Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11....

Tài liệu Skkn tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11.

.DOCX
44
1324
69

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản TÍCH HỢP KIẾN THỨC LỊCH SỬ VÀO GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI LỚP 11 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong những năm gần đây, việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được cả xã hội quan tâm. Theo tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về việc việc đối mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thì phương pháp dạy học văn cũng cần phải thay đổi để theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” là một trong những vấn đề ưu tiên hiện nay. Thêm nữa, nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI có nêu rõ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như sau: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Theo quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục trung học trên thì phát triển năng lực của người học được coi là mục tiêu quan trọng và được cần được coi trọng.Mặt khác, khái niệm năng lực ở đây được hiểu là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng và mong muốn của người học. Như vậy, việc liên hệ kiến thức lịch sử vào việc đọc hiểu tác phẩm văn học cũng là biện pháp cần thiết, đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới giáo dục, đặc biệt đối với bộ môn Ngữ văn. Văn học cũng như mỗi tác phẩm văn chương luôn luôn được ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể, những yếu tố đó thẩm thấu, chắt lọc thông qua lăng kính của nhà văn để đi vào tác phẩm. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà muốn nghiên cứu một tác phẩm văn chương cụ thể chúng ta lại tìm đến bối cảnh mà nó ra đời. Trong phương pháp dạy học văn gọi đó là “quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh hay là sự vận động một cách thích hợp những hiểu biết ngoài văn bản để cắt nghĩa tác phẩm”. Bên cạnh đó, đặt trong giai đoạn đất nước như hiện nay, khi mà những giá trị sống của con người đều bị “lung lay” trong “cơn bão” của quá trình hội nhập, nhiệm vụ giáo dục qua môn Ngữ văn lại càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Đó có thể là giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông…và hơn thế nữa bồi dưỡng cho HS tình yêu đối với lịch sử dân tộc. GV: Lê Thị Thu Phương 1 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản Nhìn lại thực tế dạy học tác phẩm văn học trung đại lớp 11 thì thấy rằng cả GV và HS – cả người định hướng và người chủ động khám phá kiến thức đều hiểu biết chưa nhiều về lịch sử phát sinh của tác phẩm văn học trung đại hoặc ít nhiều chưa nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của nó đối với quá trình tìm hiểu, khám phá kiến thức mới. Cộng thêm việc thiếu những hình ảnh trực quan cũng như những thước phim tư liệu liên quan đến nội dung bài học đã là những nguyên nhân và là rào cản để cả người dạy và người học có thể hiểu sâu sắc giá trị nội dung và nghệ thuật của những tác phẩm văn học trung đại – những tác phẩm có khoảng cách khá xa với chúng ta về thời gian lịch sử. Từ những nhu cầu đổi mới giáo dục cấp thiết cùng thực tế dạy học với những đòi hòi khách quan và chủ quan ấy đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài: “Tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11”. II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: 1. Cơ sở lí luận: 1.1 Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường: Trước khi tìm hiểu một tác phẩm văn học bất kì cũng cần xác định phương pháp, quan điểm tiếp cận đồng bộ, rõ ràng và đúng đắn. Đặc biệt đối với những tác phẩm thuộc bộ phận văn học trung đại Việt Nam được coi là khó dạy hay và xa lạ với tâm lí tiếp nhận của người học. Hiện nay, quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường là một xu hướng tiến bộ. Nó vừa đảm bảo được phương pháp lịch sử phát sinh, vừa chú trọng được tác giả, tác phẩm, đồng thời chú trọng đến vai trò tích cực của người học. Một trong những đặc điểm chính của quan niệm tiếp cận đồng bộ là quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh và sự vận dụng một cách thích hợp những hiểu biết ngoài văn bản (XH, văn hoá, nhà văn...) để cắt nghĩa tác phẩm. 1.1.1 Quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh: Theo quan điểm này, mỗi nhà văn đều được sinh ra trong một hoàn cảnh lịch sử và đều chịu sự tác động trở lại hoàn cảnh lịch sử. Mỗinhà văn đều có khuynhhướng khẳng định tài năng và nhân cách riêng, khẳng định vị thếcuả mình trong dòng chảy văn học. Do vậy, việc nghiên cứu văn học phải dựa vào lịch sử là một tất yếu. Ví dụ, tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi phải đặt trong hoàn cảnh chống giặc Minh xâm lược hay khi tiếp nhận tác phẩm Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu phải đặt trong hoàn cảnh chống quân MôngNguyên sôi sục của quân dân đời Trần thì mới hiểu sâu sắc giá trị của tác phẩm và đồng cảm với tác giả, hiểu được hào khí của thời đại và thế đứng của dân tộc. Nỗi niềm băn khoăn, hoài nghi, bất bình của Cao Bá Quát, nỗi uất nghẹn sôi trào của GV: Lê Thị Thu Phương 2 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản Nguyễn Đình Chiểu, nỗi suy tư sâu lắng của Nguyễn Khuyến đều có nguồn gốc sâu xa từ bối cảnh văn hóa, lịch sử của thời đại. 1.1.2 Quan điểm tiếp cận hướng vào đáp ứng của học sinh: Theo phương pháp dạy học văn hiện đại, HS là một chủ thể sáng tạo đa dạng, phong phú. Để chủ thể ấy phát huy được tối đa khả năng tiếp cận, lĩnh hội văn bản văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng thì cần có một kênh thông tin, một cây cầu nối bằng văn hóa và lịch sử để có sự đối thoại, cuộc gặp gỡ giữa những giá trị của một thời với tâm lí tiếp nhận của người học hiện nay. Mỗi tác phẩm văn chương không chỉ truyền cho HS những thông điệp mà nhà văn, nhà thơ gửi gắm mà còn truyền cho các em một niềm tin thực sự dựa trên cơ sở có thật mà cái thật đó không gì khác ngoài lịch sử. Khi đã hiểu về lịch sử, các em sẽ cảm nhận và tin vào những thông điệp mà các tác giả gửi gắm, sẽ không còn cảm giác “chơi vơi”, mơ hồ, sáo rỗng về những tác phẩm xưa cũ. Khi đó, HS sẽ là người tiếp nhận tác phẩm văn học vừa là người đồng sáng tạo với tác giả nếu được đặt mình trong không gian văn hóa và thời gian lịch sử mà tác phẩm đó ra đời. Như vậy, quan điểm tiếp cận trên là thực sự cần thiết đối với thực tế giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại trong nhà trường. Nó đã rút gần hơn khoảng cách giữa HS với nhữngtác phẩm này, để chúng không còn xa lạ, vô nghĩa và khắc phục tâm lí chán nản, hoài nghi về giá trị của những tác phẩm thuộc thời đại cũ. 1.2 Mối quan hệ giữa văn học và lịch sử: 1.2.1 Mối quan hệ hai chiều giữa văn học và lịch sử: Văn học cũng như mỗi tác phẩm văn chương luôn ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội, văn hoá cụ thể. Mỗi tác phẩm văn học – đứa con tinh thần của mỗi nhà văn, nhà thơ lại được thai nghén, ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Nếu khôngđặt trong môi trường sinh thành thì không thể có cơ sở để khẳng định hay ngợi ca về những giá trị hiện thực, nhân đạo mà nó thể hiện. Văn học là lăng kính phản chiếu lịch sử và hoàn cảnh lịch sử sẽ là đối tượng, là bối cảnh sản sinh ra văn học. Và nhà thơ, nhà văn đóng vai trò là “người thư kí trung thành của thời đại” (Balzac). Bởi thế, không phải ngẫu nhiên khi đánh giá sự nghiệp thi ca của Tố Hữu, người đọc thấy ở đó chặng đường thơ gắn liền với chặng đường cách mạng của dân tộc, hay xa hơn nữa là thơ văn Nguyễn Đình Chiểu được ngợi ca là “ghi lại lịch sử của một thời khổ nhục nhưng vĩ đại" của dân tộc. (Phạm Văn Đồng- Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, tạp chí văn học 7- 1963).Tuy nhiên, văn học không phản ánh lịch sử một cách khô cứng, gượng ép mà rất hình tượng và mang màu sắc thẩm mĩ. Như vậy, ở phương diện nào đó, lịch sử là chất GV: Lê Thị Thu Phương 3 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản liệu, là đối tượng phản ánh của văn học và lịch sử soi mình trong văn học để mãi lung linh trong tâm hồn mỗi con người. 1.2.2 Điểm đồng quy giữa bộ môn Lịch sử và Ngữ văn: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. “Biết sử ta” không phải chỉ đơn thuần là ghi nhớ một số sự kiện, một vài chiến công nói lên tiến trình đi lên của dân tộc hay ghi nhớ công lao của những người làm nên sự nghiệp to lớn đó, mà còn phải biết tìm hiểu “cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”, tiếp nhận những nét đẹp của đạo đức, của đạo lý làm người Việt Nam. Mặt khác, nhà văn M.Gook-ki thật chí lí khi đã cho rằng: “Văn học là nhân học”. Câu nói là sự đúc kết tuyệt vời từ cuộc đời cầm bút của ông. Qua đó có thể thấy ý nghĩa của việc học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người và đồng thời cũng là để học cách làm người. Cái cách học làm người ấy có gì khác ngoài những giá trị đạo đức, những truyền thống đạo lí của người Việt Nam được bồi đắp qua bao thế hệ. Thì ra, đây chính là điểm gặp gỡ đẹp đẽ giữa giá trị giáo dục của bộ môn văn học và bộ môn lịch sử. Như vậy, có điểm đồng quy giữa văn học và lịch sử: đó là giá trị giáo dục con người. Cả hai môn học đều hướng đến giáo dục đạo đức, tình yêu đất nước, con người , lòng tự hào dân tộc, và ý thức bảo vệ tổ quốc. Có điều, mỗi môn học lại có con đường - hành trình riêng để đi đến nhận thức và trái tim của người học. Nếu lịch sử phản ánh đời sống, quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của đất nước, dân tộc bằng những cứ liệu lịch sử, những chuyện xưa, tích cũ trong quá khứ thì văn học lại phản ánh những điều đó thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và dấy lên trong lòng người học những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1 Thực tiễn giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại: Văn học trung đại là một thời kì lớn trong lịch sử văn học nhân loại và văn học Việt Nam đồng thời cũng là một trong hai bộ phận lớn của văn học bên cạnh văn học cổ đại và văn học hiện đại. Văn học trung đại Việt Nam là một thời kì phát triển rất phong phú và kéo dài suốt mười thế kỉ (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX) và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và đỉnh cao như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Nhìn lại SGK lớp 11, những tác phẩm văn học trung đại chiếm một số lượng không nhỏ. Việc dạy cho hay, hiểu cho đúng những tác phẩm này vẫn là thách thức GV: Lê Thị Thu Phương 4 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản và mục tiêu phấn đấu của mỗi GV và HS. Bởi lẽ trong qua trình tiếp nhận cả GV và HS gặp nhiều khó khăn cơ bản như: Thứ nhất là vấn đề ngôn ngữ. Cả GV và HS hầu như chỉ tiếp nhận tác phẩm thông qua các bản dịch nghĩa và dịch thơ. Do đó việc hiểu sai hoặc chưa đầy đủ các lớp nội dung, ý nghĩa cũng như vẻ đẹp nghệ thuật của các tác phẩm rất hay xảy ra. Thứ hai, rất nhiều tác phẩm văn học trung đại là những văn bản “hành chức”, được sáng tác theo các thể loại mang tính chức năng như chiếu, cáo, hịch, văn tế nên ít gây hứng thú đối với HS ngày nay. Thứ ba, những tác phẩm văn học thời kì này đã trở nên cũ kĩ và xa lạ với tâm lí tiếp nhận của HS ngày nay. Ngoài ra việc vận dụng về sự phát triển của lịch sử xã hội góp phần vào việc lí giải các tác phẩm văn học thời kì này cũng gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các sự kiện lịch sử cụ thể liên quan đến sự ra đời của các tác phẩm văn học. Từ thực tiễn trên, đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp liên hệ kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11” sẽ góp phần khắc phục khó khăn thứ ba, kéo HS gần hơn với những tác phẩm đã ra đời rất lâu so với thời đại các em sống. 2.2 Những hướng đề xuất trong việc giảng dạy tác phẩm văn học trung đại: Vì còn nhiều bất cập trong việc giảng dạy tác phẩm văn học trung đại nên cũng có nhiều ý kiến trao đổi, những hướng đề xuất để việc tiếp nhận những tác phẩm thời kì này như: Cô Nguyễn Thị Hiểu – GV trường THPT Lệ Thủy, Quảng Bình trong bài viết “Một vài đề xuất hướng tiếp cận và giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại trong chương trình THPT” có nhấn mạnh: khi giảng dạy các tác phẩm văn chương trung đại, giáo viên phải dựng lại được không khí văn hóa, lịch sử của thời đại, phải tạo được sự đồng cảm về văn hóa, văn học; giảng dạy văn học trung đại phải dựa trên thi pháp văn chương trung đại, phải bám sát đặc trưng thể loại, phải đặt trong mối liên hệ với cuộc sống thực tại hôm nay. Theo kinh nghiệm của mình, cô Trần Thị Hoa– Giáo viên Trường THPT Thái Hòa (Hàm Yên, Tuyên Quang) có chia sẻ: “ trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy việc tham khảo tài liệu từ các lĩnh vực khác có vai trò quan trọng trong việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Tài liệu tham khảo giúp người học xây dựng được tầm đón nhận phù hợp với văn bản”,cụ thể là: sử dụng tài liệu liên môn,sử dụng tư liệu lịch sử, sử dụng tư liệu về các tác phẩm nghệ thuật, sử dụng tài liệu địa lý và ngôn ngữ học, sử dụng tài liệu các lĩnh vực văn hóa khác. Kinh nghiệm GV: Lê Thị Thu Phương 5 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản trên chỉ ra cái nhìn bao quát mang tính phương pháp chứ chưa có biện pháp đi vào cụ thể từng bài, từng nội dung kiến thức. Còn tác giả Trương Thị Minh Hà trong sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp dạy học văn bản nghị luận, văn học trung đại ở trường THPT” lại chỉ chú trọng đến những tác phẩm thuộc văn nghị luận và phương pháp tích hợp ngang (Văn-Tiếng Việt-Làm văn), tích hợp dọc(tích hợp theo từng vấn đề) và không bao quát hết kiến thức văn học trung đại lớp 11. Tác giả Trần Minh Thương lại đề xuất “Hướng tích hợp những kiến thức liên quan giữa hai phân môn lịch sử và ngữ văn ở trường THPT” song hướng tích hợp rộng, bao quát cả tác phẩm văn học lớp 10,11,12, cả tác phẩm văn học Việt Nam và tác phẩm văn học nước ngoài mà chưa chỉ ra tích hợp chỗ nào và tích hợp như thế nào trong những tác phẩm văn học trung đại lớp 11. Nói tóm lại, các công trình nghiên cứu, những đề xuất, sáng kiến đều chỉ nêu chung chung mà chưa đi vào cụ thể vào liên hệ kiến thức lịch sử trong việc giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại lớp 11. Vì vậy, để khắc phục điều đó, đề tài này sẽ tìm những địa chỉ liên hệ và đề xuất những biện pháp liên hệ kiến thức lịch sử để góp phần hiệu quả vào việc giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11. III. NỘI DUNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP LIÊN HỆ KIẾN THỨC LỊCH SỬ VÀO GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI LỚP 11 1. Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử vào phần hướng dẫn chuẩn bị bài cho HS Bước chuẩn bị bài ở nhà của HS là một khâu bước rất quan trọng trong tiến trình giảng dạy tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng. Sở dĩ nó quan trọng là bởi, nếu không chuẩn bị bài ở nhà dưới sự hướng dẫn của GV thì sẽ cản trở việc HS cảm thụ tác phẩm ở trên lớp. Hơn nữa, HS tự mình được trước bài văn dễ có những ấn tượng sai lạc ban đầu. Tuy nhiên nhìn lại thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy khâu chuẩn bị ở nhà của HS thường bị coi nhẹ, GV phần nào không hướng dẫn cụ thể cho học sinh. Mấy phút còn lại cuối cùng của giờ học, GV dặn HS soạn những câu hỏi trong sách giáo khoa và kết quả HS chuẩn bị đến đâu lại ít được quan tâm. Nội dung công việc chuẩn bị ở nhà của HS có nhiều mặt, đa dạng. Có thể là tập đọc tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về một chi tiết nghệ thuật, một kiến thức cụ thể cần thiết có liên quan đến việc tiếp nhận tác phẩm. Phần lớn những câu hỏi hướng dẫn HS chuẩn bị bài thường tập trung, xoay quanh kiến thức văn học, kiến thức trong SGK mà ít tận dụng những kiến thức ngoài SGK, ngoài môn học như lịch sử để khám phá và hiểu sâu hơn về tác phẩm – điều mà rất cần đối với quá trình đọc hiểu văn bản văn học trung đại. Trong một phạm vi nhỏ, đề tài hướng đến biện pháp “Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử vào phần hướng GV: Lê Thị Thu Phương 6 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản dẫn chuẩn bị bài cho HS”. Tất nhiên không phải bất kì tác phẩm tác phẩm văn học trung đại nào trong quá trình tìm hiểu cũng có thể được liên hệ kiến thức lịch sử ở mức độ như nhau. GV phải tìm hiểu kĩ tác phẩm, sau đó đặt những câu hỏi thật sát với nội dung bài học, tận dụng tối đa những hiểu biết ngoài tác phẩm của HS vừa để các em có cái nhìn tin cậy hơn, đúng hơn về tác phẩm, vừa tránh tình trạng tản mạn trong kiến thức của mình. Dưới đây làgợi ý trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử trong một số tác phẩm văn học trung đại 11 tiêu biểu: * Trước hết là văn bản Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác. Đây là văn bản thuộc thể loại kí sự - một thể kí, ghi chép sự việc, câu chuyện có thật và tương đối hoàn chỉnh. Có thể thấy qua đoạn trích này một cái nhìn chân thực, hài hước, mỉa mai, bất bình của tác giả về lối sống xa hoa, lãng phí và biểu hiện lộng quyền của chúa Trịnh. Để HS đọc hiểu tốt văn bản này, GV nên đặt những câu hỏi hướng các em đến những sự kiện lịch sử trong thời gian mà văn bản ra đời. - Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh tríchThượng kinh kí sự của tác giả Lê Hữu Trác được sáng tác trong hoàn cảnh nào? - Tác phẩm Thượng kinh kí sự của tác giả Lê Hữu Trác được hoàn thành vào năm 1783. Bằng những kiến thức lịch sử ở lớp 10 đã học, em hãy cho biết vào thời điểm đó, nền chính trị nước ta có gì đáng chú ý? Em biết gì về mối quan hệ giữa chính quyền Lê- Trịnh? - Cũng vào thời điểm đó, đời sống nhân dân như thế nào dưới sự trị vì của chúa Trịnh? - Hình ảnh nào trong SGK lịch sử 10 cho em thấy sự lộng hành, tiếm quyền cả cung vua Lê của chúa Trịnh? * Đối với bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, tưởng chừng như không cần có sự liên hệ kiến thức lịch sử thì tâm sự thời thế của nhà thơ ở hai câu cuối và hồn thu đẹp nhưng có phần lạnh lẽo, cô quạnh ở sáu câu trước đó lại cần tìm về bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỉ XIX thì mới có thể cắt nghĩa, lí giải được. - Nhà thơ Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ Thu điếu trong hoàn cảnh nào? - Vì sao Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn? - Trong thời gian khoảng thời gian và sau khi ông cáo quan về ở ẩn tại quê nhà (1872-1883), lịch sử Việt Nam có những biến động gì đáng chú ý? * Bài Vịnh khoa thi Hương (có bản ghi là Lễ xướng danh khoa thi Đinh dậu) của Trần Tế Xương (1870-1907) là bài thơ thuộc đề tài “thi cử”. Bài thơ đã thể GV: Lê Thị Thu Phương 7 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản hiện thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông. Qua bài thơ này, tác giả vẽ nên một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu, đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước. Bài thơ gắn liền với một sự kiện lịch sử đương thời có thật cho nên không lẽ gì khi tìm hiểu tác phẩm này HS lại không quan tâm đến lịch sử. Những thông tin trong SGK, cả về phần Tiểu dẫn và phần Chú thích cũng không thể cung cấp hết cái nhìn thời sự đối với tác phẩm này. Vả lại, Vịnh khoa thi Hương chỉ được đưa vào chương trình với tư cách là bài đọc thêm, thời lượng rất ít, nên việc HS chuẩn bị bài ở nhà qua những câu hỏi hướng dẫn liên hệ của GV ở tiết học trước là rất cần thiết. GV có thể đặt một số câu hỏi để HS tự liên hệ, tìm hiểu như: - Em hãy nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương? - Kì thi Hương được Trần Tế Xương phản ánh trong bài thơ diễn ra vào năm nào? - Câu thơ “Nhà nước ba năm mở một khoa” trong bài thông báo điều gì? Em biết gì về cách thức tổ chức các kì thi và chính sách phát triển giáo dục dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn? (gợi ý: thi Hương, thi Hội, thi Đình) - Câu thơ thứ hai “Trường Nam thi lẫn với trường Hà” đã cho thấy kì thi có gì đặc biệt? Vì sao có sự đặc biệt đó? - Tại sao trong lễ xướng danh khoa thi Đinh dậu lại có sự xuất hiện của “quan sứ” và “mụ đầm”? * Một tác phẩm cùng viết về đề tài “thi cử” khác trong chương trình là Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (1809 ?-1855). Bài thơ biểu lộ tinh thần phê phán của ông đối với học thuật và sự bảo thủ, trì trệ của chế độ nhà Nguyễn nói chung. Có thể thấy Cao Bá Quát sống cùng thế kỉ và cùng dưới triều Nguyễn với Nguyễn Công Trứ nên cái nhìn của hai con người có tài năng, nhân cách và tư tưởng canh tân ít nhiều có sự tương đồng. Vì thế, khi dạy bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát, GV có thể đặt một số câu hỏi liên hệ kiến thức lịch sử tương tự: - BàiBài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát được sáng tác trong hoàn cảnh nào? - Tại sao Cao Bá Quát lại vào trong Huế để tham gia kì thi Hội? - Điều gì khiến cho Cao Bá Quát có thái độ chán ghét, quay lưng với nền học thuật và khoa cử đương thời? GV: Lê Thị Thu Phương 8 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản - Nhìn vào lịch sử nước ta lúc đó, lúc đó có nhiều cuộc tiếp xúc với phương Tây, liệu đó có phải là yếu tố tác động đến tư tưởng và tâm trạng của Cao Bá Quát được thể hiện trong bài thơ này không? - Trong SGK lịch sử 10, bài 26, Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân giúp em hiểu thêm được điều gì về cuộc đời và con người Cao Bá Quát? * Bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) Bài Chạy giặc (có sách ghi là Chạy Tây) là một trong những tác phẩm đầu tiên của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Tác phẩm này cho dù là bài đọc thêm nhưng cả GV và HS không thể tiếp cận được nếu không phân tích hoàn cảnh lịch sử ra đời của nó. Ở bài thơ này, GV đặt một số câu hỏi cho HS về nhà chuẩn bị để rút ngắn thời gian trên lớp trong việc cảm nhận bài thơ. - Em hãy cho biết hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu có gì đặc biệt? - Trong SGK lịch sử 11, bài Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) đã ghi nhận bối cảnh lịch sử - thời điểm bài thơ Chạy giặc ra đời như thế nào? - Em biết gì về địa danh Bến Nghé và Đồng Nai? Trong SGK lịch sử 11, bài Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) cho em biết thêm điều gì về những địa danh này? * Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang – tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm 16-2-1861. Vậy điều gì đã khiến bài văn này ngay lập tức được truyền tụng khắp nơi trong nước và làm xúc động lòng người? Đó là bởi nó đặt trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) đang diễn ra sôi sục, liên tiếp những cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra và đã đạt những chiến thắng nhất định. Đặt trong bối cảnh khi toàn dân tộc đang quyết một lòng “chết vinh còn hơn sống nhục”, sự hi sinh vì đại nghĩa của những nghĩa sĩ trong trận Cần Giuộc lại có sức mạnh cổ vũ và khích lệ to lớn. Vì vậy, ở bài văn tế này, GV có thể đặt một số câu hỏi liên hệ lịch sử cho HS như: - Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu được ra đời trong hoàn cảnh nào? - Bài văn tế ra đời giữa thời điểm các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra như thế nào? GV: Lê Thị Thu Phương 9 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản - Em hiểu như thế nào về “mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm”? Hãy tìm trong SGK lịch sử 11, bài Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (18581884) những cứ liệu lịch sử nói về việc thực dân Pháp đã xuất hiện và lăm le xâm lược nước ta? * Bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm (1746-1803) Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng 1788 – 1789, nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê-Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn. Tác phẩm Chiếu cầu hiền được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt. Phải đặt tác phẩm trong hoàn cảnh ra đời mới thấy được tính cấp bách của nó. Để HS tìm hiểu tốt hơn bài học này, GV có thể đặt câu hỏi hướng dẫn tự học như: - Bài Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết được ra đời vào năm nào? - Bối cảnh lịch sử nước ta lúc đó ra sao? - Tại sao những sĩ phu Bắc Hà lại có tâm lí kiêng dè không ra gánh vác việc nước? - Liệu có phải Quang Trung kém tài, ít đức nên chưa có người phò tá không? Vì sao? - Vì sao Quang Trung lại cho rằng “công việc ngoài biên đương phải lo toan”, “dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp thấm nhuần khắp nơi”? * Bài Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ cũng được ra đời trong bối cảnh sự thúc bách của thời đại, đặt trong bối cảnh trào lưu cải cách, duy tân ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX. Ở bài này, GV đặt một số câu hỏi giúp HS kết nối kiến thức của phần Tiểu dẫn và kiến thức lịch sử lớp 11, bài 35 như: - Bài Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ được ra đời trong hoàn cảnh nào? - Đoạn trích Xin lập khoa luật được ra đời trong bối cảnh chính trị đất nước dưới triều Tự Đức như thế nào? - Bài 35, trong SGK lịch sử lớp 11, giúp em hiểu thêm điều gì về tư tưởng canh tân và tác giả của bản điều trần này? GV: Lê Thị Thu Phương 10 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản Trong quá trình xây dựng hệ thống câu hỏi có liên hệ kiến thức lịch sử, GV cần lưu ý những điểm sau đây: Thứ nhất là có thể đặt câu hỏi gợi nhắc lại kiến thức lịch sử mà HS đã tìm hiểu hiểu ở lớp dưới (lớp 10), cũng có thể đặt câu hỏi để các em tìm kiếm kiến thức mới chưa học bởi chương trình của bộ môn Ngữ văn chưa có sự tương thích về mặt thời gian với chương trình môn học Lịch sử. Thứ hai là cần lựa chọn những câu hỏi thực sự có ý nghĩa trong cả việc khai thác kiến thức bài học Ngữ văn vừa nhắc lại kiến thức lịch sử mà HS đã học theo phương pháp “ôn cố tri tân” Thứ ba là đối với những bài có dung lượng câu hỏi tích hợp nhiều, GV nên sử dụng phiếu học tập dưới dạng bài tập về nhà để HS tiết kiệm thời gian ghi chép câu hỏi trên lớp mà GV cũng giảm bớt khó khăn trong việc kiểm tra việc tự học, tự liên hệ của HS. 2. Liên hệ kiến thức lịch sử để tạo hứng thú cho HS trong phần giới thiệu bài học. Sau biện pháp liên hệ kiến thức lịch sử trong và ngoài kiến thức SGK cho HS thông qua việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong phần chuẩn bị bài ở nhà, GV có thể liên hệ trực tiếp những kiến thức đó trong phần giới thiệu bài học để tạo ấn tượng ban đầu cho HS về tác phẩm. Qua quá trình giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại lớp 11, tôi nhận thấy có thểliên hệ kiến thức lịch sử tạo ấn tượng cho HS ngay trong lời dẫn vào bài. Trước hết cần nhận thức rằng: lời dẫn vào bài cũng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình của một giờ dạy văn, và đặc biệt đối với những tác phẩm văn học trung đại vốn được cho là khó, khô. Có GV dùng lời dẫn vào bài để chuyển tiếp từ bài cũ sang bài mới, có người mở đầu bằng lời giới thiệu tác giả, tác phẩm, có người kiểm tra bài cũ, có người đọc diễn cảm ngay. Nhưng dù chọn cho mình cách nào GV cũng cần lưu ý phải khơi gợi sự hứng thú cho HS đồng thời tạo tâm thế cho các em trong việc tiếp nhận tác phẩm. Không phải tác phẩm văn học trung đại nào cũng sẵn có một nguồn hình ảnh, thước phim tư liệu để minh họa, bởi do những hạn chế kĩ thuật của thời đại. Càng lùi về lịch sử thì điều đó càng hiếm có, có chăng cũng chỉ là sự minh họa bằng tranh vẽ nên ít nhiều có sự dung sai. Vì vậy, đối với những tác phẩm văn học trung đại không có nhiều hoặc không có hình ảnh lịch sử minh họa thì GV nên chọn cách dẫn dắt vào bài đồng thời tích hợp kiến thức lịch sử mà các em đã học hoặc đã tự tìm hiểu để tạo ấn tượng mạnh trong phần giới thiệu bài học. Ví dụ những bài như GV: Lê Thị Thu Phương 11 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Thương vợ của Trần Tế Xương,Xin lập khoa Luật của Nguyễn Trường Tộ. Cụ thể như sau: - Ở bài thơ Câu cá mùa thu, GV bắt đầu tiết học bằng lời dẫn: “Sau phát súng xâm lược đầu tiên của thực dân Pháp tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, lần lượt ba tỉnh miền Đông (1862), rồi ba tỉnh miền Tây Nam Kì (1867) bị rơi vào tay giặc trước sự bất lực, nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn. Chỉ trong không đầy 1 năm, triều đình nhà Nguyễn đã phải kí 2 bản Hiệp ước Hác măng (1883) và Hiệp ước Patơnốt (1884). Trước thời buổi nhiễu nhương trong triều, một vị đại quan trong triều đã từ quan về ở ẩn tại quê nhà, với cảnh quê người quê những vẫn đau đáu, trăn trở về thời cuộc mà bất lực. Vị đại quan ấy không ai khác chính là nhà thơ Nguyễn Khuyến. Tâm sự về thời cuộc mà ẩn chứa lòng yêu nước kín đáo của ông được thể hiện trong bài thơ Câu cá mùa thu mà hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.” - Ở bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương, GV có thể dẫn vào bài như: “Trong nửa sau của thế kỉ XIX, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, tài chính cạn kiệt. Để đối phó với tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn tăng cường bóc lột nhân dân, thậm chí áp dụng cả những biện pháp tiêu cực như: cho nộp tiền chuộc tội, cho buôn bán thuốc phiện, cho mua quan, bán tước để thu tiền. Chế độ khoa cử cũ kĩ lỗi thời cùng với nạn mua quan bán tước diễn ra công khai, trắng trợn đã khiến những người có thực tài, thực học như Trần Tế Xương tám lần đi thi nhưng chỉ một lần đỗ tú tài. Đó có phải là thói đời bạc bẽo đã khiến cho bà Tú phải khổ mà ông cất lên tiếng chửi trong bài thơ Thương vợ. Điều đó sẽ được trả lời trong tiết học hôm nay.” - Ở bài Xin lập khoa Luật của Nguyễn Trường Tộ , GV cũng có thể liên hệ kiến thức lịch sử trong lời dẫn vào bài: “Trong nửa sau thế kỉ XIX, bộ máy chính quyền triều Nguyễn từ trung ương đến địa phương trở nên sâu mọt; địa chủ cường hào tha hồ đục khoét, nhũng nhiễu dân lành. Những năm trước khi Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất, ở nước ta đã rộ lên một phong trào đề nghị cải cách. Một trong số những người đi đầu phong trào đó là Nguyễn Trường Tộ. Chính tình trạng trì trệ, bảo thủ và suy yếu nghiêm trọng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân Pháp đã thôi thúc ông đề xuất việc lập khoa Luật cho đất nước. Tầm nhìn xa trông rộng và tư tưởng tiến bộ của ông sẽ là điều mà chúng ta tìm hiểu trong tiết học hôm nay qua bài “Xin lập khoa Luật.” Một kinh nghiệm rút ra trong việc liên hệ kiến thức lịch sử vào phần giới thiệu bài học là GV nên đặt các thông tin về lịch sử lên trước sau đó kết nối thông tin đó GV: Lê Thị Thu Phương 12 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản với nội dung bài học có liên quan. Và nên lưu ý, không nên gượng ép trong việc liên hệ vì nếu việc liên hệ mang tính chất khiên cưỡng không những không giúp HS hiểu thêm về lịch sử mà còn làm mất hứng thú, không đáp ứng được sự chờ đợi của các em trước một giờ học văn. 3. Liên hệ kiến thức lịch sử thông qua những hình ảnh minh họa trong phần Đọc- hiểu Trong việc đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại, ngoài nhưng nội dung thông tin trong và ngoài văn bản thì việc giới thiệu và cung cấp cho HS những hình ảnh minh họa cũng không kém phần quan trọng. Bởi “trăm nghe không bằng một thấy”, phải “đích mục sở thị” mới củng cố thêm niềm tin, giúp các em hình dung và có những cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm. GV nên bổ sung hình ảnh tư liệu thuộc lĩnh vực lịch sử vào bài giảng để HS có vốn tri thức rộng khi tiếp nhận. Hơn nữa, HS tiếp nhận kiến thức qua tranh ảnh, hình ảnh trực quan kết hợp với SGK và các tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng thú hơn. Để việc khai thác nguồn tư liệu này có hiệu quả, phát huy tính tích cực của HS, GV cần nghiên cứu kĩ mục tiêu và nội dung của từng tư liệu trong bài học, tư liệu thuyết minh hình ảnh. GV có thể tận dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì HS được trực quan với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn. Tuy nhiên, trong phạm vi cho phép, sáng kiến kinh nghiệm chỉ thể hiện hình ảnh minh họa cho một số tác phẩm văn học trung đại trong chương trình lớp 11. Cụ thể như sau: * Ở bài Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác: Ở bài này, GV cho HS quan sát hình ảnh minh họa cho hai buổi thiết triều của vua Lê và Chúa Trịnh và đặt câu hỏi đây là hình ảnh nào? Em hãy quan sát và so sánh hai hình ảnh này về mức độ quy mô? Sở dĩ GV đặt câu hỏi này là bởi hai hình ảnh này được lấy trong SGK lịch sử lớp 10 các em mới được tìm hiểu không lâu. Từ đó HS dễ dàng so sánh được quy mô, sự long trọng, sang trọng đầy đủ ban bệ ở phủ Chúa không kém gì ở cung vua. Điều đó giúp HS hiểu thêm sự lộng quyền, lấn át cả cung vua Lê của chúa Trịnh. GV: Lê Thị Thu Phương 13 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản B uổi thiết triều của chúa Trịnh Buổi thiết triều của vua Lê *Ở bài Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương, GV nên giới thiệu khung cảnh trường thi, hình ảnh Lễ xướng danh khoa thi Đinh dậu. Hình ảnh trường thi ngày xưa Các sĩ tử xem bảng danh sách những người thi đỗ Trường Hà Nam, khoa Đinh dậu 1897 GV: Lê Thị Thu Phương 14 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản (Cổng Tiền Môn) (Cổng Tiền Môn) Dân chúng chen lấn nhau đi Toàn quyền P.Doumer chứng kiến xem lễ xướng danh lễ xướng danh Xướng danh trường Hà Nam (27/12/1897) Các quan mặc triều phục, theo thứ tự phẩm trật, ngồi ghế tréo ở hai bên con đường đi từ Cổng Tiền Môn dẫn vào nhà Thập Đạo (Trường Hà-nam 27/12/1897) GV: Lê Thị Thu Phương 15 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản (Tân khoa ngồi đợi hoàn tất lễ Xướng danh Sau khi trình diện các Khảo quan, ông Cử mới đượcdẫn đến chiếu ngồi trong một cái rạp dựng trước nhà Thập đạo. Ông Thủ Khoa, cũng gọi là Giải nguyên hay Hương nguyên, ngồi trên chiếc chiếu hoa cạp điều đầu hàng lẻ, ông Á nguyên ngồi trên chiếc chiếu đầu hàng chẵn.) * Ở bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) Quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (17/2/1859) GV: Lê Thị Thu Phương Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), ngày 1-9-1858 16 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản Tàu chiến Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ vào Sài Gòn năm 1859 * Ở bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu GV dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, ngoài kiến thức lịch sử về trận tấn công đồn Cần Giuộc năm 1861, nhằm giúp HS hiểu hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm là hình tượng đám đông bước ra từ thực tế đời sống chứ không còn là hình ảnh ước lệ tượng trưng thì GV nên kết hợp cho HS xem tranh vẽ trận Cần Giuộc, xem hình ảnh về việc xây dựng tượng đài kỉ niệm những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã được khởi công vào năm 2011 như một sự tri ân thành kính đối với những anh hùng vô danh trong lịch sử dân tộc. Hình ảnh minh họa những nghĩa sĩ Hình ảnh Lễ khởi công xây dựng trong trận Cần Giuộc GV: Lê Thị Thu Phương tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc 17 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản * Ở bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm (1746-1803) Tượng đài Quang Trung Lược đồ chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút Phối cảnh Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại núi Bân Lược đồ diễn biến trận đánh Hình ảnh Quang Trung Ngọc Hồi – Đống Đa (Tết Kỷ Dậu -1789) GV: Lê Thị Thu Phương 18 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản GV có thể sử dụng hình ảnh lịch sử trong phần giới thiệu bài học làm tăng sự hứng thú, kích thích sự đón đợi của HS. GV khi giới thiệu hình ảnh cũng cần có sự thuyết minh ngắn gọn để phương pháp trực quan đạt hiệu quả như mong muốn. 4. Liên hệ kiến thức lịch sử trong và ngoài chương trình SGK lịch sử đã học để tạo sự liên kết kiến thức với nội dung bài học đang tìm hiểu Việc liên hệ kiến thức lịch sử trong và ngoài chương trình SGK lịch sử là một biện pháp hiệu quả trong việc đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại và đồng thời khắc sâu thêm kiến thức lịch sử cho HS. Trong phạm vi đề tài này, người thực hiện sẽ gợi ý những địa chỉ tích hợp và nội dung tích hợp. Ở mỗi bài học thì lượng kiến thức liên hệ có thể ít hoặc nhiều. Song cần chú ý rằng, đối với những bài dài cần tiết chế và chọn lọc những kiến thức lịch sử tiểu biểu để phục vụ cho bài học để tránh biến giờ dạy văn học thành một bài dạy lịch sử hoặc phô diễn kiến thức, sự uyên bác của GV. * Bài Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác: Khi học bài Vào phủ chúa Trịnh , HS có thể vận dụng kiến thức lịch sử bài 21“Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII” và bài 23 “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ 18” trong sách giáo khoa lịch sử lớp 10. Nội dung như sau: Trong bài 23, HS có thể vận dụng kiến thức ở mục 3, Nhà nước phong kiến Đàng Ngoài để hiểu hơn về vị trí của nhà Chúa và sự tiếm quyền vua Lê của chúa Trịnh: Năm 1627, cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ, kéo dài đến cuối năm 1672. Không phân thắng bại, hai bên giảng hòa, lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến, chia đất nước làm hai: Đàng Ngoài và Đàng Trong với hai chính quyền riêng biệt. Từ cuối thế kỉ XVI, nhà nước phong kiến Nam Triều chuyển về Thăng Long, được xây dựng lại hoàn chỉnh với danh nghĩa thống trị toàn bộ đất nước, do vua Lê đứng đầu. Tuy nhiên quyền hành của vua Lê không còn như trước, thậm chí bị thu hẹp đến mức chỉ còn là danh nghĩa. Mọi quyền hành đều nằm trong tay người tổng chỉ huy quân đội họ Trịnh, về sau được phong vương (nhân dân quen gọi là “chúa”). Ở Trung ương hình thành hai bộ phận: triều đình và phủ chúa. Chính quyền đứng đầu là vua Lê được tổ chức như cũ nhưng quyền hành bị thu hẹp. Phủ chúa gồm một số quan văn, quan võ cao cấp chuyên cùng chúa bàn bạc, quyết định các chủ trương, chính sách lớn của nhà nước và trực tiếp chỉ đạo việc thức hiện. GV: Lê Thị Thu Phương 19 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Trường THPT Võ Trường Toản HS có thể tham khảo nội dung trong SGK lịch sử nâng cao lớp 10, ở mục 3, Nội chiến Trịnh – Nguyễn và sự phân chia Đàng Trong- Đàng Ngoài; và bài 33 -“Chiến tranh phong kiến và sự chia cắt đất nước” có ghi thêm “Vùng đất từ sông Gianh, lũy Thầy (Quảng Bình) trở ra Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính quyền Lê-Trịnh gọi là Đàng Ngoài. Họ Trịnh xưng vương, lập phủ Chúy, tuy vẫn duy trì triều đình vua Lê, nhưng trên thực tế đã thâu tóm mọi quyền hành trong tay, biến vua Lê thành bù nhìn.” HS cũng nên liên hệ với đời sống nhân dân dưới sự trị vì của Chúa Trịnh để thấy rằng sự ăn chơi sa hoa, lãng phí của nhà Chúa trên sự thống khổ của nhân dân. Đó là một tội ác không thể dung thứ. “Chính sách ruộng đất của họ Trịnh nhằm phục vụ cho quyền lợi của nhà nước phong kiến, giai cấp địa chủ, tầng lớp quan lieu và binh sĩ.Đến đầu thế kỉ XVIII, quỹ đất công còn lại ít. Ngoài vùng Sơn Nam Hạ (vùng Nam Định, Thái Bình) có tương đối nhiều ruộng công, còn các xứ khác, ruộng công chỉ đủ để cung cấp cho quan lại và binh lính. Người nông dân đã bị chiếm đoạt phần ruộng đất tư, lại hết hi vọng ở phần ruộng đất công của làng xã. Trong khi đó, nhà nước LêTrịnh ngày càng tăng cường bóc lột tô thuế, lao dịch, binh dịch đối với nông dân. Nhà nước cũng đồng thời phó mặc cho nông dân các công việc đê điều, thủy lợi, khiến nạn hạn hán, lụt lội, vỡ đê xảy ra liên tiếp. Những nông dân nghèo khổ “không có đất cắm dùi”, phải rời bỏ đồng ruộng, xóm làng đi lang thang kiếm sống ngày càng đông đảo.Từ những năm 30 của thế kỉ XVIII, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt đã đẩy xã hội Đàng Ngoài vào tình trạng suy yếu và khủng hoảng.”(SGK lịch sử 10, nâng cao, trang 184) “Theo một giáo sĩ phương Tây, bấy giờ “gạo đắt như vàng, tình trạng đói khổ bày ra lắm cảnh thương tâm khó tả, xác chết chồng chất lên nhau”” Nếu nhớ lại những kiến thức trên, HS khi tìm hiểu về quang cảnh trong và ngoài phủ chúa sẽ hiểu rằng thì ra để tô điểm cho sự sang trọng, lộng lẫy và để phục vụ cho cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc của nhà chúa, nhân dân lao động đã chịu bao nhiêu nỗi thống khổ, lầm than. Từ đây có thể cảm nhận sâu sắc hơn tâm trạng và thái độ của tác giả Lê Hữu Trác; đồng thời dấy lên trong lòng người đọc sự căm giận đối với triều đình phong kiến mục nát Lê- Trịnh. Cũng trong SGK lịch sử lớp 10, bài 23, Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII có ghi: “Vào giữa thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài khủng hoảng sâu sắc. Phong trào nông dân bùng lên rầm rộ, kéo dài trong hơn 10 năm và bị đàn áp…..Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên ở ấp Tây Sơn (Bình GV: Lê Thị Thu Phương 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan