Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn phóng sự tôi kéo xe (tam lang) và việc làng (ngô tất tố) từ góc nhìn so sán...

Tài liệu Skkn phóng sự tôi kéo xe (tam lang) và việc làng (ngô tất tố) từ góc nhìn so sánh

.DOC
26
1680
100

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945 diễn ra với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên các thể loại. Phóng sự là một thể loại trung gian giữa văn học và báo chí, ra đời muộn nhưng phóng sự có một tốc độ phát triển nhanh, đặc biệt có sự tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của xã hội. Phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932-1945 là một hiện tượng đáng được chú ý: trẻ, lạ, tốc độ phát triển vượt bậc, nhanh mạnh, số lượng đồ sộ, chất lượng cao, nội dung phong phú. Chính giai đoạn này đã đánh dấu bước ngoặt ra đời, phát triển và trưởng thành của phóng sự Việt Nam, để lại những đỉnh cao cho văn đàn và báo giới. Những tên tuổi nổi tiếng với những thiên phóng sự để đời gây nhiều tiếng vang góp phần tạo nên diện mạo nền văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945, có thể kể đến Tam Lang, Vũ Trọng Phụng,Vũ Bằng, Trọng Lang, Ngô Tất Tố. Mặc dù được xem là một hiện tượng nổi bật, có nhiều thành tựu nhưng thể loại phóng sự vẫn chưa được nhìn nhận, đánh giá xứng tầm. Hầu hết các bài nghiên cứu còn ở mức độ nhỏ, hoặc chỉ tập trung nghiên cứu một tác gia, tác phẩm, thể loại, mảng đề tài… và vẫn chưa có nhiều công trình tổng hợp, đánh giá nghiên cứu chuyên sâu. Thực tế, ta thấy hiện nay có một số giáo trình nghiên cứu phóng sự như: Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 (Viện văn học ), Tổng tập văn học Việt Nam tập 29 (Phan Cự Đệ chủ biên), giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 tập V, phần một của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Chương trình Ngữ văn ở các bậc Cao đẳng và Đại học, đều được học, nghiên cứu nhiều về các tác giả, tác phẩm thuộc thể loại phóng sự giai đoạn 1932- 2 1945. Không những thế, trong chương trình Trung học phổ thông, thể loại này vẫn đang được triển khai giảng dạy trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, chương trình nâng cao với tác phẩm Nghệ thuật băm thịt gà (Trích Việc làng) của Ngô Tất Tố. Nghiên cứu phóng sự dưới góc nhìn so sánh, luận văn đi sâu tìm hiểu, đánh giá đầy đủ hơn phong cách các cây bút phóng sự cùng thời, góp phần khẳng định tầm vóc cũng như vai trò của nó trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Với những lí do đó, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nhà nghiên cứu, luận văn tiến hành khảo sát so sánh một cách có hệ thống đề tài: Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố) từ góc nhìn so sánh nhằm đối chiếu về nội dung và nghệ thuật, thấy được những giá trị đặc sắc, những phong cách sáng tạo của các tác giả, cung cấp cho người đọc cái nhìn toàn diện trong việc đối chiếu hai phóng sự này. 2. Lịch sử vấn đề Trong cuộc cách tân văn học Việt Nam đầu thể kỉ XX, cùng với sự phát triển của thơ Mới và tiểu thuyết, thể loại phóng sự cũng xuất hiện và đạt nhiều thành tựu nổi bật trong văn học giai đoạn này. Phóng sự Tôi kéo xe (viết năm 1932 và xuất bản năm 1935, in tại Trung Bắc tân văn- Hà Nội) được xem là tác phẩm phóng sự đầu tiên trong làng báo Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, “tác phẩm của ông đã làm cho độc giả Việt Nam phải chú ý đến một cách đặc biệt”, tác phẩm được đón nhận nồng nhiệt. Từ đó, thể loại phóng sự bước đầu được khởi sắc. 2.1. Những công trình, bài viết về phóng sự Việt Nam 2.1.1. Những công trình, bài viết về phóng sự Việt Nam trước năm 1975 3 Tiếp theo Tôi kéo xe là sự xuất hiện của hàng loạt phóng sự đặc sắc với những cây bút đình đám như Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1937), Một huyện ăn Tết (1938)…; Trọng Lang với phóng sự Trong làng chạy (1935), Hà Nội lầm than (1937), Gà chọi (1935) …; Ngô Tất Tố với phóng sự Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940); Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Phi Vân, Hoàng Đạo… Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, phóng sự đã nhập cuộc vào hiện thực chiến tranh cách mạng bằng hai phóng sự dài Cảnh Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn của Nguyễn Đình Lạp… Như vậy, ngay sau khi ra đời, phóng sự Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… được các nhà nghiên cứu chú ý. Sớm nhất phải kể đến các công trình của Lê Tràng Kiều, Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng… 2.1.2. Những công trình, bài viết về phóng sự Việt Nam sau năm 1975 Việc nghiên cứu phóng sự thời kì 1932-1945 đã được các nhà nghiên cứu, phê bình tập trung quan tâm. Cụ thể như các phóng sự được tập hợp, biên soạn, tuyển chọn và xuất bản: Tổng tập Văn học Việt Nam tập 29A, giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945…Thể loại phóng sự đã được nhìn nhận, đánh giá tương đối toàn diện. Sang đầu thế kỉ XXI, thể loại phóng sự thật sự được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm với những công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ, nhiều bình diện khác nhau. 2.2. Những công trình, bài viết về phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố) 2.2.1. Những công trình, bài viết về phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) 4 Phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang ra đời đã làm cho độc giả và giới nghiên cứu phê bình văn học phải chú ý một cách đặc biệt. Đó là các công trình nghiên cứu của Hoài Thanh, Trương Tửu, Thế Phong, Vũ Ngọc Phan và những bài viết có liên quan của Hoàng Lan, Tam Ích, Phan Thục Uyên, Lê Thị Đức Hạnh… Các tác giả đều ghi nhận, khẳng định Tam Lang là một ký giả kỳ cựu, một chủ bút danh tiếng của nhiều nhật báo từ Bắc đến Nam, người có nhiều công sức trong làng báo Việt Nam trên nhiều phương diện. 2.2.2. Những công trình, bài viết về phóng sự Việc làng (Ngô Tất Tố) Năm 1940, phóng sự Việc làng được đăng trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan và năm 1941 được in thành sách. Nghiên cứu về phóng sự Việc làng có các công trình của Bùi Huy Phồn, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ… Những năm gần đây, trong nhiều công trình nghiên cứu, tập hợp giới thiệu và xuất bản về Ngô Tất Tố chiếm một số lượng lớn. Có thể nói, từ những công trình nghiên cứu khoa học mang tầm khái quát cho đến những bài viết về các tác giả, tác phẩm cụ thể, tất cả đều nhằm mục đích đóng góp vào thành tựu của thể loại văn phóng sự nói chung và đánh giá được giá trị của hai phóng sự nói riêng. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu về đặc điểm nội dung của phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố). - Nghiên cứu về đặc điểm nghệ thuật của phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố). 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố). - Khảo sát về một số tác giả khác có liên quan đến việc đánh giá, nhìn nhận hai tác phẩm phóng sự trên nói riêng và thể loại phóng sự giai đoạn 1932-1945 nói chung. 4. Phương pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài, luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp văn học sử nhằm khôi phục lại diện mạo và tiến trình văn học giai đoạn 1930-1945. - Phương pháp so sánh - tổng hợp để làm rõ nội dung và nghệ thuật của hai phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố). - Phương pháp phân tích - tổng hợp và hệ thống nhằm mục đích nêu bật những vấn đề đặc sắc của tác phẩm. - Phương pháp liên môn văn học sử - báo chí nhằm phục vụ cho việc sáng tỏ mối quan hệ giữa văn học và báo chí trong phóng sự của hai cây bút trên nói riêng và phóng sự trong giai đoạn 1932-1945 nói chung. 5. Đóng góp của luận văn - Những vấn đề chung về phóng sự và phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932-1945. - Trong cùng một giai đoạn 1932-1945, luận văn chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật dưới góc nhìn so sánh của tác giả phóng sự mang tính mở đầu - Tam Lang và một tác giả phóng sự được xem là gạo cội Ngô Tất Tố. Từ đó, thấy được nét nổi bật phong cách độc đáo của từng cây bút phóng sự. 6 - Đánh giá được vai trò, vị trí của hai tác phẩm phóng sự cũng như hai cây bút phóng sự đối với văn học và xã hội. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Thể loại phóng sự và phóng sự Tam Lang, Ngô Tất Tố trong sự hình thành, phát triển của phóng sự Việt Nam 1932- 1945. Chương 2: Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố) nhìn từ phương diện nội dung. Chương 3: Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố) nhìn từ phương diện nghệ thuật. 7 Chương 1 THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VÀ PHÓNG SỰ TAM LANG, NGÔ TẤT TỐ TRONG SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1932 – 1945 1.1. Thể loại phóng sự và phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 1.1.1. Giới thuyết thể loại phóng sự 1.1.1.1. Khái niệm phóng sự Phóng sự (tiếng Pháp là reportage) bắt nguồn từ tiếng La tinh, reportage có nghĩa là thông báo một tin mới, về chuyến đi, giành được một cái gì đó. Phóng sự là một trong những thể loại báo chí. Trong đời sống báo chí, văn học Việt Nam, phóng sự là thể loại tân văn, là sản phẩm của công cuộc hiện đại hóa văn học, của cả một quá trình giao lưu, ảnh hưởng, tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây (trực tiếp là văn hóa, văn học Pháp). Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học, tái bản năm 2013, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi khẳng định phóng sự là “một thể thuộc loại hình kí. Phóng sự ghi chép kịp thời những vụ, việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề có liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người và có ý nghĩa thời sự đối với một địa phương hay toàn xã hội. Mục đích của phóng sự là cung cấp cho công chúng những tri thức phong phú, đầy đủ, chính xác, để họ có thể nhận thức, đánh giá đúng người và việc mà họ đang quan tâm theo dõi” [18, tr.257]. Từ những ý kiến của các nhà văn, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng ta có thể nhận định đặc trưng cơ bản của thể phóng sự. 1.1.1.2. Đặc trưng thể phóng sự 8 Tính thông tin, thời sự , xác thực và tính vấn đề trong phóng sự Trong Từ điển tiếng Việt, Từ điển Văn học, Từ điển thuật ngữ Văn học, Quá trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Năm bài giảng về thể loại, Các nhà văn nói về nhà văn… Các tác giả đều thống nhất một trong những đặc trưng quan trọng nhất của thể phóng sự là tính thông tin, thời sự, xác thực và tính vấn đề. Chính đặc điểm trên làm cho phóng sự có vai trò, vị trí, tầm quan trọng trong việc phản ánh xã hội. Tính cụ thể và tính khái quát trong phóng sự Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học, năm 2013, các nhà nghiên cứu không những nhấn mạnh việc ghi chép, điều tra mà còn khẳng định mục đích của phóng sự: “Phóng sự ghi chép kịp thời những vụ, việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề có liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người và có ý nghĩa thời sự đối với một địa phương hay toàn xã hội” [18, tr.257]. Các tác giả Từ điển Văn học (2004) cho rằng, “Từ những “vấn đề”, những sự kiện cụ thể, khái quát được những vấn đề bản chất của đời sống xã hội và từ đó có được những nhận xét và kết luận tiếp cận bản chất của hiện thực, có khả năng làm chấn động dư luận xã hội, xoay chuyển cả nhận thức, định kiến của đông đảo người đọc – người đọc của một quốc gia, thậm chí người đọc của một phạm vi rất rộng của thế giới” [21, tr.1422]. Cái tôi chủ thể - nhân chứng trong phóng sự Như ta đã biết, hiện thực trong phóng sự là hiện thực khách quan, nóng hổi, hiện thực “có vấn đề”. Do vậy, cái tôi nhân chứng – người trần thuật tham dự vào câu chuyện, dẫn dắt bạn 9 đọc đi suốt thiên phóng sự, trực tiếp hội nhập vào thế giới nhân vật tác phẩm…Vì vậy, cái tôi chủ thể - nhân chứng trong phóng sự là một cái tôi – nhân chứng sắc sảo, nhanh nhạy, xông xáo… Cái tôi chủ thể - nhân chứng tham gia trực tiếp vào các sự kiện “mắt thấy tai nghe”, chứng kiến những sự thật, giúp cho việc phản ánh hiện thực thêm chân thực, sinh động, hấp dẫn. Cái tôi chủ thể - nhân chứng kết hợp với ngôn ngữ, giọng điệu, sự kiện… mang đến cho phóng sự sức hấp dẫn, độc đáo riêng. Phóng sự - cầu nối giữa văn học và báo chí Trong mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí, có ý kiến cho rằng: “Phóng sự đóng vai trò như một “cái gạch nối”. Ngoài những đặc trưng trên, chất văn học đậm đà là yếu tố không kém phần quan trọng làm nên sức lôi cuốn của phóng sự. Do vậy, các tác giả trong Nhà văn hiện đại, Từ điển thuật ngữ Văn học, Tổng tập Văn học Việt Nam tập 29A đều khẳng định phóng sự là cầu nối giữa văn học và báo chí. Đúng như Hà Minh Đức nhận xét: “Tác phẩm ký văn học phải là nơi gặp gỡ của hai yếu tố cơ bản là hiện thực đời sống và giá trị nghệ thuật”. 1.1.2. Những tiền đề về xã hội, văn hóa, văn học hình thành phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 và thành tựu phóng sự giai đoạn này Đến đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của các trào lưu cách mạng trên thế giới, ảnh hưởng của các cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam có những biến động sâu sắc về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, văn học. Sự xâm lược của thực dân Pháp gây nên nhiều biến động cho xã hội Việt Nam. Trên cái nền biển đổi sâu rộng ấy, báo chí Việt Nam ra đời và có vị trí trong xã hội. Ra đời muộn hơn so với các thể loại khác, phóng sự với đặc trưng riêng 10 là tính xác thực, thông tin, tính thời sự, tính xã hội – chính trị thể hiện thái độ lựa chọn và lập trường của tác giả trước các vấn đề. Có thể nói, mới xuất hiện trong vòng mười năm, phóng sự đã có những thành tựu đáng kể, số lượng tác phẩm lớn, phong phú, đa dạng về đề tài, đội ngũ viết phóng sự đông đảo đầy tài năng và có tên tuổi trong làng văn, làng báo Việt Nam. Cùng với các thể loại thơ, kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết; phóng sự góp phần làm nên thành tựu rực rỡ của văn học Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, đặc biệt với dòng văn học hiện thực phê phán. Nói đến phóng sự Việt Nam, không thể không nhắc đến tác phẩm Tôi kéo xe (1932) của Tam Lang. Có thể coi phóng sự Tôi kéo xe là sự khởi nguồn cho thể loại này ở Việt Nam. Tam Lang với Tôi kéo xe (1932), Đêm sông Hương (1938), Lọng cụt cán (1939), Người…ngợm (1940)…. Trọng Lang với Trong làng chạy (1935), Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938),… Vũ Trọng Phụng với Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), , Cơm thầy cơm cô (1937), Một huyện ăn tết (1939)… Vũ Bằng với Cai (1940). Ngô Tất Tố với Dao cầu thuyền tán (1935), Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940). Nguyễn Đình Lạp với Thanh niên trụy lạc (1937 – 1938), Chợ phiên đi tới đâu (1937), Ngõ hẻm (1942)... Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường, Hà Nội ban đêm (1933),. Lê Văn Hiến với Ngục Kon Tum (1938)… Nguyễn Tuân với Một chuyến đi, Tàn đèn dầu lạc. Phi Vân với Đồng quê, Dưới đồng sâu… Các tác giả phóng sự đã dựng nên một bức tranh xã hội sống động đầy sức tố cáo. Nó không chỉ cảnh tỉnh xã hội mà còn cảnh tỉnh lương tri của con người, đánh thức những thiên lương đang bị hủy hoại, những nhân cách đang bị xã hội vùi dập, những 11 phẩm chất còn sót lại ở những con người được xem là “cặn bã” của xã hội. 1.2. Phóng sự Tam Lang và Ngô Tất Tố trong sự hình thành, phát triển của phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 1.2.1. Phóng sự Tam Lang Trong gần mười năm (1932 – 1940), Tam Lang vừa viết báo, vừa viết văn, từng là chủ nhiệm, chủ bút, thư kí tòa soạn, biên tập, phóng viên…cho nhiều tờ báo với sự đầu tư công sức lớn và đã có nhiều đóng góp với các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, văn châm biếm. Trong đó đóng góp cơ bản nhất của Tam Lang, phải kể tới thể loại phóng sự. Tập phóng sự Tôi kéo xe ra đời có tiếng vang đáng kể, gây chấn động trong làng văn, làng báo. Đúng như Vũ Ngọc Phan đánh giá: “Tôi kéo xe là một quyển phóng sự có giá trị, nó lại là một quyển phóng sự trước nhất ở nước ta; người ta có thể coi nó là một quyển mở đầu cho lối văn phóng sự trong văn chương Việt Nam” [56, tr.90]. Tiếp tục đi sâu vào tầng lớp người đau khổ, dưới đáy xã hội, cũng năm 1932, Tam Lang viết phóng sự Đêm sông Hương, Một đêm trước, Lọng cụt cán, Người…Ngợm. Tóm lại, tác phẩm nào của Tam Lang, “người ta cũng thấy cây bút của ông là cây bút tả chân và châm biếm; ông nhạo đời để răn đời, chứ không bao giờ có giọng độc ác…” [53, tr.505]. Với giọng văn dí dỏm, sắc sảo kết hợp cùng lối nói mỉa mai, châm biếm, nói thẳng, trào lộng; Tam Lang mang đến tiếng cười răn người, răn đời, góp phần làm trong sạch xã hội đầy nhiễu nhương bấy giờ. Vì vậy, Trương Tửu từng nhận xét: “ông chỉ là một người yêu sự thực, thích tả sự thực để đem nghệ thuật phụng sự nhân sinh” [19]. Tôi kéo xe, cùng 12 một số phóng sự khác của ông đánh dấu một thành tựu nghệ thuật có giá trị hiện thực cao. Và ông xứng đáng là một trong số hiếm hoi những con người tài năng, có cống hiến đặc sắc, độc đáo trong văn chương Việt Nam những năm ba mươi của thế kỷ XX. 1.2.2. Phóng sự Ngô Tất Tố Là một người làm báo, Ngô Tất Tố cũng viết phóng sự, nhưng ít và muộn hơn nhiều so với Tam Lang, Vũ Trọng Phụng… Ông chỉ có Dao cầu thuyến tán (1936), Việc làng (1940), Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập (1938), Tập án cái đình (1939). Trong số những cây bút phóng sự về nông thôn Việt Nam, Ngô Tất Tố nổi lên như một tác gia tiêu biểu nhất. Trình làng với hai tập phóng sự Việc làng, Tập án cái đình, từ đây, Ngô Tất Tố trở thành hiện tượng “nhà văn của hạng dân quê nghèo và dốt” (Vũ Ngọc Phan). Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Phóng sự Ngô Tất Tố làm cho người ta thấy những cảnh khổ não, nhọc nhằn, những tai nạn khủng khiếp, những việc thương tâm gây nên bởi miếng ăn được phơi bày ra trước mắt. Đọc Việc làng, người ta có cái cảm tưởng rõ rệt là dân quê nước ta là một dân lúc nào cũng đói, lúc nào cũng thèm ăn, thèm uống” [53,tr.550]. Việc làng chính là quyển nói về “lệ làng” của dân Việt Nam xứ Bắc. So với Việc làng, Tập án cái đình, Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập nghiêng về miêu tả những phong tục, nói đúng hơn là những hủ tục kỳ quái chế độ thực dân phong kiến duy trì ở nông thôn. Tóm lại, phóng sự của Ngô Tất Tố hầu hết tập trung tố cáo những hủ tục đồi bại, tố cáo gay gắt bọn cường hào lý dịch, lên 13 án phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến, mà con người khốn khổ là nạn nhân của chế độ xã hội ngột ngạt này. 1.2.3. Phóng sự Tam Lang và Ngô Tất Tố trên nền phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 Các cây bút xuất sắc Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Bằng…dựng nên một bức tranh đời sống đô thị hết sức đa dạng, phức tạp và sinh động với đủ các thành phần người, ngành nghề, tệ nạn…. Trong đó, Tam Lang là người mở đầu và đóng góp cho nền phóng sự Việt Nam với đề tài khai thác đời sống thành thị, kiếp “người ngựa”, bọn nhà giàu thống trị và quá trình tha hóa của con người trong xã hội. Hòa trong hiện thực đó, hàng loạt phóng sự Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì làm nên tên tuổi vang dội của “ông vua phóng sự đất Bắc” – Vũ Trọng Phụng; Trọng Lang với Hà Nội lầm than, Trong làng chạy, Làm dân, Vợ lẽ nàng hầu…; Nguyễn Đình Lạp với Thanh niên trụy lạc, Chợ phiên đi tới đâu… Phóng sự Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp, Trọng Lang…hiện lên những người con dân quê nghèo bị hủ tục, lệ làng nhấn chìm cuộc đời họ đến cùng cực tăm tối. Sau cây bút gạo cội viết về đề tài nông thôn, sự tiếp nối xuất hiện nhiều cây bút tên tuổi: Trọng Lang, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân… Nhìn tổng thể, đội ngũ các cây bút phóng sự tiếp nối, phát triển trên hai đề tài: thành thị và nông thôn ngày càng phong phú, đa dạng góp phần làm nên nét đặc sắc rất riêng của hai mảng đề tài này. Và cũng có thể xem những tác phẩm phóng sự của hai cây bút tiêu biểu này đã đánh dấu những khởi sắc nhất định trong quá trình hình thành và phát triển của phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 nói riêng và của nền văn học Việt Nam 1932 – 1945 nói chung. 14 Chương 2 PHÓNG SỰ TÔI KÉO XE VÀ VIỆC LÀNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG 2.1. Phóng sự Tôi kéo xe – Bản cáo trạng về hiện thực đời sống thành thị 2.1.1. Phản ánh tình trạng phân chia giai cấp trong xã hội đương thời 2.1.1.1. Lên án bọn nhà giàu Cai xe, chủ xe Sự phân hóa giai cấp, những bất công trong xã hội được thể hiện qua hàng loạt các sự kiện, chi tiết, chân thực và sống động. Tiêu biểu với Tôi kéo xe, Tam Lang phản ánh đời sống cơ cực, nhọc nhằn của những người phu xe, những con “ngựa người”, bán công sức với đồng tiền vô cùng rẻ mạt. Song song kiếp sống bần cùng, đó là những con người phi nhân tính nổi bật lên như bọn chủ xe, Cai xe độc ác, cậy vào sức mạnh đồng tiền mà đánh đập dã man đối với kiếp người phu xe. 2.1.1.2. Cuộc sống khốn khổ của người phu xe Phóng sự Tam Lang thể hiện sâu đậm, tận cùng hiện thực của xã hội về hạng người dưới đáy, tiêu biểu là kiếp người phu xe. Qua việc miêu tả, quan sát sắc sảo đến từng chi tiết, tác giả làm hiện lên điều kiện sinh hoạt ăn uống của họ vô cùng thiếu thốn. Cái nghèo đeo bám những số phận hẩm hiu, bạc bẽo khốn cùng. Núp dưới mọi hình thức, ta đâu chỉ thấy bọn thống trị cường hào mới biến chất về nhân tính, kể cả lớp người dưới đáy xã hội cũng tha hóa, nguyên nhân là xã hội vì đồng tiền. Họ trở thành những con “cáo già” đội lốt phu xe, là mối hiểm họa đang rình rập xã hội. Tác giả phơi bày bộ mặt xã hội đương thời: mọi thứ chuẩn mực của đời sống đều bị tha hóa, lệch lạc. 15 2.1.2. Phơi bày tệ nghiện hút trong xã hội Trong các vấn nạn xã hội làm băng hoại đời sống con người, có lẽ nạn nghiện hút là mối đe dọa, hiểm nguy nhất gây nên hệ lụy cho xã hội. Đó là thứ độc dược giết chết dần mòn con người. Do vậy, tác giả lên án, phê phán trực tiếp những kẻ nghiện ngập, biến chất, tha hóa, là gánh nặng cho gia đình, xã hội và đất nước. Đây cũng chính là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. 2.1.3. Hướng đến cải cách nghề kéo xe – tiếng nói nhân đạo của nhà văn Kiếp người – ngựa! Trong xã hội bất công, họ bị đối xử không đáng một kiếp người. Chính xã hội thực dân phong kiến đẩy họ vào con đường cùng tội lỗi, đen tối, lưu manh, biến chất, tha hóa. Với lòng thành của một con người muốn cải tạo, thay đổi xã hội, mong muốn xây dựng một xã hội văn minh và công bằng, Tam Lang đề xuất phương án thay thế xe kéo người thành thứ xe đạp người. Đó cũng chính là sự mong muốn cải thiện đời sống khốn khổ của người phu xe, giải phóng kiếp ngựa người. Với tinh thần, trách nhiệm của một nhà văn chân chính, tác giả lên tiếng báo động, cảnh tỉnh xã hội đang trên con đường tha hóa về mọi mặt. 2.2. Phóng sự Việc làng – Bản cáo trạng về hiện thực đời sống nông thôn 2.2.1. Tình trạng phân chia giai cấp trong xã hội nông thôn đương thời Trong số những cây bút phóng sự về nông thôn Việt Nam như Trọng Lang, Hoàng Đạo, Nguyễn Đổng Chi…Ngô Tất Tố nổi lên 16 như một tác gia gạo cội tiêu biểu nhất, trình làng với hai tập phóng sự Việc làng và Tập án cái đình. Có thể nói, sau lũy tre xanh là một thế giới riêng biệt, trong đó người nông dân còng lưng chịu đựng mọi sự áp bức, bóc lột nặng nề của bọn địa chủ, cường hào. Do vậy, mới có câu châm ngôn “Phép vua thua lệ làng”, nó khẳng định cho cái quyền tác phúc tác họa của bọn cường hào, địa chủ. Đồng thời, chúng lợi dụng ngu muội của nông dân mà làm tiền và chè chén. Bên ngoài là vậy, nhưng bên trong cũng vì miếng ăn, vì tranh giành quyền lợi bọn chúng ngấm ngầm mâu thuẫn, xâu xé nhau gay gắt. 2.2.2. Phơi bày những tệ nạn xã hội và hủ tục lạc hậu ở nông thôn 2.2.2.1. Những tệ nạn xã hội Trước hết là Nạn sưu cao thuế nặng: “Cái giống nợ lãi - lãi mẹ đẻ lãi con”, đó là đặc trưng nổi bật của chiêu bài bọn cho vay nặng lãi. Món nợ truyền kiếp, nợ từ đời này sang đời khác, nợ không bao giờ trả hết được. Người dân đói, khổ không chỉ bởi cảnh sưu cao thuế nặng, mà Nạn cường hào tham nhũng cũng đẩy cuộc sống của người dân quê càng lún sâu vào bước đường cùng. Miêu tả Nạn mê tín dị đoan ở chốn thôn quê. Nơi đây, bọn thực dân phong kiến thực hiện chính sách ngu dân, bóc lột dân chúng bằng cách lợi dụng lòng mê tín của người dân. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu nhất trong lòng người đọc về thôn quê là Nạn xôi thịt. Nó gay gắt, khốc liệt không kém phần nhức nhối. Miếng ăn như trùm lên ám khí của cái làng nhỏ bé này. 2.2.2.2. Những hủ tục lạc hậu 17 Trong Việc làng, Ngô Tất Tố phản ánh rất nhiều hủ tục lạc hậu ở nông thôn. Trước hết là tục vào ngôi. Tục vào ngôi chỉ là một lệ làng phải có của nông thôn Bắc Bộ Việt Nam. Với tâm lý người dân khát khao muốn có cái danh cái phận, cái sĩ diện, nên làng mới sinh sôi nảy nở thêm ra cái tục mua danh bán tước, còn gọi là tục mua chức. Chốn thôn quê, thường có những lễ thờ, cúng bái. Vì vậy, làng xuất hiện tục nuôi gà thờ. Thối nát, đê tiện đến tận cùng! Người dân thê thảm hơn với cái tục lệ vô nhân đạo: tục ăn vạ. Từ xưa đến nay, họ đã ăn vạ người nào, người ấy phải bán nghiệp mà trả. Một tục lệ khác Tục ma chay, cúng tế không kém phần nhiễu sự tốn kém cho những cuộc chè chén của bọn chúng. Ngoài những hủ tục quái gở, bọn cường hào còn sáng tạo thêm những “lệ làng” quái dị như lễ xôi mới, xâu lòng thờ, chiếc lăm lợn…để tiện bề ức hiếp, bóc lột nông dân. 2.2.3. Hướng đến cải cách đời sống nông thôn – tiếng nói nhân đạo của nhà văn Ngô Tất Tố tỏ ra hiểu biết sâu sắc về con người và cuộc sống ở nông thôn. Ngòi bút hiện thực của ông toát lên một tinh thần nhân đạo cao quý. Viết Việc làng, Ngô Tất Tố dám nhìn thẳng vào hiện thực phê phán, lên án, tố cáo âm mưu của bọn thống trị, phơi trần cuộc sống đen tối của quần chúng. Như vậy, tác phẩm đã có một ý nghĩa tiến bộ. Nhưng với hạn chế giai cấp, ông cho rằng người nông dân không thoát khỏi cuộc sống tối tăm, không xóa bỏ được những hủ tục là do tầng lớp trí thức không quan tâm… 2.3. Phóng sự Tôi kéo xe và Việc làng – Sự bổ sung hoàn thiện bức tranh đời sống xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Mỗi cây bút khám phá, khai thác hai mảng đề tài thành thị và nông thôn riêng biệt, nhưng trong cùng một hoàn cảnh xã hội, 18 một giai đoạn (1932 – 1945), sự đan xen đó bổ sung hoàn thiện bức tranh xã hội đương thời đa sắc. Đó là bức tranh toàn cảnh về đề tài cuộc sống xã hội trên hai phương diện: thành thị, nông thôn Việt Nam buổi giao thời vô cùng phức tạp, phong phú và sinh động. Ở đấy hiện lên một xã hội bất công, phân chia giàu nghèo, các tệ nạn xã hội, lối sống…tất cả đang trên con đường “Âu hóa” mà suy đồi, xuống cấp trầm trọng, đáng báo động. Có thể nói, dưới ngòi bút sắc nhọn của các nhà phóng sự, từng mảng đời sống xã hội cứ hiện dần lên trên từng trang viết hợp thành một bức tranh rộng lớn, phong phú và đậm nét của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 19 Chương 3 PHÓNG SỰ TÔI KÉO XE VÀ VIỆC LÀNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 3.1. Nghệ thuật trần thuật trong phóng sự Tôi kéo xe và Việc làng 3.1.1. Điểm nhìn trần thuật Phóng sự Tam Lang và Ngô Tất Tố lôi cuốn người đọc không chỉ bởi nghệ thuật kể chuyện mà còn hấp dẫn nhờ cách tổ chức các điểm nhìn nghệ thuật. Với Tôi kéo xe, tác giả trực tiếp kể lại chuyện “tôi” – chính bản thân nhà văn trong quá trình dấn thân, nếm trải “kiếp ngựa người”. Ông hòa nhập, hóa thân với thân phận người phu xe “mượn bộ quần áo nâu của một bạn áo ngắn khoác vào mình rồi mạnh bạo đi làm xe”. Nhân vật “tôi” quan sát và chứng kiến những cảnh khốn cùng của người phu xe, những cảnh đời nhọc nhằn, bất công… Dưới cái nhìn chân thực sâu sắc về nông thôn, Ngô Tất Tố qua nhân vật “tôi” – đóng vai trò điều tra, ghi chép hiện thực u ám. Ở đây, nhân vật “tôi” nghe người khác kể câu chuyện sau đó thuật lại cho bạn đọc. Ông nhập vai vào người khách, người quen, ở trọ…của làng để nghe họ kể lại biết bao câu chuyện đắng cay với hủ tục, lệ làng. Sự đan xen giữa các ngôi kể, sự liên kết các điểm nhìn làm cho nhà văn tỉnh táo nhìn thẳng vào sự thật trần trụi, tàn nhẫn nhất của hiện thực. Có thể nói, “cái tôi trần thuật” – điểm nhìn trần thuật được các nhà văn sử dụng một cách linh hoạt và uyển chuyển, có lúc là chính tác giả, có khi lại là nhân chứng dẫn dắt câu chuyện khiến độc giả luôn cảm thấy mình đang tham gia trực tiếp vấn đề. 20 3.1.2. Trần thuật bằng lời kể kết hợp miêu tả Kể chuyện có nhiều cách. Tác giả để cho nhân vật của mình tự kể. Tam Lang trong Tôi kéo xe để cho nhân vật anh Tư – nhân vật chính tự kể về đời mình. Ngô Tất Tố cũng để cho nhân vật tự kể về cuộc đời mình đầy thương xót. Hoặc người kể chuyện chính là tác giả, tác giả trong vai nhân vật “Tôi”. Như vậy, ta thấy trần thuật là biện pháp không chỉ nhằm kể, thuật, cung cấp thông tin về sự kiện, nhân vật…mà yếu tố miêu tả cũng có ý nghĩa trần thuật. Nói cách khác, nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm phóng sự đậm chất tả. Đặc biệt Tam Lang, Ngô Tất Tố đều dùng lối đặc tả phác thảo chân dung của nhân vật. Với phương thức kể chuyện kết hợp với miêu tả, nghệ thuật trần thuật của phóng sự trở nên hấp dẫn, đa dạng và phong phú. Không chỉ vậy, cái Tôi tác giả - nhân vật trần thuật, dẫn dắt sắp xếp các chi tiết, các sự việc, sự kiện, các nhân vật theo vấn đề cụ thể. Các sự kiện, chi tiết nhỏ hình thành khái quát vấn đề lớn. Cách kể chuyện không chỉ là dẫn dắt câu chuyện bằng kết cấu, phóng sự còn hấp dẫn ở cách mở đầu, đặt tiêu đề rất tự nhiên, gây ấn tượng, gợi sự tò mò ở người đọc. Với cách kể chuyện, dẫn dắt khéo léo, mỗi câu chuyện trong phóng sự đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Như vậy, lối kể chuyện không làm cho người đọc nhàm chán mà như cuốn hút vào từng câu chuyện để phát hiện, tìm tòi… Cách kể chuyện và dẫn dắt như vậy làm cho hiện thực cuộc sống hiện lên rất tự nhiên, sôi động. Hơn nữa, nó làm cho các tác phẩm phóng sự luôn mới mẻ và giàu sức cuốn hút. 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 3.2.1. Phác họa thế giới nhân vật nghèo khổ, tận cùng của xã hội
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan