Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học skkn Tích hợp kiến thức văn học nam định vào dạy học chương trình ngữ văn lớp 10...

Tài liệu skkn Tích hợp kiến thức văn học nam định vào dạy học chương trình ngữ văn lớp 10 trung học phổ thông

.DOC
30
993
72

Mô tả:

PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến Tích hợp kiến thức văn học địa phương vào chương trình ở các cấp học không phải là một vấn đề mới lạ trong quá trình dạy học môn Ngữ văn hiện nay. Mục tiêu của việc tích hợp này là nhằm giúp học sinh tiếp cận, tìm hiểu nền văn học của địa phương, cũng như biết cách vận dụng những kiến thức trong nhà trường với những vấn đề đang được đặt ra cho chính địa phương mình. Đồng thời, việc khai thác, tìm hiểu kiến thức văn học địa phương sẽ góp phần làm phong phú, đa dạng thêm chương trình chính khóa, từ đó giúp học sinh hiểu biết và hòa nhập hơn với môi trường mình đang sống, có ý thức giữ gìn, bảo vệ, phát huy những giá trị văn hóa của quê hương, bồi dưỡng tình yêu, lòng tự hào với quê hương, xứ sở của mình. Đó là những mục tiêu chính đáng và quan trọng trong quá trình giáo dục nhân cách cho học sinh trong giai đoạn xã hội có nhiều những biến động như hiện nay. Tuy nhiên, việc tích hợp kiến thức văn học địa phương vào chương trình, mới chỉ được chú trọng ở cấp trung học cơ sở chứ chưa được chú trọng ở cấp trung học phổ thông, chính vì thế mà chưa tạo ra được sự thống nhất trong chương trình Ngữ văn. Một trong những mục tiêu của môn Ngữ văn là nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học, phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa, với độ tuổi của học sinh ở cấp trung học phổ thông, các em đang trong quá trình hình thành phát triển nhân cách, đã có những nhìn nhận, đánh giá sâu sắc về cuộc sống, văn học, nghệ thuật…các em cần được tìm hiểu về chính quê hương, xứ sở mình trên nhiều lĩnh vực để bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống của quê hương. Cho nên, sẽ là thiếu sót nếu như trong chương trình Ngữ văn cấp trung học phổ thông không đề cập đến mảng văn học địa phương. Nam Định là một trong những trung tâm của vùng Đồng bằng Bắc Bộ, là mảnh đất người xưa đã từng truyền tụng: “ Bắc Kỳ đa sĩ, Nam Định vi ưu”. Bản sắc văn hóa Nam Định không thể tách rời nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, trên mảnh đất này, trải qua những năm tháng thử thách của lịch sử vẫn có những dấu ấn riêng, tạo nên cốt cách của người Nam Định, tạo nên một màu sắc văn hóa riêng, trong đó có nền văn học. Chính những sắc màu riêng của nền văn học địa phương nói chung và của văn học Nam Định nói riêng đã mang tới cho nền văn học dân tộc sự độc đáo, phong phú và đa dạng. Có thể kể ra rất nhiều những thành tựu của văn học Nam Định trong suốt chiều dài lịch sử từ văn học dân gian tới văn học viết, từ những bài ca dao: “ Hỡi cô thắt dải lưng xanh Có về Nam Định với anh thì về Nam Định có bến đò Chè Có nghề dệt lụa, có nghề ươm tơ” tới những truyền kỳ về Điền Quận Công, bà chúa Phùng Ngọc Đài, Cường Bạo Đại Vương, thần Tam Bành đã làm thành “ Thiên Bản lục kỳ” của Nam Định. Đó còn là những tên tuổi của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của thời kỳ văn học trung đại như: nhà sư Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải là lớp người đã đặt nền móng cho nền văn học viết của đất Sơn Nam hạ xưa và Nam Định ngày nay, là Trần Nhân Tông – ông 1 vua thi sĩ, xứng đáng giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử thơ ca dân tộc, đó còn là bậc “ thần thơ, thánh chữ” Trần Tế Xương – một trong những tác giả lớn nhất của văn học Việt Nam… Tất cả những thành tựu văn học nổi bật của Nam Định nói riêng và của tất cả các địa phương trên cả nước nói chung đều đã được đưa vào trong chương trình Ngữ văn các cấp, tuy nhiên nó mới chỉ là sự điểm xuyết, chưa trở thành một hệ thống. Từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giải pháp: “ Tích hợp kiến thức văn học Nam Định vào dạy học chương trình Ngữ văn lớp 10 trung học phổ thông” để giúp học sinh có cơ hội, điều kiện tìm hiểu về nền văn học của quê hương; phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học, bồi dưỡng tình yêu quê hương, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị truyền thống của quê hương; cũng như góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của giải pháp này là tích hợp các kiến thức văn học của tỉnh Nam Định: kiến thức văn học dân gian và văn học trung đại vào quá trình dạy học môn Ngữ văn lớp 10 giúp học sinh được tiếp cận với nền văn học của quê hương. 3. Câu hỏi nghiên cứu - Việc tích hợp kiến thức văn học địa phương vào chương trình Ngữ văn lớp 10 trung học phổ thông đang diễn ra như thế nào? - Giáo viên cần lựa chọn những mảng kiến thức nào trong quá trình tích hợp kiến thức văn học Nam Định vào chương trình Ngữ văn lớp 10? - Hiệu quả của tích hợp kiến thức văn học Nam Định vào dạy học chương trình Ngữ văn lớp 10 trung học phổ thông như thế nào? 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu - Quá trình tích hợp kiến thức văn học Nam Định vào dạy học chương trình Ngữ văn lớp 10. - Học sinh lớp 10 tại trường THPT Nguyễn Khuyến, Nam Định, năm học 2013-2014. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp so sánh, đối chiếu, khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích. - Phương pháp khái quát, hệ thống hóa; nghiên cứu tiếp thu chọn lọc các tài liệu liên quan. 6. Ý nghĩa nghiên cứu - Cung cấp những kiến thức cơ bản về nền văn học tỉnh Nam Định cho học sinh lớp 10 cấp THPT. Bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào về truyền thống văn hóa, văn học của quê hương. - Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo động cơ, hứng thú trong quá trình học tập cho học sinh. Góp phần vào việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong giai đoạn hiện nay. 2 PHẦN 2: NỘI DUNG QUY TRÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP KINH NGHIỆM CỤ THỂ 2.1. Thực trạng ( trước khi tạo ra giải pháp ) 2.1.1. Không nằm ngoài quá trình phát triển của nền văn học dân tộc, văn học Nam Định cũng phát triển mạnh mẽ ở hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian Nam Định xuất hiện trước khi có chữ viết và song song tồn tại với dòng văn học thành văn. Văn học dân gian bao gồm hai bộ phận chính là thơ ca dân gian và văn xuôi dân gian. Dấu ấn của Nam Định thể hiện trong ca dao, tục ngữ không chỉ là những tên làng, tên xã cùng với đặc điểm địa lý, tự nhiên của vùng miền đó, mà còn là những phương ngôn về những đặc sản, sản vật, nghề nghiệp, tính cách con người qua cách nhìn, cách phác họa dân gian của một làng quê Nam Định. Đối với văn xuôi dân gian Nam Định thì khá nhiều và phong phú, mang tính địa phương hơn tục ngữ, ca dao bởi gắn liền với những nhân vật, sự kiện, địa danh cụ thể. Một bộ phận không nhỏ của văn xuôi dân gian Nam Định là sự tích của nhiều dòng họ. Trước khi được cố định, hay văn bản hóa trong các tộc phả, gia phả, bia ký của các dòng họ, sự tích hay những mẩu chuyện, ký ức về cội nguồn dòng họ sẽ được truyền ngôn từ đời này, sang đời khác. Có thể nhắc tới các sự tích như: Sự tích dòng họ Ngô Bách Tính ở Nam Trực, họ Ngô làng Thi ở xã Xuân Hy – Xuân Trường, rồi sự tích các ông tổ lập làng Quần Anh ở Hải Hậu, dòng họ Vũ ở Hoành Nha – Giao Thủy, chuyện khai hoang lập làng của dòng họ Phạm ở Hoàng Nam – Nghĩa Hưng. Một đặc điểm nổi bật nữa trong văn xuôi dân gian Nam Định đó là giai thoại về các danh nhân. Hầu như bất kỳ một nhận vật nổi tiếng nào trong lịch sử của vùng đất Nam Định cũng đều có giai thoại. Những giai thoại về Nguyễn Hiền, Đào Sư Tích, Lương Thế Vinh, Phạm Văn Nghị, Trần Bích San, Vũ Hữu Lợi, Tú Xương, Nguyễn Bính… đã trở thành những giai thoại hay nhất của Việt Nam. Văn học viết Nam Định bắt đầu phát triển từ thế kỷ XI kéo dài cho đến tận ngày hôm nay. Có thể nhận thấy những giai đoạn phát triển rực rỡ của văn học Nam Định là: văn học dưới thời nhà Lý ( từ thế kỷ XI đến thế kỷ XII ); văn học dưới thời nhà Trần ( từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV); và đặc biệt là giai đoạn 3 văn học ở thế kỷ XIX – thời kỳ nở rộ của văn học Nam Định với trên 40 tác giả và hàng nghìn tác phẩm ở nhiều thể loại xuất hiện, đã khiến Nam Định trở thành một trong những trung tâm lớn của văn chương nước nhà. Có thể thấy, cũng giống như nền văn học dân tộc, nền văn học Nam Định cũng luôn có sự tác động qua lại giữa hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết. Kho tàng văn học dân gian với dòng chảy mênh mang, vô tận, thấm đượm chất trữ tình của tục ngữ ca dao đã góp phần bồi đắp cho tâm hồn và tài năng của nhiều thế hệ các nhà thơ, nhà văn Nam Định. Không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ trữ tình, thấm đượm phong cách dân ca, ca dao, đượm hương đồng gió nội thuộc loại hay nhất trong Văn học Việt Nam lại được nảy sinh từ mảnh đất Nam Định, từ những nhà thơ – những người con ưu tú của quê hương Nam Định như: Nguyễn Bính, Trần Tuấn Khải, Đoàn Văn Cừ… 2.1.2. Có thể thấy, tích hợp kiến thức văn học địa phương vào dạy học trong chương trình Ngữ văn các cấp là rất cần thiết, thế nhưng việc làm đó đang gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn đầu tiên là sự phân bố, sắp xếp chương trình chưa đồng đều. Chúng ta mới chỉ thấy có sự phân bố thời lượng cho chương trình văn học địa phương ở cấp trung học cơ sở mà chưa có ở chương trình Ngữ văn cấp trung học phổ thông, cụ thể: lớp 6 có 4 tiết ( tiết 69, 70 ở HK I, tiết 139, 140 ở HK II); lớp 7 có 6 tiết ( tiết 70 ở HK I, tiết 74, 133, 134, 137, 138 ở HK II); lớp 8 có 5 tiết ( tiết 31, 52 ở HK I, tiết 92, 121, 137 ở HK II); lớp 9 có 5 tiết ( tiết 42, 63 ở HK I, tiết 101, 133, 143 ở HK II). Không chỉ thế, đối với chương trình văn học địa phương ở cấp trung học cơ sở cũng gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình dạy học như về tư liệu hỗ trợ giảng dạy, các điều kiện để tổ chức các hoạt động ngoại khóa,… cho nên phần lớn thời lượng dạy học chương trình văn học địa phương vẫn chỉ tập trung vào phần Tiếng Việt ( sửa lỗi chính tả, phát âm… cho học sinh) mà chưa chú ý đến phần Văn học của địa phương. Tuy rằng Bộ GD-ĐT cũng đã có hướng dẫn thực hiện “ Phần văn học địa phương, nếu chưa hoặc không có văn bản đáp ứng, có thể sử dụng cho hoạt động ngoại khóa, tham quan quê nhà văn hoặc gặp gỡ các văn nghệ sĩ ở địa phương, gặp gỡ Hội văn nghệ…” ( Theo Phân phối chương trình THCS môn Ngữ văn – Phần Hướng dẫn thực hiện – T.34), song dường như mảng văn học địa phương vẫn còn rất mơ hồ, như một “mảng trống chưa được lấp đầy” đối với chương trình, với giáo viên và cả với học sinh. Khó khăn đó không chỉ thấy ở cấp trung học cơ sở mà chúng ta còn thấy rõ hơn ở cả cấp trung học phổ thông. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10, 11, 12 không có thời lượng dành cho văn học địa phương, càng không có một tài liệu hướng dẫn nào đối với mảng kiến thức này. Nếu muốn thực hiện, giáo viên phải tự mình tìm hiểu tài liệu, xây dựng thành các chuyên đề, các buổi hoạt động ngoại khóa… cho học sinh. Nhưng không phải giáo viên nào, nhà trường nào cũng có điều kiện thiết kế và tổ chức các buổi học theo chuyên đề hay các buổi hoạt động ngoại khóa và càng khó có thể đưa hoạt động tìm hiểu văn học địa phương trở thành một hoạt động thường niên trong quá trình dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường. Vấn đề dạy học văn học địa phương của tỉnh Nam Định cũng đang đối mặt với những khó khăn đó. Chúng ta chưa có điều kiện để sưu tầm, biên soạn chương trình, nội dung cụ thể, phù hợp để phục vụ công tác giảng dạy. Ngay với mảng văn học dân gian, chúng ta cũng chưa thể đánh giá được hết trữ lượng của thơ ca dân gian Nam Định. Trước đây, cũng đã có một vài công trình sưu tầm, giới thiệu về tục ngữ, ca dao vùng 4 Nam Định, song về cơ bản cho đến năm 2002 chưa có một đợt tổng điều tra, sưu tầm toàn diện, đầy đủ. Cho nên sẽ là vô cùng khó khăn cho giáo viên khi muốn đưa mảng văn học địa phương tỉnh nhà vào tích hợp trong quá trình dạy học môn Ngữ văn. Vì thế mà, với cấp trung học cơ sở có nhiều nơi, nhiều trường mảng văn học địa phương chỉ được thực hiện một cách miễn cưỡng, chiếu lệ, còn với cấp trung học phổ thông thì đó lại càng là một sự “ ảo tưởng”, dẫn tới sự hiểu biết về các thành tựu văn học của quê hương của học sinh rất bập bõm, ngay cả những bài ca dao về chính nơi “ chôn rau cắt rốn” của mình hầu như học sinh cũng không hề biết, hay những truyền thuyết, sự tích, những danh nhân, những nhà thơ nhà văn nổi tiếng của quê hương học sinh cũng chẳng hề hay. Học sinh đang ngày càng xa lạ với chính những thể loại văn học đặc sắc của tỉnh nhà như: chèo, cải lương; ngày càng thờ ơ với chính những giá trị truyền thống của quê hương mình. Điều đó, đặt ra cho chúng ta – mỗi người giáo viên Ngữ văn, những người góp phần vào việc lưu giữ và truyền bá những giá trị văn học đặc sắc của tỉnh nhà, một thử thách lớn: làm thế nào để tích hợp kiến thức văn học địa phương vào quá trình dạy học môn Ngữ văn ở các cấp học từ tiểu học tới trung học cơ sở, trung học phổ thông ? 2.2. Các giải pháp Từ việc tìm hiểu chương trình Ngữ văn lớp 10 trung học phổ thông và khái quát về nền văn học Nam Định, chúng tôi nhận thấy bên cạnh những đặc điểm chung, văn học Nam Định vẫn mang những dấu ấn, những nét độc đáo riêng. Trên cơ sở học sinh đã được tìm hiểu về nền văn học dân tộc, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu nền văn học Nam Định qua các chuyên đề để giúp học sinh tích cực, chủ động trong quá trình học tập, cũng như tạo cơ hội cho học sinh được tiếp cận, nắm rõ về quá trình phát triển, những thành tựu đặc sắc của nền văn học quê hương, bồi dưỡng tình yêu quê hương, niềm tự hào về những truyền thống văn học của quê hương. Chương trình Ngữ văn lớp 10, tập trung cả vào hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết vì thế mỗi bộ phận văn học, chúng tôi xây dựng thành các chuyên đề và tổ chức cho học sinh làm việc theo các nhóm. Căn cứ vào chương trình chính khóa, ở bộ phận dân gian chúng tôi thấy có thể đưa ra các chuyên đề sau: Tìm hiểu thơ ca dân gian Nam Định, Các truyền thuyết và sự tích về các dòng họ ở Nam Định, Vài nét về chèo Nam Định và trích đoạn chèo “ Thần đồng đất Việt”, Tìm hiểu giai thoại dân gian Nam Định… Đối với bộ phận văn học viết, chương trình Ngữ văn lớp 10 mới chỉ dừng lại ở mảng văn học trung đại ( từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỉ XIX ) cho nên chúng tôi thấy có thể đưa ra các chuyên đề sau: Vài nét về văn học Nam Định dưới thời Lý, Văn học Nam Định dưới triều đại nhà Trần, Trần Nhân Tông – ông Vua thi sĩ của triều Trần….Đó là những chuyên đề có thể đưa vào để giúp học sinh tiếp cận với nền văn học của quê hương. Tuy nhiên, để xây dựng được hệ thống các chuyên đề đó, cũng như để có thể lồng ghép với chương trình chính khóa trong quá trình dạy học môn Ngữ văn lớp 10 tại các nhà trường một cách thường xuyên, thì đòi hỏi phải có thời gian. Trong phạm vi nghiên cứu của giải pháp này, tôi xin đưa ra mô hình dạy học của một vài chuyên đề sau: Chuyên đề 01: Vài nét khái quát về văn học dân gian Nam Định Chuyên đề 02: Vài nét về chèo Nam Định và trích đoạn chèo “Thần đồng đất Việt” Chuyên đề 03: Vài nét về văn học Nam Định dưới triều nhà Lý – Trần 5 Cả ba chuyên đề trên đã được đưa vào dạy thực nghiệm ở khối lớp 10 tại trường THPT Nguyễn Khuyến thành phố Nam Định. Để minh họa cho quá trình dạy thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành quay video giờ học của chuyên đề thứ 02: Vài nét về chèo Nam Định và trích đoạn chèo “Thần đồng đất Việt” và nộp kèm theo bản sáng kiến kinh nghiệm. Sau đây là phần thiết kế giáo án thực nghiệm theo từng chuyên đề: Chuyên đề 01: Vài nét khái quát về văn học dân gian Nam Định A.Mục tiêu bài học. Giúp học sinh: - Về kiến thức: Có thêm hiểu biết về văn học dân gian của quê hương. - Về kỹ năng: Biết cách tiếp cận và tìm hiểu các thể loại văn học dân gian của quê hương qua đặc trưng từng thể loại. - Về thái độ: Hiểu được những giá trị to lớn của văn học dân gian quê hương, tâm hồn của người dân lao động quê mình từ đó có thái độ trân trọng đối với di sản văn học của quê hương, yêu quý người dân lao động cũng như những sáng tác của họ. B.Đối tượng và thời lượng dạy học - Đối tượng: Học sinh lớp 10 Ban cơ bản - Thời lượng: 135 phút C.Nội dung dạy học. Tập trung vào 02 mảng: - Thơ ca dân gian Nam Định qua các bài ca dao, tục ngữ - Văn xuôi dân gian Nam Định qua các truyền thuyết, sự tích. D.Phương pháp, phương tiện dạy học - Phương pháp: Dự án, thuyết trình, vấn đáp, làm việc theo nhóm. - Phương tiện: Máy chiếu, mạng Internet, các tài liệu tham khảo. E.Chuẩn bị bài trước khi lên lớp - Giáo viên: Thiết kế bài học. Chia lớp thành 10 nhóm, tương ứng với 09 huyện và 01 thành phố của Nam Định, mỗi nhóm từ 4 đến 5 học sinh; cử nhóm trưởng và giao nhiệm vụ: + Tìm hiểu khái quát văn học dân gian Nam Định. + Sưu tầm các tác phẩm văn học dân gian nói về vùng, miền mà nhóm phụ trách. - Học sinh: Tích cực, chủ động làm việc theo các nhóm, tìm hiểu về văn học dân gan Nam Định, sưu tầm các tác phẩm văn học dân gian Nam Định theo từng thể loại: cao dao, truyền thuyết, sự tích. F.Tiến trình tổ chức dạy học 1.Giới thiệu vào bài mới: Giáo viên chiếu một đoạn clip ngắn về Nam Định và dẫn vào bài 2.Bài mới 6 Hoạt động 1. Giới thiệu khái quát về văn học dân gian Nam Định Học sinh: Đại diện 1 nhóm trình bày. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Giáo viên chốt lại kiến thức: -Văn học dân gian Nam Định là một bộ phận trong dòng văn học dân gian Việt Nam, xuất hiện trước khi có chữ viết và song song tồn tại cùng với văn học thành văn. -Văn học dân gian Nam Định bao gồm ba bộ phận chính: thơ ca dân gian, văn xuôi dân gian và sân khấu dân gian. *Thơ ca dân gian Nam Định: Gồm 02 thể loại chính là tục ngữ và ca dao, có thể được chia thành các nhóm sau: + Về địa danh từng vùng + Về nghề nghiệp + Về đặc sản, sản vật + Về dòng họ + Về chợ búa, hội hè + Về trang phục * Văn xuôi dân gian Nam Định: Gồm 02 thể loại chính là truyền thuyết, sự tích; có thể được chia thành các nhóm sau: + Về các nhân vật, sự kiện, địa danh + Về các dòng họ -Văn học dân gian Nam Định vẫn tiếp tục phát triển cho đến ngày hôm nay, và tác động không nhỏ tới nền văn học viết của Nam Định. Văn học dân gian Nam Định đã góp phần bồi đắp tâm hồn, tài năng cho nhiều các thế hệ các nhà thơ, nhà văn Nam Định như: Trần Tế Xương, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ… * Sân khấu dân gian Nam Định: - Nam Định là một trong những chiếc nôi của chiếu chèo vùng Sơn Nam hạ. Hoạt động theo kiểu phường và gánh. + Phường là bán chuyên, mỗi năm chỉ biểu diễn có 2 mùa xuân thu nhị kỳ. Nam Định có các phường nổi tiếng là phường chèo xã Yên Nhân, Yên Phong (Ý Yên), phường chèo xã Hải Châu (Hải Hậu), phường Mỹ Hà (Mỹ Lộc), Giao Hà (Xuân Thuỷ). + Gánh chèo: có tính chuyên nghiệp, hát ở các đình đám, hội hè... hết mùa đình đám thì đi hát ở các rạp trong tỉnh. Nổi tiếng ở Nam Định là gánh hát chèo của cụ Trùm Khúc. + Phường chèo và gánh chèo thường diễn những tích cổ có sẵn như: "Quan Âm thị Kính", "Lưu Bình Dương Lễ", "Xuý Vân giả dại", "Đôi ngọc lưu ly"... Mỗi phường, mỗi gánh tuỳ từng nơi diễn trong các lớp hề họ có lối "cương" sáng tạo riêng để hợp với từng nơi diễn. -Bên cạnh đó sân khấu dân gian Nam Định còn có múa rối nước. Nổi bật là rối nước Nam Chấn (huyện Nam Trực), múa rối cạn chùa Bi, chùa Cổ Lễ, chùa Keo ở Hành Thiện. 7 Hoạt động 2. Tìm hiểu về thơ ca dân gian Nam Định *Các câu tục ngữ, ca dao về các địa danh ở Nam Định Giáo viên đưa ra các bài tập cho học sinh thực hiện. Học sinh làm việc theo nhóm. Mỗi nhóm đưa ra phương án trả lời riêng Giáo viên đưa ra đáp án. Bài 1. Tìm các địa danh ở Nam Định và điền vào chỗ trống trong các câu tục ngữ, ca dao sau cho phù hợp. a.…………..thất Cổ, ……lục Hoành f.Chợ ……một tháng sáu phiên Gặp cô hàng xén, kết duyên bán hàng Hàng cô cánh kiển vỏ vang Giây thau giây thép giây đàn lưỡi câu Gương soi với lược chải đầu Hòn son bánh mục gượng Tàu bày ra Đèn nhang sắp để trong nhà Giấy tiền vàng bạc đem ra bày hàng g.……….rút kén, ươm tơ Chợ trâu ….., bánh đa làng …. b.………….. thất Cổ, ……cửu A c. Đông Cồn …., Cồn….. Tây núi …, Thần …. d. Hỡi cô thắt dải lưng xanh Có về …… ……với anh thì về ……… có bến …………….. Có nghề dệt lụa, có nghề ươm tơ e. Thuyền ngược hay là thuyền xuôi Thuyền về…… .cho tôi về nhờ Con gái chỉ nói ỡm ờ Thuyền anh chật chội còn nhờ làm sao Miệng anh nói, tay anh bẻ lái vào Rửa chân cho sạch, bước vào trong khoang Thuyền dọc anh trải chiếu ngang Anh thì nằm giữa, hai nàng nằm bên Đáp án: a. Nam Chân, Giao Thủy b. Nam Chân, Hải Hậu h.………..có tiếng từ xưa Biển đình Phong Lạc, bia chùa Phúc Lâm Khách về khách vẫn hỏi thăm Nước chè cầu ngói, tơ tằm chợ Lương Nam Chân tức là Nam Trực ngày nay. Thời Bắc thuộc, Nam Trực được gọi là Tây Chân, thời Lê Trung Hưng được đổi thành Nam Chân. Cổ, Hoành, An là những chữ đầu tiên trong tên các xã của các huyện Nam Chân, Giao Thủy, Hải Hậu. c. Cồn Quay, Cồn Bẹ, núi Nẹ, Thần Phù. Năm 1511, vua Lê Tương Dực (1509-1516) phê chuẩn Quần Cường ấp thành xã Quần Anh: phía Đông là Cồn Quay, Cồn Bẹ (nay thuộc xã Hải Thanh và thôn Xuân Hà xã Hải Đông), phía Tây là Núi Nẹ, Thần Phù (nay nằm ngoài khơi huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình), phía Bắc giáp Đại Hà (sông lớn-sông Ninh Cơ), phía Nam vươn ra biển ở độ sâu 18 sải nước. Từ đây Quần Anh có tên trên bản đồ quốc gia.. Ngày 27/12/1888 (Nguyễn Đồng Khánh thứ 3, năm Quý Mùi) Kinh Lược Bắc Kỳ ra quyết định, được Tổng Trú sứ Trung-Bắc kỳ chuẩn y thành lập huyện Hải Hậu. d. Nam Định, đò Chè ( thuộc thành phố Nam Định ) e. Nam Định f. Vị Hoàng ( thành phố Nam Định ) g. Bình Lãng ( Nghĩa Thắng, Nghĩa Hưng ), Quỹ Nhất ( Nghĩa Hòa, Nghĩa Hưng), Vò ( Yên Phúc, Ý Yên ). h. Quần Anh ( Hải Hậu ngày nay) 8 Bài 2: Hãy cho biết những tên gọi được in đậm trong những bài ca dao sau thuộc nơi nào của tỉnh Nam Định? a. Em là con gái Phù Long Quê em Cồn Vịt, lấy chồng Vườn Dâu. b. Dù đi buôn đâu, bán đâu Cũng về giữ đất trồng dâu chăn tằm Anh đi anh nhớ non Côi Nhớ sông Vị Thủy, nhớ người tình xưa. c. Hương Cát mặc áo bồ nâu Văn Lãng phong thanh áo dài. Đáp án. a. Phù Long : Làng xưa thuộc đất Vị Hoàng, phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định. Cồn Vịt, Vườn Dâu: là những xóm nhỏ của Phù Long b. Non Côi: Núi Gôi, huyện Vụ Bản, Nam Định. Vị Thủy là sông Vị Hoàng – một nhánh nhỏ của sông Hồng chảy qua thành phố Nam Định nhưng đã bị lấp đi. c. Hương Cát: thuộc thị trấn Cát Thành, Văn Lãng thuộc xã Trực Tuấn – Trực Ninh * Các bài ca dao nói về nghề nghiệp, đặc trưng của từng vùng Giáo viên đưa ra bài tập cho học sinh. Học sinh làm việc theo nhóm ( theo 10 nhóm đã phân chia ở trên) Nhóm 1: Thành phố Nam Định; Nhóm 2: Huyện Mỹ Lộc Nhóm 3: Huyện Ý Yên Nhóm 5: Huyện Trực Ninh Nhóm 4: Huyện Nam Trực Nhóm 6: Huyện Nghĩa Hưng Nhóm 7: Huyện Hải Hậu Nhóm 8: Huyện Giao Thủy Nhóm 9: Huyện Xuân Trường Nhóm 10: Huyện Vụ Bản Bài 3: Hãy tìm những bài ca dao, những câu phương ngôn về vùng miền mà nhóm anh ( chị ) phụ trách. Từng nhóm đưa ra câu trả lời của nhóm mình. Các nhóm thảo luận với nhau. Giáo viên có thể bổ sung cho học sinh một số bài ca dao sau: 1.Làng Vân lò rèn 11.Ba năm vua mở khoa thi Làng Sen go khổ Đệ nhất thì hát, Đệ nhì thì bơi 2.Trời mưa cho ướt lá dâu. Đệ tam thì đánh cờ người Lấy chồng Hành Thiện, chẳng giàu cũng sang Phương Bông, Đệ Tứ mùng mười tháng ba. 3.Hay đan trại Cối 12.Cao Đài thì đóng cối xay Múa rối làng Tè Dần, sàng, rổ, rá về ngay Vạn Đồn 9 Rè rè Liên Tỉnh Làng Vọc bánh đúc, bánh tròn, 4.Hoành Nha họ Vũ Làng Xá bắt ốc đi mòn đôi chân Trà Lũ họ Trần Làng Nguộn làm bút, làm cân 5.Văn quan Phủ Làng La dệt vải tinh quân mọi nghề. Phú quan Nghè 13.Hương Cát mặc áo bồ nâu Kinh nghĩa chỉ huy là quan Hoàng giáp. Hàng sào Cát Chử bụi đầu ai kêu 6.Đậu phụ Thuỷ Nhai, Tú tài Hành Thiện… Văn Lãng đội vạt áo dài 7.Bỏ con bỏ cháu, không bỏ hai mươi sáu chợ Ninh. Ruộng nương cũng lắm đi hai ba ngày Bỏ tổ bỏ tiên không ai bỏ chợ Viềng mồng tám Nam Lạng lắm chiếu lắm đây 8.Tháng Giêng gà gáy cơm đèn An Quần xe vẹt, xe đay suốt ngày Chị em sớm sửa đồng tiền rong chơi Lịch Đông thì lắm buôn thay Tháng hai về đồng Yên Hoà Xối Đông đống đất tày tày lắm nghê Tháng ba kiếm củi gánh ra chợ Dần Trung Lao đan thúng ngồi lê Tháng tư cắt lúa tám xuân Hạ Đồng đan lưới, đan te cả ngày Tháng năm cắt rạ ngày ăn quan tiền Mấy làng phong tục cũng hay Tháng sáu lúa rải thấp tho Xung quanh những nước non này từ xưa… Kiếm dăm ba thúng ăn cho nở nồi 14.Ngày một, ngày bảy chợ Lương, Tháng bảy xới lúa rong chơi Hai, sáu Ninh Cường, năm, chín Đông Biên Tháng tam cắt là bán nơi chợ Gà Cồn Chàm mười bốn là phiên Tháng chín phủ Khoái, Thanh Hà Ba, tám chợ Đền thêm chợ Xã Trung Nghe đồn có lúa em ra kiếm tiền Chợ Đình buổi sớm họp đông Từ rày đã sang tháng mười Nửa buổi phe Sáu, bên sông chợ Dâu Đi đập lang sớm trồng chơi vài sào Lẻ chợ Cồn Cốc, chẵn âu Đông Cường. Tháng một mạ đã xanh xao 15.Trình Xuyên, Cốc Gạo, Dương Lai Trong bụng náo nức trở vào cấy chiêm Áo nái mặc ngoài, áo vải mặc trong Tháng chạp cá mánh kiếm tiền… Khoe ra vẻ thúy sắc nồng 9.Mồng một chơi cửa, chơi nhà 16.Xanh mắt là chị hàng na Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình Mặn mà hàng chuối, ngọt hoa hàng đường Mồng bốn chơi chợ Quả Linh 17.Tiền thì trong túi rỗng không Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Côi Muốn ăn thuốc Ngữ ba đồng một hoa Qua ngày mùng bảy nghỉ ngơi 18.Điếu này mua ở tỉnh Đông Bước sang mồng tám, đi chơi chợ Viềng Em nay là gái má hồng tỉnh Nam Chợ Viềng một năm mới có một phiên Đồn vui em mới đi làm Cái nón em đội cũng tiền anh mua. May sao lại được gặp chàng ở đây 10. Chợ Vị Hoàng một tháng sáu phiên Mời chàng xơi điếu thuốc này Gặp cô hàng xén kết nhân duyên cho rồi Ăn rồi tỉnh tỉnh, say say mặc lòng Gánh hàng cô những quế hồi Hai tay bưng điếu chín rồng 10 Có mẹt bồ kết, có nồi phèn chua Mời chàng xơi thuốc về phòng kẻo khuya Hương thơm xếp để trong bồ 19. Miền Đông thì được hoa màu Trần bì cam thảo, sài hồ hoàng liên Miền Chài tôm cá, miền Cầu cửu canh Hàng cô đáng giá bao tiền Mở chợ buôn bán thông hành Để ta chung vốn, góp tiền buôn chung Miền Cuối may vá, tập tành xưa nay. Buôn chung ta lại bán chung 20. Chuối tiêu, chuối ngự ngồi vành bờ sông Được bao nhiêu lãi, ta cùng chia nhau. Hàng gốm, hàng nón lều trong. 21. Mộc tượng xã Trung Tài phùng xã Thượng Nề tượng Phương Đề Hoạt động 3: Tìm hiểu về văn xuôi dân gian Nam Định Giáo viên ra bài tập cho học sinh Học sinh làm việc theo nhóm đã phân chia, đưa ra phương án trả lời. Giáo viên nhận xét, chốt lại kiến thức Bài tập 4. Kể tên những truyền thuyết, sự tích dân gian Nam Định mà em biết. Chọn và kể một truyền thuyết, sự tích dân gian Nam Định. Đáp án: 1. Những truyền thuyết, sự tích dân gian Nam Định: - Truyền thuyết: về Đức thánh Minh Không, về Kiến quốc phu nhân Lương Minh Nguyệt, về Mẫu Liễu, về Điền Quận Công, Cường Bạo Đại Vương, bà chúa Phùng Ngọc Đài, thần Tam Bành… - Sự tích: Sự tích dòng họ Ngô Bách Tính (Nam Trực), họ Ngô ở làng Thi (Xuân Hy - Xuân Trường), sự tích các ông tổ lập làng Quần Anh (Hải Hậu), dòng họ Vũ (Hoành Nha- Giao Thuỷ), chuyện khai hoang lập làng của dòng họ Phạm ở Hoàng Nam (Nghĩa Hưng)... 2. Chọn và kể: Truyền thuyết về Mẫu Liễu: *Giáng trần lần thứ 1: Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định). Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga. Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình. Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẫu thân của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng ( nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga ). Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên 11 mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện ( lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi ). Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi ( nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung ). Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dậy dỗ con em nhà nghèo được học hành. Năm 36 tuổi, Bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ. Sau đó hai năm, Bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn xá - Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán , lập ra làng xã, dậy dân trồng dâu, nuôi tằm , dệt vải. Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), Bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy, Bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế ( nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái. Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, Bà đã hoá thần về trời. Năm đó Bà vừa tròn 40 tuổi. Ngay sau khi Bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, Đồng thời quê mẹ của Người là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của Thánh Mẫu gọi là Phủ Quảng Cung. *Giáng sinh lần thứ hai, truyền thuyết kể rằng: Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), Phạm Tiên Nga lại giáng sinh lần thứ 2 tại thôn Vân Cát xã An Thái, huyện Thiên Bản (nay là Kim Thái, Vụ Bản , Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế chừng 7 km). Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào, sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 20 tuổi. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương - Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản , Nam Định. Hoạt động 4. Củng cố, nâng cao bài học Giáo viên đưa ra câu hỏi, học sinh suy nghĩ, trao đổi, trả lời để củng cố, nâng cao bài học. Câu hỏi: Theo em, những thành tựu và hạn chế của văn học dân gian Nam Định là gì? Giáo viên chốt lại: - Thành tựu: Đa dạng, phong phú về thể loại. Thể hiện được những đặc trưng riêng của từng vùng, miền, quê hương. Góp phần làm phong phú cho mảng văn học dân gian dân tộc, tác động sâu sắc đến văn học viết của Nam Định nói riêng và của dân tộc nói chung. - Hạn chế: Thiên về truyền tải những đặc trưng của từng vùng miền, chưa chú ý tới giá trị nghệ thuật. Chuyên đề 02: Vài nét về chèo Nam Định và trích đoạn “Thần đồng đất Việt” ( Chuyên đề này có video minh họa kèm theo sáng kiến ) 12 A.Mục tiêu bài học: Giúp HS - Về kiến thức: + Củng cố các kiến thức cơ bản về văn học dân gian: thể loại chèo cổ Việt Nam; về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ,… Nắm được những kiến thức cơ bản về nghệ thuật chèo Nam Định: quá trình hình thành, phát triển; các làng chèo nổi tiếng; các đặc trưng cơ bản; thành tựu đã đạt được; các vở diễn và diễn viên, nghệ sỹ tiêu biểu cho nghệ thuật chèo Nam Định. + Nắm được các kiến thức cơ bản về tác giả Trần Đình Ngôn, vở chèo“ Thần đồng đất Việt”. Nắm được những nét chính về cuộc đời, con người Trạng nguyên Nguyễn Hiền – Trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong lịch sử Việt Nam. Nắm được những nét chính về nghệ thuật hát chèo, diễn chèo trên sân khấu. - Về kĩ năng: Rèn cho học sinh các kỹ năng sau: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Kỹ năng tích hợp các kiến thức trong quá trình học tập. Kỹ năng thuyết trình, giải quyết các vấn đề, làm việc nhóm. Kỹ năng đọc hiểu một trích đoạn chèo theo đặc trưng thể loại. Kỹ năng biểu diễn kịch, chèo trên sân khấu. - Về thái độ: Bồi dưỡng cho học sinh: Tình yêu với nghệ thuật chèo Việt Nam nói chung và nghệ thuật chèo Nam Định nói riêng. Niềm tự hào với truyền thống văn hóa, lịch sử của đất nước, quê hương. Ý chí, nghị lực để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống hiếu học của quê hương Nam Định. B. Nội dung dạy học - Vài nét về nghệ thuật chèo Nam Định: Quá trình hình thành, phát triển, các vở chèo tiêu biểu, chân dung các nghệ sỹ tiêu biểu. - Vở chèo Thần đồng đất Việt: Giới thiệu tác giả Trần Đình Ngôn, giới thiệu sơ lược về vở chèo Thần đồng đất Việt: thể loại, hoàn cảnh sáng tác, bố cục, nội dung, giới thiệu về Trạng nguyên Nguyễn Hiền. - Trích đoạn Thần đồng đất Việt : Tìm hiểu ngôn ngữ kịch bản qua ngôn ngữ của nhân vật, tìm hiểu sự chuyển hóa từ ngôn ngữ kịch bản sang ngôn ngữ sân khấu. - Minh họa trích đoạn Thần đồng đất Việt do học sinh nhập vai biểu diễn. C. Phương tiện, phương pháp dạy học - Phương pháp dạy học: kết hợp linh hoạt các phương pháp: thuyết trình, vấn đáp, làm việc nhóm, nêu vấn đề, nghiên cứu tài liệu. - Phương tiện dạy học: Kịch bản văn học, đĩa chèo “ Thần đồng đất Việt”, máy tính, máy chiếu, loa vi tính, giấy Ao,…, các tranh ảnh minh họa, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy và học của dự án: Sử dụng mạng Internet tìm các tư liệu liên quan đến bài học: nghệ thuật chèo, quá trình phát triển của nghệ thuật chèo Nam Định, tác giả văn học Trần Đình Ngôn, Trạng nguyên Nguyễn Hiền... D. Chuẩn bị bài trước khi lên lớp - Giáo viên: Tìm tư liệu: kịch bản, đĩa chèo, sau đó chuyển kịch bản và giao vấn đề cho học sinh theo nhóm, hướng dẫn cách tổ chức làm việc cho học sinh ( mỗi vấn đề có 02 nhóm cùng tìm hiểu để đối chứng với nhau). Cụ thể như sau: Chia lớp (44 học sinh) thành 08 nhóm, mỗi nhóm từ 5 đến 6 em: 13 + Nhóm 1,2: Tìm hiểu về quá trình hình thành, phát triển của nghệ thuật chèo Nam Định. + Nhóm 3,4: Tìm hiểu về tác giả Trần Đình Ngôn. + Nhóm 5,6: Tìm hiểu về vở chèo Thần đồng đất Việt. + Nhóm 7,8: Tìm hiểu về Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Ngoài những kiến thức về các vấn đề đã tìm hiểu, yêu cầu có thêm tranh ảnh để minh họa. Khuyến khích các học sinh nhập vai nhân vật để diễn lại một trích đoạn ngắn trong vở chèo - Học sinh tích cực, chủ động làm việc theo nhóm, theo các vấn đề mà nhóm mình phụ trách. E. Tiến trình lên lớp 1. Kiểm tra khâu chuẩn bị bài của học sinh: 2. Lời dẫn vào bài: GV: Có thể nói, xem chèo, nghe hát chèo và diễn chèo từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần của cha ông ta tự ngàn đời xưa: “ Ăn no rồi lại nằm khèo Nghe giục trống chèo, bế bụng đi xem Chẳng thèm ăn chả, ăn nem Thèm ăn cơm tẻ, thèm xem hát chèo” Và ngay trong những vần thơ của mình, Nguyễn Bính cũng đã viết: “ Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay” Nhà thơ đã nhắc đến địa danh: Thôn Đoài, làng Đặng trong thơ mình. Em nào có thể cho cô biết: làng Đặng mà tác giả nhắc đến trong bốn câu thơ trên là ở đâu? Và vì sao, Nguyễn Bính lại nhắc đến địa danh đó? HS: Làng Đặng là làng Đặng Xá ( Mỹ Hà, Mỹ Lộc), là một trong những làng chèo nổi tiếng của Nam Định chúng ta. GV: Em nào có thể kể tên những nhà hát chèo, những đoàn chèo nổi tiếng của Việt Nam? HS: trả lời ( có thể đúng hoặc sai ) GV: Chiếu slide 1 về các nhà hát chèo và các đoàn chèo Việt Nam. Khẳng định vị trí của nhà hát chèo Nam Định, và nghệ thuật chèo Nam Định Trong giờ trước, chúng ta đã được tìm hiểu về đoạn trích “ Xúy Vân giả dại”, hôm nay cô trò chúng ta sẽ trở về với mảnh đất - quê hương Nam Định để tìm hiểu nét đẹp văn hóa đặc sắc – nghệ thuật chèo Nam Định và trích đoạn Thần đồng đất Việt. 3.Bài mới Hoạt động 1: Tìm hiểu vài nét về chèo Nam Định GV: Gọi đại diện nhóm 2 trình bày. Nhóm 1 nhận xét, bổ sung GV chốt lại, nhấn mạnh các ý I. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển 14 1. Những mốc sự kiện tiêu biểu - 1959 Thành lập” Đội văn công nhân dân Nam Định”. Ông Nguyễn Kinh Luân-đội trưởng - 1998: Sở văn hóa thông tin quyết định thành lập thành hình thức Chiếu chèo Nam - 2006: Nâng cấp thành Nhà hát chèo Nam Định 2. Các làng chèo nổi tiếng : Làng chèo ở huyện Mỹ Lộc. Làng chèo ở huyện Giao Thủy. Làng chèo ở huyện Ý Yên. Làng chèo ở huyện Hải Hậu 3. Các vở chèo tiêu biểu - Chèo cổ: Lưu Bình – Dương Lễ, Quan Âm thị kính, Tấm Cám, Tống Trân – Cúc Hoa... - Các vở chèo lịch sử: Trần Anh Tông, Trạng Lường Lương Thế Vinh, Thần đồng đất Việt... - Các vở chèo hiện đại: Trăng khuyết, Chiến trường không tiếng súng... 4. Các nghệ sĩ tiêu biểu Nghệ sĩ ưu tú Kim Liên, Đăng Khoa, Bích Thục, Thanh Vân, Thanh Nga II. Đặc trưng về nghệ thuật - Nghệ thuật chèo Nam Định vẫn đảm bảo những đặc trưng cơ bản của chèo cổ Việt Nam, đặc biệt là ở hình thức kể chuyện bằng hình thức sân khấu. Có sự kết hợp của nhiều yếu tố: phần văn, phần nhạc, phần ca, phần diễn, phần vũ đạo, phần hội họa... - Đổi mới về đề tài, nội dung: Theo hướng hiện đại Hoạt động 2: Tìm hiểu về tác giả Trần Đình Ngôn và vở chèo “ Thần đồng đất Việt” GV: Gọi đại diện nhóm 7 trình bày. Gọi 8 nhận xét, bổ sung GV chốt lại, nhấn mạnh các ý chính I. Tác giả Trần Đình Ngôn - Sinh năm 1942, tại Hải Dương. Tuy sinh ra ở Hải Dương nhưng lại gắn bó với vùng đất cảng – 26 năm. Ông gọi Hải Phòng là quê thứ 2 của ông - Là tiến sĩ văn học, là nhà viết chèo xuất sắc của Việt Nam: viết được 91 vở dài, trong đó có 85 vở đã được xuất bản và dàn dựng - Đối với nhà hát chèo Nam Định, ông đã tham gia viết và chuyển thể 03 kịch bản chèo: Ni cô Đàm Vân, Trần Anh Tông, Thần đồng đất Việt II. Vở chèo Thần đồng đất Việt - Thể loại: Chèo lịch sử - Ra đời: 2004 - Bố cục: Ngoài phần Khai từ, Đoạn kết, vở chèo chia làm 5 cảnh - Nội dung: viết về Trạng nguyên Nguyễn Hiền - Công diễn: Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp 2005: đạt 2 HCV, 2 HCB, 1 HCĐ. Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội III. Trạng nguyên Nguyễn Hiền 15 - Nguyễn Hiền ( 1234- 1255). Quê: Làng Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường ( nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Trực) - Năm Đinh Mùi 1247, dưới triều vua Trần Thái Tông, ông đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi - Nhỏ tuổi, vua chưa ban chức quan - Sau khi giải được câu đố của sứ giả Bắc triều được phong làm quan Thượng thư... Hoạt động 3: Tìm hiểu về trích đoạn chèo “ Thần đồng đất Việt” Gv chiếu cho học sinh xem trích đoạn ngắn về đoạn trích sẽ tìm hiểu và yêu cầu học sinh xác định vị trí và nội dung đoạn trích. GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu về ngôn ngữ của kịch bản văn học và sự chuyển hóa giữa ngôn ngữ kịch bản thành ngôn ngữ sân khấu I. Vị trí, nội dung - Vị trí: Cuối cảnh 1 - Nội dung: Trạng nguyên giải đố Sứ giả Bắc Triều. Trích dẫn văn bản: Nguyễn Hiền tới cùng trang phục của một đưa trẻ chăn trâu, nhưng đĩnh đạc Nguyễn Hiền: Đứa trẻ chăn trâu ở phủ Thiên Trường. Xin kính chào sứ giả Bắc Quốc! Sứ giả: Ô!...chú bé mục đồng áo manh chân đất. Lại dám xin vào giảng đố của ta sao? Nguyễn Hiền: Xin thưa: Ông Nịnh Thích đã từng lách cách gõ sừng trâu. Ông Sào Phủ đã từng ê a gọi nghe. Bể học không chia lớn bé. Chữ thánh hiền không kể Bắc Nam. Chửa cần đến các quan. Đứa trẻ chăn trâu này cũng có thể giảng ngay câu đố. Sứ giả: Nghe qua khẩu khí. Như thể thần đồng. Vậy chú bé chăn trâu ở lộ Thiên Trường. Hãy nghe lại, rồi giảng xem có được. Ngâm nga: Lưỡng nhật bình đầu nhật. Tứ san điên đảo san. Lưỡng vương tranh nhất quốc. Tứ khẩu tung hoành gian. Nguyễn Hiền: Xin thưa: Nhà Tống đã bị dồn ép xuống phía Nam. Bắc Kim đã mất về tay Mông Thát. Vận Nam Tống ngàn cân treo sợi tóc. Nhưng nhà Nguyên còn muốn thu phục cả Đại Việt chúng tôi. Cho nên, muốn vua Trần lập sổ kê khai. Số nhân khẩu cùng là ruộng đất. Để nay mai cống người nộp thóc. Mới hay câu đố của ngài ngụ ý sâu xa. Sứ giả: Ô!...Một chú bé chăn trâu ở tận làng quê. Sao hiểu được thế cờ Bắc quốc? Nguyễn Hiền: Có thể những chuyện ở làng quê vẫn biết. Mà giữa triều đình quan lớn lại không hay. Muốn am tường kim cổ, Đông Tây. Thì tin nhạn phải có đường có nẻo. Sứ giả: Ứng đối thật là trôi chảy. Nhưng câu đố bằng thơ nào đã giảng được đâu. Nguyễn Hiền: Trước nói về ý ngụ trong câu. Sau mới chỉ rõ ràng mặt chữ: Bốn chữ san chụm đầu vào giữa. Hai chữ nhật ghép lại kề nhau. Hai chữ vương ngang dọc khác đâu. Bốn chữ khẩu chia thành bốn góc. Bốn câu thơ ý chừng hiểm hóc. Chẳng qua là một chữ Điền thôi. Các quan: Chữ Điền! Chữ Điền! Thật quả không sai. Sứ giả: ( Bàng hoàng) Ôi, có phải chăng. Đây là Trạng Nguyễn Hiền đỗ thủ khoa năm ngoái? Nguyễn Hiền vái đáp lễ. Sứ giả nói tiếp: Sứ giả tôi nghe nói. Lòng vẫn còn hồ nghi. Giờ một chữ Điền trạng đã chỉ ra. Mới hay quả là người học sâu, biết rộng. Sứ giả tôi xin tỏ lòng quý trọng. Mừng An Nam có bậc thiên tài! Nguyễn Hiền: Ngài dạy quá lời. Nguyễn Hiền không dám nhận. Sứ giả: Nước Nam nhỏ, nhưng lực cường, thế mạnh. Bởi có những hiền tài xuất chúng ngay từ tuổi thiếu niên. Câu đố chữ Điền là có ý ngợi khen. Kế sách khuyến nông ruộng đồng tươi tốt. Giỏi như Trạng Nguyễn Hiền mà ở bên Bắc quốc, thì thiên tử ắt cho làm tới chức tam công. Vậy mà… 16 Nguyễn Hiền: Nếu như câu đố chữ Điền khen kế sách khuyến nông, thì việc đỗ trạng vẫn chăn trâu lại càng nên khích lệ! Tôi tuổi nhỏ đã am tường chính sự. Bởi thầy học tôi là thức giả thời nay. Sáng đi giảng chữ, chiều lại cầm cày. Đêm gõ mõ tụng kinh mà vẫn biết cơ trời, vận nước. Thầy dạy rằng: Học chẳng phải để thành con mọt sách, mà phải đem chữ nghĩa giúp đời. Từ việc chăn trâu cắt cỏ hằng ngày. Cũng phải chịu nghĩ suy để tìm thấy điều hay lẽ dở. Thế mới biết: Trời sinh ra cỏ. Cỏ nuôi trâu, trâu lại kéo cày. Cho lúa tốt nặng bông, cho thơm dẻo bát cơm đầy. Người no ấm chớ khinh thường ngọn cỏ. Suy rộng ra, đạo người quân tử. Biết thương dân là thuận với lòng trời. Trần Thủ Độ: Tuổi nhỏ chăn trâu mà biết ngẫm sự đời. Thì khôn lớn ắt nên người có ích. Nguyễn Hiền: Kẻ đỗ đạt chưa bổ làm quan chức. Nhưng phúc tam công đã hưởng những ngày qua. Công thầy, công mẹ, công cha. Nhờ tam công ấy mới sinh ra Trạng Hiền. Sứ giả: Trời! Nghĩ suy phải đạo, biện luận tài tình… Sứ giả tôi xin cúi đầu bái phục! Sứ giả toan quỳ xuống vái Nguyễn Hiền. Quan hành khiển và Trạng cùng vội vàng đỡ lấy tay sứ giả. Trần Thủ Độ: Ấy kìa, quan chánh sứ!. II. Tìm hiểu đoạn trích 1. Ngôn ngữ kịch bản * GV yêu cầu HS xác định các nhân vật trong kịch bản và xác định hình thức ngôn ngữ chủ yếu trong trích đoạn. HS suy nghĩ, trả lời - Ngôn ngữ kịch bản thể hiện qua ngôn ngữ của các nhân vật: Trạng nguyên Nguyễn Hiền và Sứ giả Bắc Triều - Ngôn ngữ trong đoạn trích được thể hiện chủ yếu qua hình thức: hát và hát nói - Trạng nguyên Nguyễn Hiền đối đáp lại sứ giả 8 lượt * GV chia lớp thành 8 nhóm như cũ, tổ chức cho HS thảo luận theo các câu hỏi sau: Câu 1: Dựa vào bài HĐGT bằng ngôn ngữ, xác định xem Trạng nguyên Nguyễn Hiền có bao nhiêu lượt đối đáp với Sứ giả Bắc Triều Câu 2: Chọn một lượt đối đáp bất kì của Trạng nguyên Nguyễn Hiền phân tích để làm rõ đặc trưng của ngôn ngữ chèo Thời gian: 3 phút. HS làm việc theo nhóm, trả lời Lời giải đố của Trạng nguyên Nguyễn Hiền Trước nói về ý ngụ trong câu. Sau mới chỉ rõ ràng mặt chữ: Bốn chữ san chụm đầu vào giữa. Hai chữ nhật ghép lại kề nhau. Hai chữ vương ngang dọc khác đâu. Bốn chữ khẩu chia thành bốn góc. Bốn câu thơ ý chừng hiểm hóc. Chẳng qua là một chữ Điền thôi. - Thể văn biền ngẫu: 8 câu mỗi câu 7 chữ, cân đối nhịp nhàng: Trước – sau, Bốn – một, - Các câu đều có vần, có nhịp: Nhịp thay đổi giữa hai câu đầu so với các câu sau; vần gieo cũng linh hoạt - Dùng các từ nôm na, dễ hiểu, gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân - Âm điệu nhanh, dứt khoát, đường hoàng.. => Cho thấy tính cách, con người của Trang nguyên Nguyễn Hiền: thông minh, hiểu biết, bản lĩnh, chững chạc...-> Cảm phục tài năng của Trạng nguyên. Lời luận bàn về sự học, đạo lý ở đời của Trạng nguyên Nguyễn Hiền Nếu như câu đố chữ Điền khen kế sách khuyến nông, Thì việc đỗ trạng vẫn chăn trâu lại càng nên khích lệ! Tôi tuổi nhỏ đã am tường chính sự, 17 Bởi thầy học tôi là thức giả thời nay, Sáng đi giảng chữ, chiều lại cầm cày, Đêm gõ mõ tụng kinh mà vẫn biết cơ trời, vận nước. Thầy dạy rằng: Học chẳng phải để thành con mọt sách, Mà phải đem chữ nghĩa giúp đời, Từ việc chăn trâu cắt cỏ hằng ngày, Cũng phải chịu nghĩ suy để tìm thấy điều hay lẽ dở. Thế mới biết: Trời sinh ra cỏ, Cỏ nuôi trâu, trâu lại kéo cày, Cho lúa tốt nặng bông, cho thơm dẻo bát cơm đầy. Người no ấm chớ khinh thường ngọn cỏ. Suy rộng ra, đạo người quân tử. Biết thương dân là thuận với lòng trời. - Sử dụng thể văn biền ngẫu, kết hợp linh hoạt giữa các câu ngắn, dài khác nhau... - Sử dụng nhiều hình ảnh, các biện pháp tu từ: đối, điệp, ẩn dụ... - Nhịp văn có sự thay đổi => Sự học ở ngay giữa cuộc đời, học ở chính những điều giản dị, đời thường nhất. Học phải gắn với thực tiễn, phải xác định được điều hay, lẽ dở... Đạo lý của người quân tử: phải biết thương dân, lấy dân làm gốc. Không khinh thường mọi điều trong cuộc sống dù chỉ là một ngọn cỏ... 2. Sự chuyển hóa từ ngôn ngữ kịch bản sang ngôn ngữ sân khấu GV cho học sinh đọc lại một vài lời nói của Trạng nguyên, Sứ giả. Sau đó cho học sinh xem lại một đoạn video ngắn trong trích đoạn và yêu cầu học sinh chỉ ra sự chuyển hóa của ngôn ngữ từ kịch bản sang ngôn ngữ sân khấu HS theo dõi, phát hiện, trả lời * Các lời nói của nhân vật - Ngôn ngữ kịch bản: đơn thuẩn là các ngôn từ - Khi chuyển sang ngôn ngữ sân khấu: + Có sự kết hợp của nhiều yếu tố: ngôn từ, vẻ mặt, động tác cử chỉ, hóa trang của diễn viên... + Có thể chuyển từ lời nói trong kịch bản thành lời hát trên sân khấu -> khi đó cần có sự tham gia của âm nhạc, và phụ thuộc vào tài năng của đạo diễn, diễn viên. * Các lời hát nói - Ngôn ngữ kịch bản: đơn thuần là các ngôn từ, được chỉ rõ hình thức thể hiện trong kịch bản như: ngâm, nói điệu sử rầu, nói lệch... - Ngôn ngữ sân khấu: Thế mới biết trời sinh ra cỏ này a Cỏ thời nuôi trâu, trâu lại kéo cày í a Cho lúa tốt nặng bông, thơm bát cơm đầy i í ì i Cho lúa lại trổ bông i í ì i + Thêm các âm điệu + Thêm âm nhạc, động tác, cử chỉ, vẻ mặt, hóa trang... => Lời hát nói: không chỉ thể hiện được tính cách, tâm trạng của nhân vật mà còn thể hiện được tài năng của người diễn viên, đạo diễn. Nghệ thuật chèo là nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn Hoạt động 4 : Củng cố, nâng cao bài học GV yêu cầu HS viết ra những đánh giá của các nhân về nghệ thuật chèo Việt Nam nói chung và nghệ thuật chèo Nam Định nói riêng. Đặt trong bối cảnh hiện nay, khi nghệ thuật chèo đang ngày càng mai một đi, thì thái độ, và nhiệm vụ của cá nhân sau bài học này? - Vai trò, vị trí của nghệ thuật chèo trong tiến trình phát triển văn học - Thực trạng của nền nghệ thuật chèo đang ngày một bị mai một, xa rời quần chúng - Cần giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng 18 Hoạt động 5: Minh họa lại trích đoạn chèo vừa học qua sự diễn xuất của các học sinh trong lớp. ( Xem trong video kèm theo ) Chuyên đề 03: Vài nét về văn học Nam Định dưới triều nhà Lý – Trần A.Mục tiêu bài học. Giúp học sinh: - Về kiến thức: Có thêm hiểu biết về nền văn học viết Nam Định nói chung và văn học thời Lý – Trần nói riêng. - Về kỹ năng: Biết cách tiếp cận và tìm hiểu các thể loại văn học của thời Lý – Trần qua đặc trưng từng thể loại. - Về thái độ: Hiểu được những giá trị to lớn của văn học thời Lý – Trần đối với quê hương, với nền văn học của dân tộc. Có thái độ trân trọng đối với di sản văn học của quê hương B.Đối tượng và thời lượng dạy học - Đối tượng: Học sinh lớp 10 Ban cơ bản - Thời lượng: 90 phút C.Nội dung dạy học. Tập trung vào 02 mảng: - Văn học viết Nam Định dưới thời nhà Lý - Văn học viết Nam Định dưới thời nhà Trần D.Phương pháp, phương tiện dạy học - Phương pháp: Dự án, thuyết trình, vấn đáp, làm việc theo nhóm - Phương tiện: Máy chiếu, mạng Internet, các tài liệu tham khảo về thời kì văn học trung đại Nam Định E.Chuẩn bị bài trước khi lên lớp - Giáo viên: Thiết kế bài học. Chia lớp thành 04 nhóm, cử nhóm trưởng và giao nhiệm vụ: + Nhóm 1,2: Tìm hiểu khái quát thời kì văn học trung đại Nam Định. Tìm hiểu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học viết dưới thời nhà Lý. + Nhóm 3,4: Tìm hiểu khái quát thời kì văn học trung đại Nam Định. Tìm hiểu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học viết dưới thời nhà Trần. -Học sinh: Tích cực, chủ động làm việc theo các nhóm. F.Tiến trình tổ chức dạy học 1.Giới thiệu vào bài mới: Giáo viên giới thiệu sơ lược về các triều đại phong kiến Việt Nam, nhấn mạnh vào triều nhà Lý, nhà Trần và dẫn vào bài. 2.Bài mới Hoạt động 1. Giới thiệu khái quát về thời kỳ văn học trung đại Nam Định Giáo viên gọi đại diện một nhóm lên trình bày, các nhóm còn lại nhận xét, bổ sung Giáo viên chốt lại những kiến thức cơ bản. Quá trình phát triển: Thời kì văn học trung đại Nam Định kéo dài từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, được chia thành các giai đoạn sau: - Từ TK XI đến hết TK XII là giai đoạn văn học dưới thời Lý đã bắt đầu phát triển - Từ thế kỷ XIII – XIV là giai đoạn văn học dưới triều Trần. Ở giai đoạn này, nền văn học viết Nam Định có bước phát triển mạnh mẽ với nhiều tác giả lớn để lại nhiều tác phẩm có giá trị lâu dài. Năm 1239, nhà Trần xây dựng cung điện, nhà cửa ở hương Tức Mặc mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, về văn học nói riêng ở chính vùng đất quê hương. Đến năm 1262, Thiên Trường trở thành nơi làm việc, nghỉ ngơi và sáng tác thơ ca. Chùa chiền vừa là chỗ tu hành, vừa là nơi các nhà sư ngâm vịnh và sáng tác. 19 Từ giữa thế kỷ XIII trở đi, cùng với việc phát triển nền văn học Thăng Long, các vua quan nhà Trần đã tạo dựng nền văn học Thiên Trường (Nam Định ngày nay), với nhiều nhà thơ nổi tiếng và những tác phẩm thơ ca bất hủ. - Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII văn học Nam Định không còn phát triển mạnh như ở thời Trần. Vẫn còn nhiều người thi đỗ tiến sĩ và cả trạng nguyên, nhưng không khí sáng tác thơ văn thì không còn sôi nổi như ở giai đoạn trước, chỉ có khoảng 20 tác giả mà nổi bật là Lương Thế Vinh, Phạm Đạo Phú, Đặng Phi Hiển, Tống Hân, Trần Kỳ, Vũ Vĩnh Trinh, Nguyễn Địch, Phạm Ngộ Hiên, Vũ Huy Trác...Lương Thế Vinh (14411496) là người đầu tiên ở Việt Nam biên soạn sách "Đại thành toán pháp", đã thất truyền. Ông nghiên cứu về Phật học và nghệ thuật. "Hí phường phả lục" là cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về sân khấu. Ông được vua Lê Thánh Tông cử giữ chức Tao Đàn sái phu (chuyên về đánh giá, phê bình, biên tập thơ ca trong hội Tao Đàn). - Thế kỷ XIX, là thời kỳ nở rộ của văn học Nam Định. Trên 40 tác giả với hàng nghìn tác phẩm xuất hiện đã khiến cho Nam Định trở thành một trong những trung tâm lớn của văn chương nước nhà. Về mặt thể loại: phong phú như. thơ ca (viết bằng thể đường luật), văn xuôi (dạng thực lục, chưa có tiểu thuyết), các công trình khảo cứu về lịch sử, văn hoá, văn học. Về đội ngũ tác giả: chủ yếu vẫn là những người xuất thân khoa bảng nhưng có tác giả nổi tiếng mà đỗ đạt không cao. Tập trung ở Xuân Trường, Ý Yên; tiêu biểu như: làng Hành Thiện là một trung tâm văn học lớn với nhiều nhà khoa bảng lừng danh và nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Riêng dòng họ Đặng đã đóng góp nhiều tác giả và hàng trăm tác phẩm có giá trị. Ngoài ra, còn có Ngô Thế Vinh, Vũ Hữu Lợi ( Nam Trực); Phạm Văn Nghị, Lã Xuân Oai ( Ý Yên); Trần Bích San, Trần Tế Xương ( thành phố Nam Định)... Ở giai đoạn này, chữ quốc ngữ bắt đầu phát triển nhưng hầu hết các tác giả vẫn viết bằng chữ Hán, Nôm. Nội dung văn học: tập trung ngợi ca truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quê hương đất nước; tinh thần yêu nước, chống xâm lược là xu hướng có tính chiến đấu cao trong văn học giai đoạn này; phê phán đả kích xã hội thực dân nửa phong kiến Hoạt động 2. Tìm hiểu khái quát về văn học thời Lý Giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày những kiến thức cơ bản về văn học thời Lý -Từ thế kỷ XI dưới triều Lý, nền văn học viết Nam Định đã bắt đầu phát triển. - Đội ngũ sáng tác giai đoạn này chủ yếu là các nhà sư. Ở thời Lý, đội ngũ sư tăng đã rất đông đảo. - Tác giả tiêu biểu: Hai nhà sư Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải, không chỉ nổi tiếng về đường tu hành mà còn nổi tiếng với các tác phẩm văn học có giá trị, thể hiện nét đặc sắc của thơ ca thời Lý. Đó là những tư tưởng triết lý của đạo Phật được thể hiện thông qua những hình tượng thiên nhiên và cuộc sống con người giàu chất thơ. Đây là hai tác giả đã đặt nền móng cho nền văn học viết Nam Định - Tác phẩm tiêu biểu: Ngôn hoài ( Dương Không Lộ), Hoa điệp ( Nguyễn Giác Hải) GV tổ chức cho học sinh tìm hiểu về những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học thời Lý *Nhà sư Dương Không Lộ và bài thơ Ngôn hoài 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan