉ dừng lại ở các mục tiêu tối thiểu về quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trong kinh tế và hoạt động chính với tư bản Pháp. Chứ chưa đòi thủ tiêu chính quyền thuộc địa giành độc lập dân tộc. Khi Pháp nhượng bộ( cho tham gia hội đồng quản hạt Nam kì) thì tư sản thỏa hiệp với Pháp. b. Việt Nam Quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái(1930). Tổ chức cách mạng tiêu biểu cho phong trào cho xu hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam. b1.Việt Nam Quốc dân đảng Sự thành lập: Phong trào yêu nước dân chủ công khai phát triển mạnh trong những năm đầu thế kỉ XX. Xuất phát từ cơ sở hạt nhân là Nam Đồng thư xã, nhà xuất bản tiến bộ- Hà Nội do Phạm Tuấn Tài thành lập năm 1926, chịu ảnh hưởng chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn “dân tộc độc lập, dân quyền tự do; dân sinh hạnh phúc”. Việt Nam Quốc dân đảng(VNQDĐ) chính thức ra đời 25/12/1927. Tôn chỉ mục đích: Trước làm CM dân tộc, sau làm thế giới CM ( tức là : trước đánh đổ chủ nghĩa đế quốc trong nước, sau giúp các nước khác đánh đổ chủ nghĩa đế quốc giành độc lập dân tộc) chủ nghĩa của Đảng là; Chủ nghĩa xã hội dân chủ. Chương trình hành động của Đảng công bố 1929 đã nêu lên 3 nguyên tắc tư tưởng của CMTS Pháp “ Tự do- Bình đẳng- Bác ái”. Chương trình hành động của Đảng chia làm 4 thời kì( Thời kì bí mật; thời kì dự bị; thời kì công khai( Đánh đuổi -7- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung giặc Pháp, lật đổ ngôi vua); thời kì kiến thiết( thiết lập dân quyền)). Đến thời kì chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang VNQDĐ mô phỏng theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn: Đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền. Còn yếu tố tiến bộ, tích cực của Tôn Trung Sơn bị loại bỏ “ khẩu hiệu bình quân địa quyền, liên Nga, phù trợ công nông” Hoạt động: Tiến hành cách mạng bằng bạo lực, chú trọng lấy binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tổ chức cơ sở của Đảng rất ít ỏi hoạt động chủ yếu ở Bắc Kì và Trung Kì, chưa bao giờ trở thành một hệ thống trong cả nước.( Điều này hoàn toàn trái ngược với hoạt động của hội Việt Nam CM thanh niên than thành lập 1925) Tháng 2-1929, VNQDĐ tổ chức ám sát tên trùm mộ phu Badanh ở Hà Nội  Pháp khủng bố dã man. Như vậy cương lĩnh của Việt Nam quốc dân đảng có có tính chất tiến bộ vì đề ra mục tiêu giải phóng dân tộc. Tuy nhiên còn những hạn chế nhất định: Đường lối còn chung chung, không đề ra chủ trương đấu tranh giai cấp. Đúng như Trần Dân Tiên nhận xét “ Nó muốn một nước cộng hòa, nhưng là thứ cộng hòa nào? Sẽ cai trị quốc gia như thế nào? Với phương pháp gì người ta sẽ xây dựng lại kinh tế quốc gia? Làm thế nào để nâng cao mức sống của những tầng lớp lao động, thợ thuyền, nông dân và trí thức? Về những vấn đề này VNQDĐ chưa có chương trình rõ rệt” Đánh giá VNQDĐ là một tổ chức về căn bản là một tổ chức phỏng theo mô hình cách mạng của Quốc dân đảng ở Trung Quốc, đại diện cho quyền lợi và tư tưởng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên. Vì thiếu cơ sở kinh tế và giai cấp đủ mạnh làm chỗ dựa nên, VNQDĐ không đưa ra một đường lối chính trị độc lập. Thêm vào đó là công tác tổ chức lỏng lẻo, sơ hở, thiếu công tác tuyên truyền huấn luyện nên không có cơ sở tồn tại trong nhân dân, nên không đảm nhận được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. b2.Cuộc khởi nghĩa Yên Bái Bối cảnh Tổ chức cơ sở của Đảng bị phá vỡ nhiều nơi, nhiều đảng viên bị bắt Nội bộ lãnh đạo của VNQuốc dân đảng bị chia rẽ. Trong tình thế bị động đó, Đảng quyết định khởi nghĩa: chủ trương “không thành công cũng thành nhân”. Diễn biến 9-2-1930, khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái, Phú Thọ, Sơn Tây, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội ném bom phối hợp. Tại Yên Bái , nghĩa quân chiếm trại lính, nhưng không làm chủ tỉnh lị. Kết quả và ý nghĩa Khởi nghĩa thất bại, hơn 1000 đảng viên bị bắt, Nguyễn Thái Học cùng với các đồng chí của ông bị bắt và đưa lên đoạn đầu đài, trước khi chết còn hô vang khẩu hiệu “ Việt Nam vạn tuế”. Thể hiện chí quật khởi của dân tộc của nhân dânViệt Nam đồng thời cổ vũ lòng yêu nước. Chấm dứt vai trò lịch sử của Việt Nam Quốc dân đảng và khuynh hướng dân chủ tư sản. Khi nhận xét về cuộc khởi nghĩa Yên Bái ,cố Tổng bí thư Lê Duẩn nhận định “Khởi nghĩa Yên Bái chỉ là “ cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi. Khẩu hiệu“không thành -8- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung công thì thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp của tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”. 3.Phong trào của tiểu tư sản Mục tiêu : Chống cường quyền áp bức, đòi các quyền tự do dân chủ. Các tầng lớp tiểu tư sản thể hiện lòng yêu nước của mình bằng nhiều cách : Tham gia trong phong trào yêu nước , dân chủ công khai, lập các tổ chức chính trị , đấu tranh có tổ chức. Diễn biến : Phong trào diễn ra sôi nổi ở trong và ngoài nước Ở NƯỚC NGOÀI Tại Trung Quốc Năm 1923, một số thanh niên yêu nước Việt Nam thành lập Tâm tâm xã tại Quảng Châu. Với chủ trương: đoàn kết tất cả những người yêu nước Việt Nam chống Pháp, lập trường chính trị còn non nớt, mơ hồ, nặng về khủng bố và ám sát cá nhân. Để phát huy thanh thế, Tâm tâm xã đưa người về nước liên lạc với các sỹ phu yêu nước, tiến hành phân phát tài liệu, thức tỉnh đồng bào trong nước. Tâm tâm xã cử Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền MecLanh ở Sa Diện ( Quảng Châu). Sự việc không thành, nhưng nó góp phần thức tỉnh tinh thần yêu nước của đồng bào trong nước. Đánh giá về ý nghĩa của sự kiện này, Trần Dân Tiên, nhận định “ Tiếng bom của Phạm Hồng Thái đã nhóm lại ngọn lửa chiến đấu…, nó báo hiệu bắt đầu thời đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân.” Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục hội với đường lối đánh đuổi giặc Pháp “ Khôi phục Việt Nam, thành lập nền cộng hòa dân quốc Việt Nam”. Nhưng rồi Việt Nam Quang Phục hội ta rã trước sự đàn áp dã man của kẻ thù. Năm 1913, Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại Quảng Châu, năm 1917 được thả, sau khi được thả ông dự định về nước phát động tổng khởi nghĩa vũ trang. Trong hoàn cảnh đó, thành công của cách mạng tháng 10 Nga và sự ra đời của nước Nga Xô Viết như một luồng ánh sang mới tác động đến Phan Bội Châu. Nhưng cũng chưa thay đổi được tư tưởng của ông. 1923, ông cải tổ Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam quốc dân đảng( theo tổ chức quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn). Tháng 12/1924, được sự góp ý của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu quyết định sẽ cải tổ Việt Nam Quốc dân đảng thành tổ chức yêu nước tiến bộ hơn. Giữa lúc chưa thay thế được tổ chức, tháng 6/1925 Ông bị bắt không thể tiếp tục cuộc đấu tranh mới của dân tộc. Những sự kiện trên chứng tỏ Phan Bội Châu là một nhà yêu nước chân chính, ngày đêm đau đáu một niềm yêu nước thương dân. Tại Pháp Phan Châu Trinh không theo con đường của Phan Bội Châu và Hoàng Hoa Thám.Tư tưởng của ông là cải cách dân chủ: “ Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, bất bạo động. Ông chủ trương dựa vào Pháp để hạn chế những tệ nạn tham quan , trừng phạt bọn quan lại sâu mọt. Thực hiện chủ trương này năm 1922 Ông viết thất điều thư vạch ra 7 tội đáng chém của Khải Định. Tổ chức diễn thuyết với các chủ đề “ Đạo đức và luân lí Đông –Tây”, “quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ -9- Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung nghĩa”. Dẫu rằng bị hạn chế về tư tưởng nhưng với tấm lòng yêu nước thương nòi, Phan Châu trinh được nhân dân qúy mến và tôn trọng. Năm 1925, nhóm Việt kiều yêu nước tại Pháp tham gia chuyển tài liệu sách báo tiến bộ về nước để tuyên truyền. Trí thức và lao động Việt Nam thành lập “ Hội những người lao động trí óc Đông Dương”. Ở TRONG NƯỚC Mở đầu phong trào đòi tự do dân chủ là các hoạt động tuyên truyền cách mạng của một số tớ báo tiến bộ như An nam trẻ, Chuông rè, Người nhà quê và lập nhà xuất bản tiến bộ như Nam đồng thư xã, Cường học thư xã… đã trực tiếp đả kích chế độ thực dân phong kiến, đồng thời vạch trần chủ nghĩa cải lương phản bội lợi ích dân tộc của tầng lớp địa chủ và tư sản thượng lưu. Từ trong phong trào yêu nước sôi nôi xuất hiện các tổ chức chính trị của thanh niên trí thức, tiêu biểu Hội phục Việt, đảng thanh niên . . . Được sự tuyên truyền, tổ chức của các đảng này, phong trào yêu nước bùng nên mạnh mẽ, tiêu biểu: phong trào đòi Pháp trả tự do cho Phan Bội Châu (1925). Cuộc truy điệu và để tang cho Phan Châu Trinh(1926), lôi kéo 14 triệu đồng bào tham gia. 4. Đánh giá chung về phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam a.Tích cực Là phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ chủ tư sản, vì:Ở mức độ khác nhau , phong trào đã biểu hiện tính dân tộc, chống chính sách hà khắc của đế quốc Pháp, biểu hiện mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp.Nội dung phong trào chống chính sách kìm hãm, chèn ép về kinh tế và chính trị , đòi quyền dân chủ thông thường, chống chính sách đàn áp những người yêu nước và phát triển cao hơn là đòi lật đổ nền thống trị của đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc. Phong trào thu hút nhiều người tham gia , hoạt động phạm vi rộng cả trong và ngoài nước . b.Hạn chế Tư sản có tính chất hai mặt: một mặt đi với nhân dân chống Pháp, nhưng mặt khác lại thỏa hiệp với Pháp khi được Pháp nhượng bộ. Tiểu tư sản bồng bột nhất thời. Không có sự lãnh đạo thống nhất, thiếu chiều sâu, thiếu cơ sở tồn tại trong quần chúng. Nông dân , một lực lượng đông đảo và quan trọng ở thuộc địa chưa tham gia trong phong trào. c. Nguyên thất bại Khách quan: Hệ tư tưởng dân chủ tư sản mất tính hấp dẫn .Nhất là sau khi Trung Quốc bị chia xẻ dưới ảnh hưởng của các nước đế quốc. Nhật trở thành đế quốc nô dịch các nước khác. Chủ quan: Tư sản dân tộc Việt Nam non yếu về kinh tế, đại diện tiêu biểu là Việt Nam quốc dân đảng không có đường lối chính trị rõ ràng, tổ chức không chặt chẽ, kỉ luật thiếu nghiêm minh, thành phần phức tạp, tổ chức khởi nghĩa vội vàng nên sự thất bại là điều không thể tránh khỏi. Tiểu tư sản trí thức, do đời sống bấp bênh, dễ hoang mang, dao động, thiếu cơ sở trong quần chúng. Suy cho cùng đường lối dân chủ tư sản không phù hợp với yêu cầu khách quan của Cách mạng Việt Nam. - 10 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung d. Đóng góp của phong trào với cách mạng Việt Nam Phong trào có vị trí quan trọng : nó góp phần bồi đắp lòng yêu nước , truyền thống chống ngoại xâm. Truyền bá tư tưởng dân chủ vào Việt Nam, truyền bá những tư tưởng cách mạng mới.Hỗ trợ thúc đẩy phong trào công nhân phát triển. Làm nảy sinh các tổ chức chính trị của nhiều thế hệ thanh niên và bằng những con đường khác nhau những thanh niên ấy đã đến với chủ nghĩa cộng sản. Như vậy: Phong trào yêu nước là một nhân tố tham gia thành lập Đảng cộng sản Việt Nam vào đầu thế kỉ. 5. Sử dụng những kiến thức cơ bản trên để giải quyết những vấn đề sau trong các bài thi Mục tiêu, tính chất của phong trào yêu nước dân chủ công khai từ 1919 đến 1926? Mặt tích cực và hạn chế? Phân tích những nguyên nhân làm cho phong trào yêu nước dân chủ công khai ở Việt Nam thất bại? tại sao khuynh hướng dân chủ tư sản không thể đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Điều kiện thành lập Việt Nam quốc dân Đảng ? Phân tích tính non yếu của tổ chức về tư tưởng, tổ chức và phương pháp hoạt động. Những đóng góp của phong trào yêu nước với cách mạng Việt Nam? IV. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIỆT NAM TỪ 1919-1930 1.Quá trình ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Giai cấp công nhân: Ra đời trong chương trình khai thác của Pháp ở Việt Nam, số lượng tăng nhanh theo đà phát triển đầu tư vào các ngành kinh tế Pháp ( 10 vạn trước chiến tranh tăng lên 22 vạn năm 1929). Ngoài những đặc điểm chung của công nhân quốc tế, công nhân Việt Nam có đặc điểm riêng: Công nhân bị tư sản người Việt, đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột; có quan hệ gắn bó với nông dân; kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản; Đời sống vật chất, tinh thần của giai cấp công nhân thấp kém và khổ cực. Do bị áp bức, bóc lột khổ cực như vậy nên công nhân Việt Nam có tinh thần đấu tranh cách mạng cao. Sớm trở thành một động lực cách mạng theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến. 2.Diễn biến phong trào công nhân a.Từ năm 1919 đến 1925( đấu tranh tự phát) Mới ra đời công nhân Việt Nam tham gia đấu tranh trong phong trào yêu nước khác, tiêu biểu đầu độc lính Pháp ( Hà Nội 1906); khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1916, Ngoài ra họ bắt đầu đấu tranh với hình thức riêng là bãi công, trực tiếp chống bọn chủ cai thầu. Từ 1919 đến 1925 có 25 cuộc đấu tranh riêng biệt với hình thức bãi công có quy mô tương đối lớn nhưng mục tiêu còn nặng về kinh tế, chưa có sự phối hợp giữa các nơi( Biểu hiện của tính tự phát). Các cuộc đấu tranh tiêu biểu: Năm 1922, công nhân viên chứcc các sở công thương của tư nhân Bắc Bộ bãi công đòi nghỉ ngày chủ nhật có trả lương. Cùng năm công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo Nam Định, Hà Nội, Hải Dương và thợ nhuộm chợ Lớn bãi công. Năm 1925, phong trào công nhân phát triển nhảy vọt với việc xuất hiện nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn, có tổ chức và lãnh đạo của công hội. Trong đó điển - 11 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung hình nhất là cuộc bãi công tháng 8-1925 của thợ máy Ba Son, nhằm giữ lại chiếc tàu Misơlê, không cho Pháp chuyên chở lính sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách tăng lương 20%, đòi thợ bị đuổi trở lại làm việc. Để đảm bảo thắng lợi công hội vận động công nhân viên chức trong thành phố ủng hộ công nhân Ba Son. Sau 8 ngày đấu tranh cuộc bãi công giành thắng lợi. Như vậy, cuộc bãi công công nhân Ba Son là cuộc đấu tranh đầu tiên có tổ chức và lãnh đạo. Cuộc đấu tranh này không chỉ nhằm vào mục tiêu kinh tế, mà còn cao hơn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế của công nhân Việt Nam với Trung Quốc. Với cuộc bãi công của công nhân Ba Son đánh dấu công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và mục đích chính trị rõ ràng( tức là chuyển sang đấu tranh tự giác). Công nhân Việt Nam dần đi vào tổ chức, 1920 công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn thành lâp công hội đỏ( bí mật), do Tôn Đức Thắng đứng đầu, thu hút số đông hội viên. Cũng trong thời gian này nhiều công nhân và thủy thủ Việt Nam gia nhập các nghiệp đoàn và công hội Pháp, ở Quảng Châu, Thượng Hải ( Trung Quốc). Điều đó chứng tỏ ý thức giai cấp đang phát triển nhanh chóng và làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau. b. Giai đoạn từ 1925 đến 1930 (Công nhân V iệt Nam chuyển qua tự giác) b1.Nguyên nhân chuyển qua tự giác của phong trào công nhân Do chịu tác động của các trào lưu tư tưởng mới, nhất là ảnh hưởng CM tháng 10 Nga năm 1917, tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin xâm nhập vào nước ta, phong trào dân tộc ở Việt Nam dâng lên sôi nổi và tác động mạnh mẽ đến công nhân Việt Nam Đại hội V của Quốc tế cộng sản, có nhiều nghị quyết quan trọng về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa Hoạt động của hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng đã có tác dụng thúc đẩy phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác: mở lớp huấn luyện chinh trị, ra báo thanh niên..., phong trào vô sản hóa năm 1928 làm cho phong trào công nhân từ 1928 phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng b.2 Diễn biến Trong hai năm 1926-1927, có 27 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân bưu điện Sài Gòn, công nhân dệt Nam Định , công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm…. Các cuộc đấu tranh đòi tăng lương và ngày làm 8 giờ như công nhân bên Pháp. Điều này chứng tỏ công nhân đã biết tới lợi ích chung của giai cấp, bằng cách đề ra yêu cầu phù hợp với nguyện vọng của đông đảo công nhân. Trong các năm 1928-1929 có 40 cuộc đấu tranh của công nhân, nổ ra tại các trung tâm kinh tế và chính trị tiêu biểu như cuộc bãi công công nhân mỏ Mạo Khê, xi măng Hải Phòng, nhà máy cưa Bến Thủy. Đặc biệt cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa nhà máy Avia( Hà Nội), tháng 5/1929 có sự lãnh đạo của Kì bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, cuộc bãi công này nhận được sự hỗ trợ của công nhân nhiều nhà máy xí nghiệp ở Hà Nội. Sự phát triển mạnh của phong trào công nhân ngày càng có sức thu hút, lôi cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp khác, nhất là nông dân, đi vào cuộc đấu tranh chống đế - 12 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung quốc, phong kiến. Nông dân chống sưu cao thuế nặng( Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, Nghệ An…), học sinh, tiểu thương, tiểu chủ cũng tham gia đấu tranh. Nhìn chung phong trào công nhân 1925-1929 có biến đổi về chất, cuộc bãi công nổ ra rầm rộ, sôi nổi, quyết liệt hơn, có sự lãnh đạo của hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và Tân Việt. Mục tiêu đấu tranh không chỉ đòi quyền lợi kinh tế mà còn nhằm cả vào mục đích chính trị ( Chống chính sách áp bức bóc lột của tư bản và chính quyền thực dân phong kiến) chính bọn thực dân phải thừa nhận : Từ đây, hành động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những vụ âm mưu của các hội kín. Phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân và các tầng lớp thị dân lên cao, đòi hỏi tổ chức lãnh đạo phải cao hơn, từ đó dẫn đến cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ lãnh đạo của hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng, làm xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn vào năm 1929. Điều đó chứng tỏ phong trào công nhân Việt Nam phát triển mạnh. Cuối 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh, trong đó công nhân thực sự trở thành lực lượng tiên phong. Ba tổ chức cộng sản ra đời, hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng, làm cho phong trào yêu nước có nguy cơ bị chia rẽ lớn. Yêu cầu thống nhất ba tổ chức cộng sản thống nhất thành Đảng cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 đặt ra. Nhờ uy tín của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được chỉ đạo của quốc tế III, đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và đưa ra cương lĩnh hoạt động. Sự kiện này đánh dấu công nhân Việt Nam trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. 3.Đóng góp của phong trào công nhân với việc thành lập Đảng Phong trào công nhân(PTCN) là một bộ phận của phong trào yêu nước yêu nước, PTCN phát triển thì phong trào yêu nước sẽ phát triển. PTCN là mảnh đất màu mỡ tiếp nhận chủ nghĩa Mác- Lênin từ bên ngoài truyền bá vào VN PTCN là nhân tố quyết định kết hợp chủ nghĩa Mác và phong trào yêu nước để thành lập Đảng. 4. Sử dụng những kiến thức cơ bản trên để giải quyết những vấn đề sau trong các bài thi Phân tích thái độ chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam đầu thế kỉ. Trình bày diễn biến của phong trào công nhânViệt Nam từ 1919-1925. Tại sao nói từ 1919-1930, công nhân Việt Nam chuyển từ tự phát sang tự giác? V. NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI VIỆC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀO VIỆT NAM 1.Vì Sao Nguyễn Ái Quốc sang các nước phương Tây tìm đường cứu nước Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần yêu nước, thương dân của gia đình, lớn lên trên vùng đất giàu truyền thống yêu nước chống ngoại xâm thấm đẫm máu đào của bao anh hùng liệt sĩ. Nhà sử học Phan Huy Trú nhận định xứ sở Sông Lam núi Hồng có những nét rất riêng : Núi cao sông rộng, phong tục thuần hậu , cảnh tượng tươi sáng, gọi là đất danh tiếng hơn cả năm châu , Người thuần hòa mà chăm học, sản vật thì nhiều thứ quý lạ; chứng kiến cuộc sống nghèo khổ của nhân dân vì bị áp bức bóc lột, tất cả những điều ấy đã hằn sâu trong kí ức của người thanh niên Nguyễn Tất Thành. - 13 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các tầng lớp nhân dân Việt Nam không chỉ chịu bóc lột về kinh tế mà còn phải chịu nỗi nhục mất nước. Độc lập tự do là khát vọng của cả dân tộc Việt Nam. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp và bọn phản động tay sai trở nên gay gắt, giải phóng dân tộc trở nên cấp bách và là yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam. Các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX tiêu biểu là phong trào Cần vương bị đàn áp dẫm máu. Con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến thất bại. Đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yếu nước tiếp thu trào lưu mới, tiến hành cứu nước theo khuy hướng dân chủ tư sản như Đông kinh nghĩa Thục, Phong trào Đông Du… song đều thất bại. Sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối. Yêu cầu đặt ra cho cách mạng Việt Nam là có đường lối đúng. Người nhìn thấy những hạn chế trong chủ trương cứu nước của các bậc tiến bối,khâm phục lòng yêu nước của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan châu Trinh , Phan Bội Châu , nhưng không tán thành cách làm của họ.Theo Người Cụ Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật đánh Pháp , chẳng khác gì “Đưa Hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, Đối với Phan Châu Trinh muốn dựa vào Pháp đánh phong kiến và làm cho nước ta giàu nên, điều đó không thực hiện được chẳng khác gì “ xin giặc rủ lòng thương”. Chính những điều đó thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc ra nước ngoài tìm con đường cứu nước. Được tiếp xúc với văn minh Pháp, Nguyễn Tất Thành quyết định sang các nước phương Tây tìm hiểu xem họ làm như thế nào, rối về giúp đồng bào mình. Khác với các bậc tiền bối, nếu ở họ “xuất dương”để “ Cầu Viện”, chuẩn bị lực lượng kéo về nước, hoặc đào tạo cán bộ về chỉ đạo và phát động phong trào đấu tranh trong nước với mục đích chủ yếu của là nhằm tổ chức, tập hợp lực lượng thì Nguyễn Ái Quốc lại chủ trương sang phương Tây tìm con đường cứu nước. Khi trả lời nhà văn Mĩ An-na Luy xtơ-rông , Người nói rõ động cơ khiến Người rời Tổ Quốc: Nhân dân Việt Nam, trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người cho là Mĩ. Tôi thấy phải ra nước ngoài xem họ làm ăn ra sao ,tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi. Như vậy Nguyễn Ái Quốc là người có “ chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”. 2. Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc ( 1911-1920) Ngày 5/6/1911 với tên là Nguyễn Văn Ba , Người rời Tổ Quốc sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới “ Tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào về giúp đồng bào mình”. Năm 1912, Người từ Pháp sang nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mĩ. Cuối 1913, Người từ Mĩ về Anh sau đó sang Pháp. Đến bất kì nơi nào Người đều tìm hiểu cưộc sống của người lao động và luôn trăn trở cho số phận của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Khi đến Niu Oóc, Brúc xen, Bốt- xtơn… nước Mĩ, ngắm nhìn tượng thần tự do, biểu tượng của nước Mĩ: Nguyễn Tất Thành không chỉ khâm phục tài năng kiến trúc nghệ thuật của những người sáng tạo ra nó, mà còn trăn trở, ánh sáng của tượng thần tự do tỏa ra trên bầu trời xanh , còn dưới chân tượng Thần tự do này thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ đang bị chà đạp . Bao giờ người da đen mới bình đẳng với người da trắng. Bao giờ mới có sự bình đẳng giữa các dân tộc , bao giờ phụ nữ mới bình đẳng với nam giới.” - 14 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung ( Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại- NXB Lao động , Hà Nội, 1993trang 83) Như vậy: Từ 1911-1917, bằng cuộc sống lao động chân tay, giúp Nguyễn Ái Quốc phân biệt được bạn, thù: Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu người lao động cũng bị áp bức và bị bóc lột dã man. Cuối 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, năm 1919, tham gia đảng xã hội Pháp. 18-6-1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Véc-xai bản yêu sách của nhân dân An Nam đòi các quyền tự do, dân chủ, quyển bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận. Người rút ra bài học: muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. ( Trần Dân Tiên- những mẩu chuyện hoạt động của Hồ Chủ Tịch- NXB Văn nghệ) Tháng 7/1920, Người đọc luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc khẳng định phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Như vậy công lao đầu tiên của Người là tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam: con đường cách mạng vô sản, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Tháng 12-1920, tại đại hội Đảng xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp( là người cộng sản Việt Nam đầu tiên). Việc bỏ phiếu tán thành quốc tế III là sự kiện đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và lí luận chính trị của Nguyễn Ái Quốc được tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo. Theo Lê Duẩn: Sự kiện này cũng mở ra cho cách mạng Việt Nam một giai đoạn phát triển mới, “ giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế..” 3. Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam ( 1921 đến 1930) Năm 1921, cùng với một số người yêu nước khác lập hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pari, để tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống đế quốc. Viết báo “ Người cùng khổ” cơ quan ngôn luận của hội. Ngoài ra viết bài cho báo “ nhân đạo”, đặc biệt cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, để tố cáo tội ác của Pháp. 6-1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô dự hội nghị Quốc tế Nông dân( 10/1923) và Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản (1924), tại đại hội người trình bày bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc thuộc địa. 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu ( Trung Quốc) trực tiếp tuyên truyền, giáo dục lí luận, và lựa chọn những thanh niên tiên tiến trong “ tâm tâm xã” thành lập tổ chức “cộng sản đoàn”( 2/1925), làm nòng cốt cho hội Việt Nam thanh niên, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. 6-1925: thành lập hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, là tổ chức tiền thân của Đảng CSVN. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là tổng bộ ( Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn.) Ra báo thanh niên ( 6-1925) Tháng 7-1925, thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á-Đông, tôn chỉ là liên lạc với các dân tộc bị áp bức làm cách mạng đánh đế quốc. - 15 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung Như vậy : Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chuẩn bị chính trị và tư tưởng cho thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam. Những tư tưởng Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị đó là: Chủ nghĩa tư bản,chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù của nhân dân lao động, chỉ có làm cách mạng vô sản đánh đổ chủ nghĩa đế quốc mới giải phóng được giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới Công nông là gốc của cách mạng Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng thông qua đảng cộng sản, Đảng được vũ trang bằng lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Từ 1928- 1930, Nguyễn Ái Quốc không ngừng viết bài đăng trên Tạp chí thư tín quốc tế, để thức tỉnh đồng bào bị áp bức trên thế giới 1928- 1929, hoạt động ở Thái Lan,( với tên là Thầu Chín) tích cực giáo dục lòng yêu nước cho kiều bào Việt Nam. Cuối 1929,từ Xiêm( Thái Lan) về Hương Cảng triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ( Từ ngày 6/1/1930 đến 7/2/1930 ) thành lập một đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản ra đời là nhân tố cơ bản và cốt tử đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên, xác định con đường cho cách mạng Việt Nam: cách mạng vô sản, đó là con đường đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế thời đại, là ngọn cờ soi đường cho nhân dân Việt Nam tiến lên trong cuộc đấu tranh phản đế, phản phong. Kết luận: Qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ ( 1911-1930), chúng ta thấy NAQ có đóng góp lớn với CMVN . Những đóng góp đó là: Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đó là con đường cách mạng vô sản Chuẩn bị tư tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam. Trực tiếp triệu tập hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việt Nam. Soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở cho đường lối cách mạng Việt Nam sau này 4.Sử dụng những kiến thức cơ bản trên để giải quyết những vấn đề sau trong các bài thi Con đường tìm chân lí cứu nước của Nguyễn Ái Quốc có gì độc đáo so với bậc tiền bối?Nguyên nhân Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây tìm con đường cứu nước. Quá trình chuyển biến Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước thành một người cộng sản đã diễn ra như thế nào? Công lao của Nguyễn Ái Quốc với cách mạng Việt Nam từ 1911-1930? Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1911-1930. Ý nghĩa của những hoạt động đó với cáh mạng Việt Nam. Những tư tưởng Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị cho cahc1 mạng Việt Nam là gì? VI. CÁC TỔ CHỨC CÁCH MẠNG THEO KHUYNH HƯỚNG VÔ SẢN VÀ SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1. Các tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản - 16 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung a. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ( HVNCMTN)( 1925-1929) a1. Bối cảnh và quá trình ra đời Công nhân Việt Nam chưa trưởng thành cần có tổ chức quá độ để giác ngộ. Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên xô mở lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ, liên lạc với những người yêu nước, với tổ chức Tâm tâm xã, thành lập cộng sản đoàn(2/1925). Sự thành lập 6–1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, cơ sở hạt nhân là cộng sản đoàn. Chủ trương: tổ chức lãnh đạo quần chúng đoàn kết, đấu tranh để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai tự cứu mình. a2. Hoạt động Tháng 6-1925, xuất bản báo thanh niên, báo là cơ quan ngôn luận của hội Đầu 1927, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh. Báo thanh niên và sách Đường Kách mệnh đã trang bị lí luận cách mạng cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên để tuyên truyền cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Cuối 1928, thực hiện chủ trương “ vô sản hóa”; đưa hội viên thâm nhập vào nhà máy, đồn điền, tiến hành tuyên truyền vận động, nâng cao ý thức chính trị. Nhờ vậy phong trào công nhân biến đổi về chất (đấu tranh đã nổ ra nhiều nơi như Hải Phòng, Sài Gòn có sự liên kết nhiều ngành, nghề, địa phương). Số lượng hội viên tăng, năm 1929 hội có 1700 hội viên và có các cơ sở khắp cả nước. Các kì bộ Bắc kì, Trung kì, Nam kì thành lập. Sự phát triển mạnh của phong trào công nhân đưa đến sự ra đời của chi bộ cộng sản đầu tiên ở Hà Nội (3-1929), chi bộ mở rộng vận động để thành lập Đảng cộng sản( Thành viên gồm: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tôn( Nguyễn Tuân)) a3. Vai trò của HVNCMTN: Truyền bá CN Mác- Lênin vào phong trào yêu nước và Phong trào công nhân Việt Nam. Giác ngộ, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân, thúc đẩy phong trào công nhân phát triển mạnh sang giai đoạn tự giác. Chuẩn bị về tổ chức, đội ngũ cán bộ cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. a4. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với việc thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Nhìn thấy yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam cần có một tổ chức quá độ để tuyên truyền giác ngộ giai cấp công nhân. Trực tiếp tuyển chọn và mở lớp huấn luyện chính trị đào tạo thanh niên yêu nước thành cán bộ cách mạng.Vạch ra mục đích, chương trình của hội. Lựa chọn con đường đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. b. Sự ra đời và hoạt động của Tân Việt cách mạng đảng. b1. Bối cảnh và quá trình ra đời Phong trào yêu nước dân chủ công khai phát triển mạnh. - 17 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung 14-7-1925, thành lập Hội Phục Việt, sau đổi thành Hội Hưng Nam. Sau nhiều lần đổi tên và do ảnh hưởng về tư tưởng chính trị của hội Việt Nam cách mạng thanh niên 14-7-1928, Tân Việt Cách mạng đảng thành lập. Thành phần là trí thức và thanh niên tiểu tư sản yêu nước. Địa bàn hoạt động chủ yếu ở Trung Kì. Chủ trương: Lãnh đạo quần chúng trong nước, liên lạc với các dân tộc bị áp bức thế giới, đánh đổ đế quốc, thiết lập xã hội bình đẳng và bác ái. b2. Hoạt động Do ảnh hưởng tư tưởng cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc, Tân Việt cách mạng đảng có sự phân hóa, một bộ phận gia nhập hội Việt Nam CM thanh niên, bộ phận còn lại tích cực chuẩn bị thành lập một chính đảng Vô sản. b3.Vai trò: tập hợp thanh niên yêu nước và tuyên truyền tư tưởng dân chủ tiến bộ. c.Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản năm 1929 c1. Hoàn cảnh Năm 1929, phong trào công nhân, nông dân và các tầng lớp khác phát triển mạnh, kết thành một làn sóng dân tộc ngày càng sâu rộng. Cuối 3-1929, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam thành lập( số 5D Hàm Long- Hà Nội). 5-1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, đoàn đại biểu Bắc Kì yêu cầu thành lập đảng cộng sản nhưng không được chấp nhận. c2.Các tổ chức Cộng sản thành lập 6/1929, đại biểu của tổ chức cộng sản thành lập Bắc Kì họp quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của đảng. 8/1929, Hội viên của hội VNCMTN trong tổng bộ và kì bộ Nam kì thành lập An Nam Cộng sản đảng , báo Đỏ là cơ quan ngôn luận của Đảng. 9/ 1929, đảng viên tiên tiến của Tân Việt CM đảng thành lập Đông Dương Cộng liên đoàn ở Trung Kì., ra báo “ Tuyên đạt” làm cơ quan ngôn luận. c3. Ý nghĩa Sự ra đời 3 tổ chức cộng sản là xu thế phát triểnkhách quan của cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là kết quả tất yếu của cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam trưởng thành đủ sức lãnh đạo cách mạng. 2.Sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam a.Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam a1.Hoàn cảnh Năm 1929, 3 tổ chức cộng sản ra đời hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng , làm ảnh hưởng đến tâm lí quần chúng và sự phát triển của phong trào cách mạng. Yêu cầu thống nhất đất nước đặt ra cấp thiết. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc từ Thái Lan về Trung Quốc, triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản từ ngày 6-1-1930 đến 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tiến hành tại Cửu Long (Trung Quốc- Nguyễn Ái - 18 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung Quốc chủ trì). a2. Nội dung Hội nghị nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt( do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo), được gọi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ra lời kêu gọi các tầng lớp nhân dân, nhân ngày thành lập Đảng với nội dung “… Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”. a3. Ý nghĩa Hội nghị mang tầm vóc của một đại hội thành lập Đảng vì : Hội nghị thành lập được tổ chức chính đảng ( Đảng cộng sản Việt Nam), thông qua điều lệ, cương lĩnh hoạt động của tổ chức mặc dù còn ngắn gọn. Nguyên nhân thành công của hội nghị: Ba tổ chức cùng một xu hướng cách mạng vô sản, vai trò uy tín của Nguyễn Ái Quốc, được chỉ đạo của quốc tế thứ III. a4. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong hội nghị thành lập Đảng Trực tiếp tổ chức và chủ trì hội nghị, phê phán những hành động thiếu thống nhất của 3 tổ chức cộng sản trong nước trong việc giành quyền lãnh đạo cách mạng và tranh giành đảng viên. Viết và thông qua cương lĩnh chính trị đầu tiên, vạch ra đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam : làm cách mạng dân tộc dân chủ tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đề ra kế hoạch để các tổ chức cộng sản về nước xúc tiến việc hợp nhất b.Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên b.1.Nội dung Đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng đi tới xã hội cộng sản. Nhiệm vụ của cách mạng Đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập, tự do; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phong kiến phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất.... Lực lượng cách mạng là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Trung , tiểu điạ chủ, tư sản dân tộc thì lợi dụng hoặc trung lập họ. Lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Quan hệ với cách mạng thế giới: Liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới. Nhận xét: Là Cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng cốt lõi. Tính đúng đắn của cương lĩnh thể hiện: Chủ nghĩa Mác -Lênin được vận dụng vào đường lối cách mạng Việt Nam: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nhờ đường lối này mà CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tính sáng tạo thể hiện: Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam: Cương lĩnh kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, trong đó độc lập dân tộc là vấn đề cốt lõi. Lực lượng cách - 19 - Chuyên đề lịch sử Phạm Thị Nhung mạng là : công nông đoàn kết với các giai cấp khác. Điều đó thể hiện vấn đề đoàn kết giai cấp và dân tộc đúng đắn. 3. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng cộng sản Việt Nam (10 – 1930) a. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương 10-1930, Hội nghị lần I của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương. Cử BCH trung ương chính thức, thông qua Luận cương chính trị do Trần Phú soạn thảo. b. Nội dung Luận cương chính trị b1. Nội dung Tính chất: cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiến thắng lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ phong kiến và đế quốc, hai nhiệm vụ có quan hệ khăng khít nhau. Động lực cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân. Lãnh đạo cách mạng là công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng Sản. Luận cương chính trị nêu rõ hình thức và phương pháp đấu tranh, mối quan hệ với cách mạng thế giới. b2. Hạn chế Chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương là mâu thuẫn dân tộc, không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất. Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo bộ phận trung tiểu địa chủ. 4. Điểm thống nhất và khác biệt giữa chính cương vắn tắt ( 2/1930) và Luận cương chính trị ( tháng 10/1930) a. Điểm thống nhất Luận cương chính trị tháng 10/1930, đã có sự kế thừa chính cương và sách lược vắn tắt: đều xác định tính chất của cách mạng và các giai đoạn tiến hành cách mạng ở Việt Nam và Đông Dương: cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiến thắng lên xã hội chủ nghĩa. Xác định nhiệm vụ cách mạng là đánh đế quốc và phong kiến và nhấn mạnh vai trò và sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản. b. Điểm khác biệt Tên Đảng: Tháng 2/1930, gọi là Đảng cộng sản Việt Nam; tháng 10/1930 là Đảng cộng sản Đông Dương. Thái độ của Đảng đối với tư sản, trung, tiểu địa chủ: Cương lĩnh chính trị đầu tiên( 2/1930) khẳng định: Trung , tiểu điạ chủ, tư sản dân tộc thì lợi dụng hoặc trung lập họ.Luận cương chính trị ( tháng 10/1930), không đánh giá đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc , khả năng lôi kéo bộ phận trung tiểu địa chủ. Về tính chất giai cấp trong việc tổ chức đấu tranh: Cương lĩnh chính trị đầu tiên( 2/1930): khẳng định đấu tranh giải phóng dân - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan