Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn một cách tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí min...

Tài liệu Skkn một cách tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh trong môn ngữ văn bậc thpt.

.PDF
21
963
56

Mô tả:

BM 01-Bia SKKN SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Trường THPT Xuân Thọ Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ ĐỌC VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHO HỌC SINH SẮM VAI NHÂN VẬT Người thực hiện: NGUYỄN THỊ THANH TÂM Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục  Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn Phương pháp giáo dục  Lĩnh vực khác: .........................................................  Có đính kèm:  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh Năm học: 2012 - 2013 0  Hiện vật khác SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC BM02-LLKHSKKN I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: NGUYỄN THỊ THANH TÂM 2. Ngày tháng năm sinh: 02/12/1984 3. Nam, nữ: NỮ 4. Địa chỉ: ấp Thọ Hòa, xã Xuân Thọ, huyện Xuân lộc, tỉnh Đồng Nai. 5. Điện thoại: CQ: 0613731769 ĐTDĐ: 0944037101 6. Fax: E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: giáo viên trung học 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Xuân Thọ II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân - Năm nhận bằng: 2007 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn văn. - Số năm có kinh nghiệm: 5 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 1 MỤC LỤC I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................... 3 II.THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI .. 4 1. Thuận lợi.......................................................................................................... 4 2. Khó khăn:......................................................................................................... 5 3. Số liệu thống kê: .............................................................................................. 6 III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI ..................................................................................... 6 1. Cơ sở lý luận:................................................................................................... 6 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: ................................... 7 a. Nội dung: ......................................................................................................... 7 b. Biện pháp thực hiện các giải pháp: ............................................................... 10 c. Tổng kết đánh giá ưu, nhược điểm: ................................................................ 12 3. Thiết kế thực nghiệm: .................................................................................... 13 a. Tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao:.................................................................... 13 b. Tác phẩm Người trong bao của Shê-khốp: ..................................................... 14 IV. KẾT QUẢ :................................................................................................. 15 V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM......................................................................... 16 1. Khâu chuẩn bị phải kĩ lưỡng: ......................................................................... 16 2. Khâu thực hiện trên lớp phải hiệu quả:.......................................................... 17 3. Khâu quan sát, hỗ trợ phải linh hoạt: ............................................................. 17 4. Khâu nhận xét đánh giá phải chính xác: ........................................................ 17 VI. KẾT LUẬN ................................................................................................ 17 VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 18 2 BM03-TMSKKN Tên sáng kiến kinh nghiệm: TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ ĐỌC VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHO HỌC SINH SẮM VAI NHÂN VẬT I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI - Trong những năm gần đây, cùng với một số môn học khác, thực trạng dạy học môn Văn được đề cập nhiều trên các phương tiện truyền thông, trong đó đặc biệt nhấn mạnh thực trạng học sinh lười học văn. - Từ thực trạng đó, ngành giáo dục đã chú trọng việc đổi mới chương trình giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập ngày nay đang được triển khai rầm rộ. Tuy nhiên hiệu quả của những phương pháp đổi mới này vẫn còn gây nhiều băn khoăn, trăn trở vì mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và khuyết điểm riêng. - Mỗi đối tượng học sinh có một khả năng tiếp cận riêng và mỗi bộ môn lại cần có một phương pháp dạy phù hợp. Vì vậy, để lựa chọn phương pháp thật sự hiệu quả trong giờ dạy văn là điều mà tôi cũng như rất nhiều giáo viên trăn trở. Đã có rất nhiều phương pháp đổi mới được áp dụng như: Thảo luận nhóm, câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi gợi mở, sử dụng đồ dùng dạy học hay dùng công nghệ thông tin, nhưng những phương pháp trên chủ yếu chú trọng đến khâu giảng dạy trên lớp mà chưa nhấn mạnh được khâu chuẩn bị bài của học sinh. Vậy phương pháp nào là tối ưu, phù hợp nhất? - Môn văn hiện nay đã được tích hợp nhưng vẫn chia thành ba phân môn: tiếng việt, làm văn, đọc văn. Riêng phân môn đọc văn cũng được chia làm bốn mảng: văn học sử, lí luận văn học, thơ, và văn xuôi (truyện). Khi dạy phân môn đọc văn, tôi luôn suy nghĩ về vấn đề lựa chọn phương pháp sao cho thật sự hiệu quả phù hợp với từng mảng kiến thức.  Ví dụ:  Dạy văn học sử, tôi thường vận dụng phương pháp trực quan (sơ đồ).  Dạy thơ, tôi thường đổi mới cách đọc bằng sự hỗ trợ của các bài ngâm từ các nghệ nhân ngâm thơ mà tôi tải được trên mạng Internet.  Riêng mảng văn xuôi (truyện), tôi cũng đã áp dụng phương pháp hỗ trợ từ công nghệ thông tin để soạn giảng bằng giáo án điện tử và kết hợp cho hs xem phim, kịch... Nhưng tôi nhận thấy một điều là khi xem phim hoặc kịch xong các em chỉ thích thú lúc đó chứ không thật sự hiểu sâu sắc về nhân vật và tác phẩm. 3 - - - II. 1. - - Năm học 2012-2013 này, khi được phân công dạy bộ môn văn lớp 11, nhận thấy thực trạng học sinh rất lười học văn và thậm chí chán ghét môn văn, đặc biệt là mảng văn xuôi (truyện).Tôi đã tìm hiểu và thấy rằng, nguyên nhân mà các em không thích giờ đọc truyện vì theo các em tác phẩm truyện thường dài nên nhiều em rất lười đọc tác phẩm và dù có đọc cũng chỉ rất sơ sài. Với cách tiếp cận tác phẩm như thế của học sinh và thời gian hạn chế trên lớp thì không thể có kết quả tốt cho giờ học được. Vậy, làm thế nào để các em hào hứng với giờ đọc truyện và với cả phần chuẩn bị bài trước khi lên lớp? Để giải quyết khúc mắc trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp: “Tạo hứng thú trong giờ đọc văn bằng phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật”. Vì trong thời gian thử nghiệm nên tôi chỉ áp dụng phương pháp này trong tiết đọc truyện của chương trình ngữ văn 11. Phương pháp mà tôi lựa chọn không hoàn toàn mới lạ nhưng trong một năm thực hiện tôi nhận thấy nó có nhiều ưu điểm và căn bản là tôi đã đưa ra được một số giải pháp hợp lí và thiết thực. Trên hết, phương pháp này đã góp phần cải thiện rất nhiều căn bệnh “lười học” của học trò tôi. Tuy nhiên, vì phương pháp này chưa được áp dụng rộng rãi và trong giới hạn của đề tài sẽ vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của quý đồng nghiệp. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI Thuận lợi Tác phẩm truyện bao giờ cũng là một hệ thống động và do đó trong hoạt động tiếp nhận tác phẩm, người đọc không phải là khách thể thụ động mà là một chủ thể có ý thức, một chủ thể đồng sáng tạo. Người đọc là người cùng tham gia vào tiến trình sáng tạo để xây dựng ý nghĩa của tác phẩm truyện. Như vậy, có thể nói phương pháp cho học sinh nhập vai nhân vật là một trong những phương pháp thích hợp vì đây là phương pháp tích cực, tạo hiệu quả kép, kích thích để các em tìm tòi, khám phá, đồng cảm cùng nhân vật và mở ra được sự giao tiếp đối thoại giữa nhà văn – học sinh. Trình độ nhận thức và đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc thưởng thức, tiếp nhận tác phẩm. Học sinh ở lứa tuổi này hoàn toàn có khả năng tư duy trừu tượng và tưởng tượng tái hiện. Học sinh có thể nhìn nhận, đánh giá về sự vật, hiện tượng một cách sâu sắc và độc lập. Ở lứa tuổi này, học sinh có nhu cầu ham hiểu biết, khao khát tìm hiểu thế giới xung quanh. Khi tiếp cận tác phẩm, trước những tình huống, sự kiện, số phận của các nhân vật trong tác phẩm, các em sẽ băn khoăn, suy nghĩ, đòi hỏi một sự lý giải, phân tích. Đặc biệt, khi được 4 - - 2. - - - chính mình thể nghiệm nhân vật, các em sẽ có cơ hội trải nghiệm tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, từ đó hiểu sâu hơn về nhân vật, về tác phẩm về những nỗi niềm của nhà văn với số phận con người. Trên thực tế, chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 đã thực hiện sự đổi mới. Vấn đề tích hợp ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Làm Văn ở bộ SGK Ngữ Văn 11 - Cơ bản rất hợp lí theo thứ tự số tiết/tuần và số tuần học theo phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong đó, thời lượng dành cho mảng giảng dạy tác phẩm truyện là tương đối lớn. Tác phẩm truyện trong chương trình văn 11 đều là tác phẩm của các nhà văn tên tuổi và chủ yếu đặt ra những vấn đề hiện thực của xã hội nên cũng gần gũi với học sinh. Đây cũng là điều kiện thuận lợi giúp các em tiếp cận tác phẩm dễ dàng hơn và giúp tôi thực hiện phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật hiệu quả hơn. Đồng thời, hiện nay công nghệ thông tin ngày càng phát triển, cơ sở vật chất đầy đủ, sự quan tâm của các cấp ban ngành cũng góp phần tích cực lớn cho phương pháp giảng dạy trong đó có phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật mà tôi đang nghiên cứu. Khó khăn: Hiện nay, môn văn không phải là môn học được học sinh quan tâm và đầu tư nhiều, thậm chí có em còn tỏ ra chán ghét và chống đối khi phải học văn. Thực tế học sinh không cảm thấy học văn tốt sẽ có “tương lai tươi sáng” nên chủ yếu các em chỉ học theo kiểu đối phó, thời gian chủ yếu là các em đầu tư cho các môn khối A,B,A1. Rất ít học sinh chọn thi khối C (vì ít ngành đào tạo và khó xin việc), khối D (vì hs nông thôn rất yếu môn ngoại ngữ), nên hs yêu văn và quan tâm đến văn rất ít. Thậm chí, nhiều học sinh còn tận dụng giờ văn để “ngủ dưỡng sức”, làm việc riêng hoặc học bài môn khác... nếu gv dễ: hoặc ngáp dài, ngáp ngắn, chán nản, mệt mỏi... vì giờ học không có gì hay và hứng thú, mặc dù giáo viên giảng hay, còn tồn tại rất nhiều. Đặc biệt là học sinh 11, vì đây là khối lớp mà các em đã quen thầy cô, bạn bè không còn sự nhút nhát bỡ ngỡ của lớp 10 nhưng cũng chưa phải học để thi tốt nghiệp và đại học như học sinh 12. Nhu cầu xã hội không cao, gia đình không khuyến khích hs học văn, các tiết học văn đôi khi còn bị cắt xén giảm tải đến tối đa... cũng là một trong những nguyên nhân khiến hs không hứng thú với môn văn. Từ thực trạng ấy, giáo viên đôi khi cũng chán nản không muốn đầu tư công sức cho việc giảng dạy cũng như đổi mới phương pháp và đôi khi thấy chạnh lòng vì công lao mình bỏ ra cũng không được đền đáp. 5 - Mặt khác, để sắm vai nhân vật thành công còn đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo của cả học sinh lẫn giáo viên và sự hỗ trợ của các yếu tố khác. Trong khi đó: Không phải tác phẩm truyện nào cũng có thể dễ dàng để phân vai cho học sinh vì quá khó (Chữ người tử tù) hoặc vì bối cảnh rộng, nhiều nhân vật (Hạnh phúc của một tang gia)... - Trường THPT Xuân Thọ là trường mới thành lập, lại ở vùng sâu nên mặt bằng học sinh thấp, việc lĩnh hội kiến thức của các em ngay trong lớp có tiết đọc truyện cũng không đồng đều; chính vì thế, khi triển khai phân vai cho hs giáo viên cũng khá vất vả. Các em đều thấy rất hào hứng khi được xem bạn bè diễn kịch nhưng khi được phân công đảm nhận vai nhân vật thì đa phần các em đều từ chối vì: sợ không thực hiện được, sợ quê... - Mỗi tiết học 45 phút nên với những tác phẩm hay đoạn trích chỉ học 2 tiết thường không đủ thời gian để các em vừa thực hiện việc sắm vai lại vừa đảm bảo đọc – hiểu nội dung và nghệ thuật. - Điều kiện trang phục, âm thanh, ánh sáng và các điều kiện hỗ trợ khác còn thiếu thốn nên khi triển khai còn rất nhiều khó khăn, nếu tiết đọc truyện nào cũng thực hiện thì dễ dẫn đến nhàm chán vì đơn điệu. 3. Số liệu thống kê: - Theo phiếu khảo sát câu hỏi: “Em muốn có giờ học văn như thế nào?” đối với các lớp 11B8, 11B9, 11B10 thì câu trả lời của các em chủ yếu là:  Giáo viên vui vẻ, không gây áp lực cho học sinh, kết hợp giữa chơi và học.  Cần kết hợp phương tiện hiện đại với đổi mới phương pháp giảng dạy, cho học sinh xem phim, hoạt động ngoại khóa...  Đối với những tiết đọc truyện, giáo viên cần cho hs diễn kịch hoặc tái hiện nhân vật để khắc sâu hình tượng nhân vật và nội dung bài học. - Như vậy, đa phần các em đều muốn áp dụng phương pháp sắm vai nhân vật trong tiết đọc truyện nhưng trong quá trình dạy, vì điều kiện chủ quan từ phía học sinh mà tôi chỉ có thể áp dụng phương pháp này cho lớp 11B8, 11B10 còn lớp 11B9 sẽ là lớp đối chứng. III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận: - Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức 6 - - - - - 2. a.  - vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 11 tôi nhận thấy, muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Ở THCS và lớp 10, các em đã được học rất nhiều tác phẩm truyện nhưng khi gv nhắc lại các tác phẩm đó hs chỉ nhớ một cách mơ hồ thậm chí có nhiều em cũng không biết mình đã học hay chưa. Nguyên nhân chủ yếu là trong những tiết học truyện giáo viên thường dạy theo phương pháp truyền thống nên học sinh không có ấn tượng về tác phẩm, về nhân vật. Ngay bản thân tôi cũng có một kỉ niệm không thể quên về giờ đọc văn năm lớp 8, khi đó, tôi được cô phân công đọc vai nhân vật bà Nghị Quế. Thay vì đọc là “cho thêm chị Dậu hai hào” thì tôi lại đọc thành “một hào hai”. Thời gian trôi qua đã lâu, và lời giảng của cô cũng phai nhòa theo năm tháng nhưng kỉ niệm về nhân vật thì không bao giờ phai nhòa trong tôi, và cũng vì thế mà nội dung bài học cũng được khắc họa sâu hơn. Mà điều quan trọng nhất là buổi học hôm ấy của chúng tôi cũng thật thú vị... Từ thực tế ấy, với mong muốn tổ chức tiết đọc truyện có hiệu quả, tôi mạnh dạn đóng góp phương pháp: “Tạo hứng thú trong giờ đọc văn bằng phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật”. Phương pháp mà tôi đưa ra mang tính kế thừa nhưng vẫn rất cấp thiết trong tình hình thực tế hiện nay. Trong một năm nghiên cứu và ứng dụng tôi cũng đã tìm ra được một số biện pháp thực hiện đề tài cụ thể mang tính thực tiễn cao và có thể áp dụng cả trong chương trình Ngữ văn 10 và 12. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: Nội dung: Thể loại truyện: Khái lược về truyện: Cũng như thơ, truyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật (thuộc phạm trù tự sự ) nhằm đáp ứng các nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ và giải trí của con người bằng cách kể chuyện. Truyện hấp dẫn người 7 -    - - đọc bởi cái cõi đời sống vừa quen thuộc vừa lạ lẫm với hàng loạt những tình tiết, sự kiện, biến cố liên tiếp xảy gây cảm giác hồi hộp, căng thẳng, bất ngờ. Truyện lôi cuốn người đọc theo dõi diễn biến cuộc đời của một hay nhiều nhân vật có tính cách và số phận giống mình hoặc ngược lại với mình trong mối quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh với môi trường xung quanh từ đó hiểu sâu hơn về tính cách và số phận của chúng. Truyện có khi đi vào phản ánh đời sống tâm tư bí ẩn và tế nhị của con người, thí dụ Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Có khi gây ám ảnh về một số phận, một cuộc đời bi thảm, thí dụ Chí Phèo của Nam Cao. Nhưng cũng có thể tái hiện những bức tranh xã hội rộng lớn trên một chiều dài của lịch sử chẳng hạn Tấn trò đời của Banzăc, Chiến tranh và hoà bình của L.Tônxtôi...Truyện sử dụng nhiều hình thức ngôn ngữ như ngôn ngữ của người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật (trong ngôn ngữ nhân vật có lời đối thoại, lời độc thoại nội tâm). Ngôn ngữ của người kể chuyện cũng được sử dụng khá linh hoạt, có khi ở bên ngoài đóng vai trò dẫn dắt tình tiết, hành động, miêu tả sự kiện, biến cố; có khi nhập vào lời nhân vật. Ngôn ngữ truyện và ngôn ngữ đời sống cũng có mối quan hệ gắn bó được vận dụng uyển chuyển tạo nên sức hấp dẫn của sự sống động và chân thực. Các kiểu truyện Xét theo kiểu truyện có thể chia thành 3 loại: Kiểu tự sự dân gian Kiểu tự sự trung đại Kiểu tự sự hiện đại Trong tự sự dân gian (truyện dân gian) có: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn. Trong tự sự trung đại có truyện viết bằng chữ Hán ( Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ; Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái...) truyện viết bằng chữ Nôm có Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu...) Trong tự sự hiện đại: có truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài... Những lưu ý khi đọc truyện Cần tìm hiểu bối cảnh xã hội và hoàn cảnh sáng tác để hiểu sâu hơn nội dung và các tầng ý nghĩa của truyện. Chú ý các yếu tố thuộc về nội dung của truyện: cốt truyện, nhân vật, tình tiết; các yếu tố thuộc về hình thức của truyện: điểm nhìn trần 8     -  thuật, giọng điệu, ngôn ngữ. Về cốt truyện: Nắm được cốt truyện là yêu cầu thông thường khi đọc truyện. Nhưng vì cốt truyện là hệ thống sự kiện, biến cố xảy ra trong đời các nhân vật có tác dụng làm bộc lộ tính cách và số phận nhân vật cho nên nắm được cốt truyện còn có nghĩa là phải hiểu được các sự kiện và biến cố trong truyện có một ý nghĩa như thế nào trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật và chuyển tải thông điệp của tác phẩm. Ví dụ: Với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, nếu tiếp cận ở góc độ quan hệ giữa Chí Phèo với thị Nở thì hành trình cuộc đời Chí Phèo sẽ được chia thành hai chặng: Chặng trước khi gặp thị Nở và chặng sau khi có thị Nở. Về nhân vật: Là yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm văn học, nhân vật được biểu hiện qua các phương diện: ngoại hình, hành động, ngôn ngữ và thế giới nội tâm. Mỗi phương diện đều góp phần bộc lộ những nét riêng trong tính cách và số phận của nhân vật. Các cây bút tài năng thường không chỉ để dấu ấn riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật khiến các nhân vật có thể trở thành những hình tượng nghệ thuật bất hủ, có sức sống lâu bền trong ký ức của nhiều thế hệ người đọc mà còn khơi gợi ta suy ngẫm về những chiều sâu khác nữa của ý nghĩa nhân sinh. Thí dụ: Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Sở Khanh của Nguyễn Du; Xuân Tóc Đỏ, Nghị Hách của Vũ Trọng Phụng; Chí Phèo, Thị Nở của Nam Cao... Cũng thế, các yếu tố như tình tiết, điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ đều là nơi bộc lộ sức hấp dẫn của truyện nếu ta biết cách tìm hiểu đúng hướng và kỹ lưỡng. Thực tế giảng dạy giờ đọc thể loại truyện: Để giờ dạy đọc thể loại truyện đạt hiệu quả cao luôn cần phải đảm bảo thực hiện tốt hai khâu: soạn bài của học sinh và thực hiện giờ dạy tốt của giáo viên. Với khâu soạn bài: giáo viên thường dặn dò học sinh tìm hiểu phần tác giả, đọc trước tác phẩm và tóm tắt, trả lời câu hỏi theo phần hướng dẫn học bài có trong sách giáo khoa. Nhưng thông thường với những yêu cầu ấy của giáo viên, học sinh chỉ soạn sơ sài theo kiểu đối phó bằng cách chép lại phần trả lời trong sách học tốt hoặc chép lại phần soạn bài của bạn. Nếu giáo viên kiểm tra phần đọc tác phẩm của học sinh bằng cách yêu cầu tóm tắt tác phẩm thì các em cũng sẽ đối phó bằng cách đọc thuộc phần tóm tắt có sẵn trong sách hoặc chép từ sách học tốt. Tóm lại, học sinh sẽ không đọc cũng 9  -    b.  - - -  như tìm hiểu tác phẩm trước ở nhà một cách nghiêm túc dẫn đến kết quả giờ dạy không cao. Với khâu giảng dạy trên lớp: giáo viên thường phải cho học sinh đọc tác phẩm vì nếu không thì sẽ không thể có giờ học tốt. Nhưng đọc tác phẩm tại lớp sẽ rất mất thời gian vì tác phẩm truyện thường rất dài mà chỉ đọc thông thường sẽ không thể gây được hứng thú để học sinh có thể tập trung vào bài học và cũng không nắm được tác phẩm. Như vậy, học sinh chuẩn bị bài tốt thì sẽ góp phần lớn cho giờ học ở trên lớp được thành công. Làm thế nào để cho học sinh nghiêm túc chuẩn bị bài và hứng thú khi học giờ đọc truyện mà chủ động chiếm lĩnh kiến thức? “Tạo hứng thú trong giờ đọc văn bằng phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật” là giải pháp mà tôi lựa chọn để giải quyết vấn đề đã đặt ra. Và các giải pháp để vận dụng phương pháp cho học sinh sắm vai là: Xác định mục đích của phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật. Xác định nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ đọc truyện. Các bước tiến hành cho học sinh sắm vai nhân vật. Biện pháp thực hiện các giải pháp: Để các tiết đọc truyện được thành công, đặc biệt tạo được sự hứng thú cho giờ học, người giáo viên và học sinh cần tuân thủ theo các trình tự như sau: Xác định mục đích của phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật: Phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh: khi sắm vai nhân vật học sinh phải tự đọc tác phẩm, tự tìm tòi, khám phá nhân vật để có thể sắm vai và tái hiện lại nhân vật một cách chính xác, sinh động nhất. Như vậy, phương pháp này cũng là một giải pháp tích cực giúp giải quyết khâu chuẩn bị bài của học sinh. Giúp cho học sinh có sự tự tin trong học tập, và đặc biệt là tự tin trước đám đông, đồng thời có điều kiện tự nhìn nhận, khám phá năng khiếu của bản thân. Tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: qua việc sắm vai nhân vật, học sinh có thể nắm bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo thông qua sự tự tư thể nghiệm của bản thân . Áp dụng phương pháp này sẽ khích thích học sinh tìm kiếm những nguồn tri thức có liên quan đến nhân vật, tác phẩm. Trên cơ sở đó, các em sẽ thu lượm những kiến thức cho bản thân thông qua quá trình tìm kiếm tri thức; đồng thời, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng sống cần thiết. Xác định nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ đọc truyện: Nhiệm vụ của giáo viên: 10  Khâu chuẩn bị: Thường được thực hiện ở tiết trước: - Trước khi tiến hành cho học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên trước hết cần phác thảo trước kịch bản cho từng tác phẩm truyện. Tùy vào dụng ý của từng tiết dạy mà giáo viên sẽ định hướng cho cho học sinh sẽ sắm vai nhân vật như thế nào. - Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm và đọc tài liệu liên quan đến tác phẩm: sách giáo khoa và các tài liệu khác như sách tham khảo, phim ảnh, kịch… - Sau cùng, giáo viên tiến hành phân vai cho từng học sinh. Việc phân vai trước hết là theo sự tình nguyện và khả năng của học sinh.  Khâu thực hiện: Ở tiết dạy trên lớp, sau phần tiểu dẫn thay cho phần đọc hoặc tóm tắt tác phẩm: - Khi học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên cần tập trung theo dõi. Khi học sinh gặp khó khăn, lúng túng trong thể hiện lời thoại hoặc thể hiện chưa đúng tính cách nhân vật giáo viên cần kịp thời can thiệp, hướng dẫn học sinh thể hiện nhân vật thật tự nhiên hoặc quay lại với tác phẩm nếu học sinh diễn quá đà. Cần lưu ý là phần sắm vai là để phục vụ cho bài học nên giáo viên cần quản lí lớp thật tốt để các em thật tập trung. - Cuối phần thể hiện của học sinh, nhiệm vụ của giáo viên là nhận xét, đánh giá, ghi nhận đóng góp của học sinh, cho điểm. Nhiệm vụ của học sinh  Khâu chuẩn bị: Thường được thực hiện ở nhà: - Đối với tất cả học sinh, cần đọc kĩ tác phẩm, tóm tắt, soạn bài trước ở nhà để trong tiết học trên lớp phải nhận xét, đánh giá được phần thể hiện vai diễn của bạn. - Đối với học sinh được phân vai, ngoài phần chuẩn bị bài thông thường còn cần phải tập thể hiện vai nhân vật thật kĩ ở nhà (có thể có cả trang phục, dụng cụ hỗ trợ).  Khâu thực hiện: Ở tiết dạy trên lớp, thực hiên sau phần giới thiệu về tác giả, tác phẩm thay cho phần đọc hoặc tóm tắt tác phẩm: - Khi sắm vai nhân vật, học sinh cần thể hiện thật tự nhiên, linh hoạt ở từng tình huống sao cho lời thoại rõ ràng, chính xác, cảm xúc nhất. - Với học sinh theo dõi cần trật tự, nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá phần thể hiện nhân vật. - Cuối phần thể hiện nhân vật, học sinh cần tự nhận xét, đánh giá và rút kinh nghiệm phần thể hiện nhân vật.  Các bước tiến hành cho học sinh sắm vai nhân vật: 11 - Bước 1: Sau khi giới thiệu về tác giả, học sinh sẽ giới thiệu về tác phẩm và nhân vật sẽ tiến hành sắm vai. - Bước 2: Học sinh sẽ thể hiện vai nhân vật trước lớp (có thể là một hoặc nhiều học sinh). - Bước 3: Lớp nhận xét, đánh giá phần trình bày của học sinh và cảm nhận ban đầu về nhân vật. - Bước 4: Giáo viên đưa ra nhận định ban đầu về nhân vật, cho điểm học sinh và chuyển sang phần tìm hiểu tác phẩm. c. Tổng kết đánh giá ưu, nhược điểm: Ưu điểm - Phát huy tính chủ động, tích của học sinh trong việc soạn bài ở nhà: Chuẩn bị bài là một khâu quan trọng để học sinh trở thành chủ thể tiếp nhận văn bản. Nếu trước đây học sinh chỉ soạn bài theo kiểu đối phó, thì nay với phương pháp này, các em chủ động và kĩ lưỡng hơn. - Giúp học sinh khắc sâu kiến thức, cảm nhận về tác phẩm, về nhân vật tốt hơn. - Sắm vai nhân vật là cơ hội tốt cho các em thể hiện năng khiếu, bản lĩnh của mình và mạnh dạn hơn trước đám đông (đặc biệt với những học sinh nhút nhát). - Và ưu điểm lớn nhất là tiết học sẽ thật sự sinh động, lôi cuốn và tạo được hứng thú cho học sinh khi đọc – hiểu tác phẩm. Nhược điểm Bên cạnh những ưu điểm, phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật cũng có những nhược điểm cần phải khắc phục. - Khi vận dụng phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên còn lúng túng ở một số thao tác sau:  Thao tác lựa chọn tác phẩm, nhân vật: Tác phẩm hay, nhân vật đặc sắc nhưng lại không phù hợp để học sinh sắm vai như tác phẩm “Chữ người tử tù” vì học sinh rất khó thể hiện được đúng tính cách, phẩm chất nhân vật.  Thao tác phân vai: có trường hợp không thể phân vai vì các em cảm thấy không thể hiện được nhân vật. Cũng có trường hợp, các em miễn cưỡng chấp nhận nhưng sau đó thể hiện không tốt vì không chuẩn bị hoặc chuẩn bị không kịp. Thường là giáo viên sẽ phân vai theo tổ nhóm nên chỉ có một số thành viên trong lớp là thực hiện việc nhập vai chủ động còn đa phần các em chỉ thụ động theo dõi. Điều này dẫn đến học sinh sẽ không có cơ hội thể nghiệm như nhau, vì vậy, việc tiếp thu kiến thức cũng không đồng đều. 12  Thao tác quan sát, hỗ trợ học sinh khi thực hiện: mục đích của phương pháp là gây hứng thú cho học sinh nên đôi khi lớp quá phấn khích mà ảnh hưởng đến phần thể hiện nhân vật của bạn và làm mất trật tự ảnh hưởng đến lớp bên cạnh và mất thời gian vì giáo viên cần dừng lại để điều chỉnh. Khi học sinh thực hiện xong, giáo viên cũng khó đi ngay vào phần phân tích vì còn tốn thời gian ổn định lớp.  Thao tác tổng kết: đôi khi chưa thật chính xác, kĩ lưỡng vì sợ mất thời gian của tiết học. - Học sinh chưa thật sự nghiêm túc sắm vai nên vẫn còn ồn ào, mất trật tự... 3. Thiết kế thực nghiệm: Sau đây tôi xin giới thiệu hai thiết kế thể nghiệm về phương pháp: “cho học sinh sắm vai nhân vật” a. Tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao:  Tiết 50: Sau phần tìm hiểu về tác giả: GV phân công chuẩn bị viết lời thoại kịch bản, chuẩn bị trang phục và phân công vai nhân vật cho từng học sinh với yêu cầu cơ bản:  Vai nhân vật: Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, bà cô Thị Nở.  Nội dung cần thực hiện: - HS tái hiện lại hình tượng nhân vật trong phân đoạn “Chí Phèo vừa đi vừa chửi” với phần hóa trang, trang phục và lời thoại phù hợp. - Làm nổi bật quá trình hồi sinh và bi kịch bị từ chối quyền làm người, GV lưu ý HS tái hiện phân đoạn “CP gặp Thị Nở và CP đau khổ, tuyệt vọng khi bị TN từ chối rồi xách dao đến nhà BK” HS chuẩn bị ở nhà: Học lời thoại, nắm bắt cảm xúc của nhân vật và tập luyện trước vai nhân vật: - HS tái hiện lại hình tượng nhân vật trong phân đoạn “Chí Phèo vừa đi vừa chửi” với phần hóa trang, trang phục và lời thoại phù hợp do chính mình biên soạn. - Làm nổi bật quá trình hồi sinh và bi kịch bị từ chối quyền làm người, hs tái hiện phân đoạn “CP gặp Thị Nở và CP đau khổ, tuyệt vọng khi bị TN từ chối rồi xách dao đến nhà BK” cần thể hiện được sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật: xúc động -> tỉnh rượu-> tỉnh ngộ-> ăn năn-> muốn lương thiện-> đau khổ-> tuyệt vọng... bằng lời thoại và đặc biệt bằng nét mặt.  Tiết 53 (có kèm theo video) Khâu thực hiện trên lớp : - Chuẩn bị bối cảnh. - Giới thiệu nhân vật. 13 - Thực hiện sắm vai nhân vật: Uống rượu từ sáng đến chiều b.    Chí Phèo vừa đi vừa chửi: Chí phèo gặp Thị Nở Chí Phèo giết BK rồi tự sát. Khâu nhận xét đánh giá, rút kinh nghiệm và cho điểm của giáo viên: Phần chuẩn bị chưa tốt: chưa có trang phục. Phần thể hiện chưa thật tự nhiên, chưa phù hợp với tâm trạng nhân vật (còn cười giỡn nhiều) Tác phẩm Người trong bao của Shê-khốp: Tiết 92: Sau tiết đọc thêm “bài thơ số 28 – Ta-go”: GV phân công chuẩn bị viết lời thoại kịch bản, chuẩn bị trang phục và phân công vai nhân vật cho từng học sinh với yêu cầu cơ bản: Vai nhân vật: Bê-li-cốp. Nội dung cần thực hiện: Với tác phẩm Người trong bao (shê-khốp), để khắc họa tính cách và lối sống trong bao của Bêlicôp, giáo viên cần lưu ý hình dạng xuất hiện của nhân vật phải ấn tượng ngay từ lúc đầu. HS chuẩn bị ở nhà: Học lời thoại, nắm bắt cảm xúc của nhân vật và tập luyện trước vai nhân vật: 14 - Chuẩn bị trang phục: áo khoác, mũ, dù, giày, túi, kính... - Tập thể hiện vai nhân vật trước ở nhà.  Tiết 94: (có kèm theo video) Khâu thực hiện trên lớp : - Chuẩn bị bối cảnh. - Giới thiệu nhân vật. - Thực hiện sắm vai nhân vật: Bêlicôp xuất hiện kì quái. Đến nhà đồng nghiệp, ngồi trên ghế... Khâu nhận xét đánh giá, rút kinh nghiệm và cho điểm của giáo viên: Đã chuẩn bị được trang phục nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu. IV. KẾT QUẢ : - Học sinh đã thật sự quan tâm đến việc chuẩn bị bài ở nhà và hứng thú hơn với giờ học ở lớp. Học sinh chủ động tìm tòi kiến thức trong không khí sôi nổi, khắc sâu kiến thức và tăng dần khả năng cảm thụ tác phẩm. Giờ văn đối với học sinh cũng trở nên nhẹ nhàng hơn, sinh động hơn. Học sinh cũng năng động hơn, mạnh dạn hơn và tự tin hơn khi đứng trước đông người. Đây cũng là cơ sở giúp giáo viên phát hiện được đầy đủ hơn năng lực của học sinh để kịp thời uốn nắn, sửa chữa để tạo môi trường học tập tích cực, thân thiện. Giáo viên cảm thấy nhẹ nhàng hơn, chủ động hơn trong giờ lên lớp vì trong giờ học các em đã thực sự trở thành trung tâm và cũng hăng hái phát biểu hơn. Và điều khiến người dạy vui nhất đó chính là kiến thức mà các em tiếp thu được rất chắc chắn vì thế kết quả học tập cũng được cải thiện rất nhiều. Đặc biệt với các hình tượng nhân vật đã được thể hiện bằng phương pháp nhập vai, học sinh luôn có ấn tượng sâu sắc. Điều này góp phần rất lớn vào việc đảm bảo kiến thức cho phân môn làm văn ở dạng nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi, cụ thể là dạng đề phân tích hình tượng nhân vật. 15 - Kết quả thi cuối học kì I năm học 2012-2013:  Lớp 11b8: Có áp dụng SKKN. Tổng số HS 42 Giỏi SL 2 Tỉ lệ 4.8% Khá SL 10 Tỉ lệ 23.8% Trung bình SL 26 Tỉ lệ 61.9% Yếu SL 4 Tỉ lệ 9.5%  Lớp 11b10: Có áp dụng SKKN. Tổng số HS 39 Giỏi SL 5 Tỉ lệ 12.8% Khá SL 7 Tỉ lệ 17.9% Trung bình SL 23 Tỉ lệ 60% Yếu SL 4 Tỉ lệ 10.3%  Lớp 11b9: Không áp dụng SKKN. Tổng số HS 40 Giỏi SL 2 Tỉ lệ 5% Khá SL 2 Tỉ lệ 5% Trung bình SL 27 Tỉ lệ 67.5% Yếu SL 9 Tỉ lệ 22.5% Từ kết quả thực nghiệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng đa số học sinh thích giờ học có vận dụng phương pháp sắm vai nhân vật. Phương pháp này phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh và góp phần cải thiện đáng kể số điểm dưới trung bình của các em, đồng thời nâng cao tỉ lệ điểm khá. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Sắm vai nhân vật không phải là một phương pháp độc tôn. Nó cũng có những hạn chế nhất định, nếu tổ chức không khéo dễ gây nên tình trạng ồn ào, mất tập trung vào tiết học dẫn đến gián đoạn bài học, đôi khi không đảm bảo thời lượng chương trình. Nên khi vận dụng, chúng ta cần đảm bảo một số nguyên tắc như sau: 1. Khâu chuẩn bị phải kĩ lưỡng: - Để có thể thực hiện nhập vai nhân vật thành công và đảm bảo được tiến trình tổ chức bài dạy, Gv cần phải yêu cầu học sinh chuẩn bị bài thật tốt. Đặc biệt là những học sinh được chọn để sắm vai cần phải nắm được lời thoại theo kịch bản đã soạn sẵn để thể hiện được nhân vật một cách tự nhiên, linh hoạt nhất - Ngoài ra, trong quá trình chuẩn bị, đôi khi học sinh lúng túng ở khâu viết lời thoại, phân đoạn, bối cảnh thì gv cần trực tiếp hướng dẫn và lưu ý phần sắm 16 vai là để phục vụ cho bài dạy. Giáo viên có thể khuyến khích sự sáng tạo của các em nhưng cũng cần đinh hướng để học sinh thể hiện chân thực vai nhân vật. Bước chuẩn bị càng chu đáo bao nhiêu thì bước thể hiện càng thành công bấy nhiêu, càng thu hút được học sinh bấy nhiêu và càng làm cho tiết học sinh động cũng như khắc sâu kiến thức bấy nhiêu. 2. Khâu thực hiện trên lớp phải hiệu quả: - Thứ nhất, giáo viên cần tạo được không khí vừa thoải mái lại vừa nghiêm túc để học sinh thực hiện việc sắm vai thành công. - Thứ hai, Gv cần động viên khuyến khích hoặc điều chỉnh kịp thời nếu học sinh lúng túng hay thiếu nghiêm túc. - Thứ ba, giáo viên và học sinh phải luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau để phần thể hiện của học sinh được tốt nhất. 3. Khâu quan sát, hỗ trợ phải linh hoạt: - Trong khi học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên cần quan sát và điều chỉnh sao cho:  Bối cảnh phù hợp  Lời thoại chính xác  Cử chỉ điệu bộ hợp lí  Nét mặt biểu cảm Để học sinh thể hiện đúng tâm trạng, tính cách ... của nhân vật vừa tạo được sự hứng thú cho giờ học lại vừa nâng cao hiệu quả bài dạy. 4. Khâu nhận xét đánh giá phải chính xác: - Với từng phân vai, giáo viên cần nhận xét thật chính xác những ưu và nhược điểm của học sinh. - Đánh giá và cho điểm công bằng để tạo được sự động viên khuyến khích cho học sinh. VI. KẾT LUẬN - Khổng Tử đã từng nói” Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui mà học”. Từ nội dung của câu nói và thực tế giảng dạy, ta thấy niềm vui và sự ham thích sẽ là một động lực lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên trong học tập. - Phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật là một phương pháp dạy học hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh, là một trong những phương pháp thích hợp để vận dụng vào dạy tác phẩm truyện. Phương pháp này có thể giúp học sinh tự giác, hứng thú tìm hiểu tác phẩm, bằng thực nghiệm chính nhân vật, để phân tích, khái quát theo con đường cảm xúc hóa phù hợp với quy luật cảm thụ văn chương. 17 - Việc đưa ra phương pháp trên chỉ là kinh nghiệm có tính chất cá nhân được rút ra trong quá trình giảng dạy của bản thân. Vì thế, phương pháp này khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân tình từ phía thầy cô và các bạn đồng nghiệp trong tỉnh. VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn trường phổ thông, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000. 3. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh (2003), Phương pháp dạy văn, tập 1, Nxb Giáo dục. 4. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt (2005), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 5. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội 6. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11, tập 1 và tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội. 7. Một số tài liệu tham khảo từ Internet. Người thực hiện (Ký Tên Và Ghi Rõ Họ Tên) Nguyễn Thị Thanh Tâm 18 SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI Trường THPH Xuân Thọ BM04-NXĐGSKKN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Xuân Thọ, ngày 14 tháng 5 năm 2013 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2012-2013 ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ ĐỌC TRUYỆN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHO HỌC SINH NHẬP VAI NHÂN VẬT Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm Đơn vị (Tổ): Văn Lĩnh vực: Phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn Quản lý giáo dục  Phương pháp dạy học bộ môn: ...........................  Phương pháp giáo dục  Lĩnh vực khác: ....................................................  1. Tính mới - Có giải pháp hoàn toàn mới  - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có  2. Hiệu quả - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) 19 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan