Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn văn học trong lịch sử, địa lí ...

Tài liệu Skkn văn học trong lịch sử, địa lí

.DOC
19
887
82

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị Trường THPT Long Phước Mã số: ………………… SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VĂN HỌC TRONG LỊCH SỬ, ĐỊA LÍ Người thực hiê ên: Dương Thị Hiệp Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lí giáo dục  Phương pháp dạy học bô ê môn: Ngữ văn Phương pháp giáo dục:  Có đính kèm:  Mô hình khác  Lĩnh vực khác:………………………………..   Phần mềm  Phim ảnh NĂM HỌC: 2016-2017  Hiê ên vâ êt SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN: Dương Thị Hiệp 1.Họ và tên: 2.Ngày tháng năm sinh: 04-12-1979 3.Nam, nữ: Nữ 4.Địa chỉ: Ấp 6- Xã Phước Bình – Long Thành – Đồng Nai 5.Điê ên thoại: (CQ)/ 0613 559023 6.Fax: 7.Chức vụ: - ĐTDĐ : 01685788434 E-mail: [email protected] Giáo viên 8.Đơn vị công tác: Trường THPT Long Phước II.TRÌNH ĐÔÔ ĐÀO TẠO: -Học vị cao nhất: Đại học -Năm nhâ ên bằng: 2002 -Chuyên ngành đào tạo: Ngữ Văn III.KINH NGHIÊÔM KHOA HỌC: -Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiê êm: Giảng dạy Ngữ Văn -Số năm có kinh nghiê êm: 14 năm - Các sáng kiến kinh nghiê êm đã có trong 5 năm gần đây: +Phương pháp nêu vấn đề trong dạy học Ngữ Văn. +Tiếp cận đoạn trích “Trao duyên” theo cái nhìn thời gian nghệ thuật. +Văn học trong lịch sử, địa lí. VĂN HỌC TRONG LỊCH SỬ, ĐỊA LÍ A. PHẦN MỞ ĐẦU I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học trong nhà trường, tôi nhận thấy học sinh còn chưa vững một số kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có kiến thức Lịch sử và Địa lí. Điều này làm cho các em tiếp cận tác phẩm Văn học khó khăn hơn. Nhằm giúp học sinh học Văn ngày càng tốt hơn, đạt thành tích cao hơn trong học tập, nên tôi đã chọn đề tài: Văn học trong Lịch sử, Địa lí. Khi chọn đề tài này, tôi cũng hy vọng sẽ góp phần nâng cao sự hiểu biết của học sinh, giúp cho kho kiến thức của các em được phong phú hơn, làm cho các em thích học môn Văn hơn. Bởi đến với Văn học các em sẽ được biết nhiều hơn. “Văn học là nhân học”. Văn là người, học văn là học cách làm người. Vì thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy môn Văn nói riêng là một vấn đề lớn đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi người. Cho dù đổi mới cách dạy học như thế nào đi nữa thì cũng nhằm tới mục tiêu cuối cùng: học sinh am hiểu những vấn đề trong cuộc sống, học để biết, học để làm, học để yêu thương, học để hòa nhập, học để vươn tới những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Qua những năm, dạy học lớp 10 và lớp 11, tôi đã kiểm tra một số kiến thức cơ bản có liên quan đến môn Địa, Sử thì đa số các em đều không nhớ gì. Điều này làm tôi băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều. Làm thế nào để các em hứng thú phân môn Văn-Sử-Địa. Để làm điều này, giáo viên phải tạo ra tạo những tiết học sinh động bằng nhiều hình thức khác nhau, một trong những hình thức mà tôi chọn để viết sáng kiến kinh nghiệm lần này sẽ đáp ứng một phần nào những yêu cầu trên. Trong quá trình soạn cũng còn nhiều bất cập, thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến cuả các đồng nghiệp để bài viết lần sau được tốt hơn. II.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.Cơ sở lý luận: Tại kỳ họp của Quốc hội khóa X năm 2000, Quốc hội khóa X đã thông qua Nghị Quyết số 40/2000/QH10 về vấn đề đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Tiếp đó ngày 11/6/2001 Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 14/2001/CTTTg về đổi mới giáo dục phổ thông. Trong đó nhấn mạnh mục tiêu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là nhằm thay đổi cách dạy và học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh. Một trong những phương pháp tích cực hóa hoạt động dạy và học đó là việc dạy học liên môn. Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường phổ thông nói chung, môn Ngữ Văn nói riêng. Nó góp phần bổ sung lượng kiến thức các môn học khác cho bài học, giúp học sinh hứng thú say mê học tập, góp phần nâng cao hiệu quả bài học. Mặt khác, bộ môn Ngữ Văn cung cấp cho học sinh những tri thức ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển cuả lịch sử văn học dân tộc và văn học thế giới. Do đó, việc dạy học liên môn là dùng các kiến thức ở các bộ môn khác bổ sung, hỗ trợ làm sáng rõ hơn kiến thức mà học sinh đang được học trong môn học, cụ thể ở đây là bộ môn Ngữ Văn và việc vận dụng kiến thức của bộ môn Lịch sử, Địa lí vào trong giờ học Văn. Từ cơ sở đó, tôi đã mạnh dạn xin trình bày một số kinh nghiệm về sử dụng kiến thức của môn Địa lí, Lịch sử vào một số tiết học Ngữ Văn. 2.Cơ sở thực tiễn: a.Thuận lợi: -Gỉang dạy môn Văn ở trường trung học phổ thông luôn nhận được sự quan tâm của Ngành, của Bộ, của Sở và của lãnh đạo nhà trường; các giáo sư, nhà giáo ưu tú có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. -Từ nhiều năm nay, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới phương pháp giảng dạy đã được Ngành giáo dục và cả xã hội quan tâm. -Tổ Văn thường xuyên thảo luận, trao đổi kinh nghiệm cho nhau và đưa vào giảng dạy. -Hiện nay,Thư viện của trường trung học phổ thông Long Phước cũng đã đạt chuẩn, nhiều loại sách hay, có giá trị để học sinh và giáo viên tham khảo, giáo viên và học sinh được mượn sách thư viện về nhà đọc. b.Khó khăn: -Trong thực tế hiện nay, thái độ học tập môn Ngữ Văn của học sinh thật sự vẫn chưa tích cực. Vì thế, cho nên giáo viên phải khéo léo lồng ghép những câu chuyện lịch sử hoặc những bài học địa lí trong những giờ giảng Văn. -Do thời lượng chương trình có hạn, những giải pháp hỗ trợ cho học sinh cũng ít có điều kiện phát huy. -Từ trước đến nay, môn Địa lí và Lịch sử trong nhà trường phổ thông vẫn được các em xem là môn phụ, còn môn Văn là môn chính, là môn thi tốt nghiệp nhưng các em vẫn xem nhẹ. Vì thế, chúng ta phải làm sao để học sinh phát huy tính tích cực trong việc học liên môn: Văn-Sử-Địa. Trong nhà trường, ở cấp THPT, học sinh được làm quen với nhiều tác phẩm văn học khác nhau, nhưng không phải tác phẩm nào cũng liên quan đến kiến thức về Lịch sử và Địa lí. Vì vậy, tôi chỉ xin chọn một số tác phẩm có liên quan đến đề tài để trình bày: Phú sông Bạch Đằng, Đại cáo bình Ngô, một số bài ca dao, tục ngữ…. Những bài dạy này được áp dụng giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 10, 11 tại trường THPT Long Phước. Từ một số tác phẩm văn học có liên quan đến kiến thức Lịch sử, Địa lí, tôi sẽ chỉ ra sự cần thiết của việc hỗ trợ lẫn nhau giữa các môn học. Tôi cũng mạn phép xin trình bày những kiến thức về Lịch sử, Địa lí cần thiết cho tác phẩm văn học. Sau đó, tôi sẽ tham khảo ý kiến người học về sự cần thiết của các kiến thức Lịch sử, Địa lí trong việc học tác phẩm văn học và đánh giá kết quả đạt được sau khi thực hiện. Tất cả những điều này sẽ được cụ thể hóa trong phần nội dung chính của đề tài. c.Số liệu thống kê: Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy sự am hiểu về lịch sử, địa lí thông qua môn Văn của các em còn hạn chế. Cho nên tôi đã quyết định chọn hình thức này, khi giảng dạy môn Văn, tôi luôn nhắc các em gợi nhớ về những kiến thức của môn Sử, Địa. Điểm khảo sát kết quả năm học 2015-2016 và 2016-2017. Lớp 10a3 10a4 11a1 11a2 *Kết quả khảo sát cụ thể như sau: Sĩ Giỏi Khá Trung bình SL % SL % SL % số 42 00 0% 10 23,8% 24 57,1% 41 00 0% 12 29,2% 24 58,5% 40 00 0% 12 30,0% 21 52,5% 39 00 0% 10 25,6% 20 51,2% Yếu SL 08 07 07 07 % 19,0% 17,8% 17,5% 17,9% Kém SL 00 00 00 02 % 0% 0% 0% 5,1% B. PHẦN NỘI DUNG III.TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 1.Sự cần thiết của việc bổ sung kiến thức Lịch sử, Địa lí vào giờ dạy học Ngữ Văn trong trường phổ thông: Nắm vững tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác giả là điều cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học. Tác giả nào, tác phẩm ấy. Tác phẩm là thế giới nội tâm của nhà văn, thể hiện khát vọng Chân - Thiện - Mĩ, tư tưởng, thái độ, tình cảm của nhà văn đối với cuộc sống. Mỗi nhà văn đều sinh ra trong một hoàn cảnh gia đình, với những sở thích, lối sống và trong một bối cảnh lịch sử - xã hội nhất định. Môi trường gia đình và xã hội, với những biểu hiện đa dạng của nó về chính trị, kinh tế, văn hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng và tình cảm của nhà văn, và điều này được phản ánh ở một phạm vi nào đó trong tác phẩm. Vì không nắm được tiểu sử tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm nên HS viết rất lung tung. Ví dụ: nữ thi sĩ Xuân Diệu là nhà thơ tình nổi tiếng, quê ở Bắc Ninh, có quan hệ họ hàng với nhà thơ Xuân Quỳnh; Bình Ngô đại cáo ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Lý Bạch là nhà văn Việt Nam,… Khi dạy tác phẩm Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, giáo viên hỏi học sinh: Sông Bạch Đằng nằm ở tỉnh nào của nước ta? Học sinh không biết; Khi dạy bài Độc Tiểu Thanh kí, giáo viên yêu cầu học sinh xác định tên tuổi, quê hương của nhân vật trong bài thơ. Học sinh không xác định được, có em lại hỏi lại nàng Tiểu Thanh là cô gái Việt Nam hay người Trung Quốc vậy cô? Khi dạy bài Bình Ngô đại cáo? Có liên quan đến hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giáo viên hỏi học sinh bài cáo ra đời trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nào? Học sinh cũng không biết; Đó là một thực tế đáng buồn không chỉ của giáo viên dạy Ngữ Văn mà còn của giáo viên dạy Địa lí, Lịch sử…. Từ xưa ông cha ta đã từng quan niệm Văn-Sử -Triết bất phân. Nguyên nhân là do ba bộ môn này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Suy cho cùng đối tượng nghiên cứu của ba bộ môn này đều là CON NGƯỜI. Ngày nay trong chương trình phổ thông học sinh được học rất nhiều môn đó là Văn, Sử, Địa,… Trong những môn học đó có những môn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Khi dạy bộ môn này đôi khi cũng cần sự hỗ trợ bởi kiến thức của những môn học khác. Đó là lý do tại sao trong chương trình Văn học có những bài được gọi là Văn học sử và trong Chương trình Lịch Sử lại có phần Lịch sử Văn học. Trong bài Văn học sử Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng tám 1945 đến hết thế kỷ XX, quá trình phát triển của Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chia làm 3 chặng đường: Chặng 1 từ 1945 - 1954: Văn học thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp; Chặng 2 từ 1955 - 1964: Văn học trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam; Chặng 3 từ 1965-1975: Văn học thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Ta có thể dễ dàng nhận thấy các chặng đường văn học được chia theo các mốc lịch sử. Bởi chức năng của văn học là phản ánh cuộc sống, phục vụ cuộc sống. Vì vậy mỗi khi cuộc sống con người có thay đổi thì văn học cũng thay đổi theo cho phù hợp. 2.Khai thác một số kiến thức Lịch sử vào việc giảng dạy Ngữ Văn 2.1.Vận dụng kiến thức Lịch Sử để dạy hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn học. Hoàn cảnh ra đời bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Năm 1861, thực dân Pháp chiếm xong thành Gia Định, mở rộng căn cứ, đóng đồn, xây bốt ở một số căn cứ xung quanh, trong đó có Cần Giuộc. Đêm ngày 16-12-1861, nghĩa quân nông dân Cần Giuộc tự vũ trang đánh vào đồn quân Pháp, giết chết tên quan lại Pháp và một số lính thuộc địa phương của chúng, làm chủ đồn được hai ngày rồi bị phản công và thất bại. Mười lăm người đã hy sinh(có bản chép là 21).Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này đọc trong lễ truy điệu các nghĩa sĩ. Bài văn tế được truyền tụng khắp nơi trong cả nước làm xúc động lòng người. Hoàn cảnh ra đời bài Tuyên ngôn độc lập: Chiến tranh thế giới II kết thúc, Nhật đầu hàng đồng minh, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền. Ngày 26-8-1945, Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội; tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Bác soạn bản thảo Tuyên ngôn độc lập. Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình-Hà Nội, Người thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hoàn cảnh ra đời bài Xuất dương lưu biệt: Duy Tân hội được thành lập năm 1905. Lúc này phong trào Cần Vương đã cho thấy sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phong trào Đông Du được nhóm lên, đặt cơ sở, tạo cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước và chủ trương cầu Nhật giúp Việt Nam đánh Pháp. Bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bạn đồng chí trước lúc lên đường sang Nhật Bản. Nhìn chung kiến thức lịch sử sẽ giúp các em cảm nhận về tác phẩm văn chương một cách dễ dàng hơn, chính xác hơn. Nếu không may, học sinh hỏng kiến thức về Lịch sử, các em cũng sẽ được Văn học bù lại. Nói cách khác giữa hai bộ môn có sự hỗ trợ qua lại với nhau. 2.2. Vận dụng kiến thức lịch sử để làm rõ thêm kiến thức văn học: 2.2.1 Khi dạy Đại cáo bình Ngô đến câu: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa, Bọn gian tà bán nước cầu vinh. Nếu giáo viên không nắm rõ lịch sử thì sẽ không biết giảng như thế nào để học sinh có thể hiểu được. Ngược lại nếu hiểu rõ lịch sử, ta sẽ biết được trong hai câu này, tác giả đang đề cập đến việc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Nghệ Tông làm vua được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Kính lên thay, tức là Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, thượng hoàng Nghệ Tông lập con Duệ Tông là Phế Đế lên thay. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin Hồ Quý Ly. Do đó, Hồ Quý Ly xúi giục Nghệ Tông giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả vua Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con Nghệ Tông là Thuận Tông (đồng thời là con rể của Hồ Quý Ly) được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vua mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thiếu Đế khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông và phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ. Mặc dù có được thiên hạ nhưng Hồ Quý Ly lại mất lòng dân, bởi vì trong lòng dân chúng nhà Trần trước đây cũng đã đem lại cuộc sống tốt đẹp cho họ. Đã nhiều lần quân đội nhà Trần đã đánh lui giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi,… Vì vậy, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần trong tay cháu ngoại của mình là không hợp lòng dân, trái đạo làm người. Thừa cơ hội tình hình chính trị trong nước đang rối ren như thế, giặc Minh đã đưa ra chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, “mượn gió bẻ măng” để cướp nước ta. Bị cả thù trong lẫn giặc ngoài nên nhà Hồ nhanh chóng sụp đổ, đất nước ta rơi vào tay giặc. Một số người tham bả vinh hoa, phú quý nên đã theo hàng giặc Bán nước cầu vinh như lời Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô. 2.2.2 Khi dạy vềề Trầền Hưng Đạo trích trong “ Đại việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liền. Giáo viền thường đềề cao phẩm chầất tôất đẹp của ông là vì nước, quên thù nhà. nhưng nềấu chúng ta không nắấm rõ lịch sử sẽẽ không giúp học sinh hiểu được rõ môấi thù nhà đó như thềấ nào. Không hiểu được thù nhà thì sẽẽ không hiểu được tầấm lòng của Trầền H ưng Đạo cao cả như thềấ nào? Năm Đinh Dậu (1237), Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu (cha Trần Hưng Đạo) phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho em ruột là vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) dù bà này đã có thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời giáng Lý Chiêu Hoàng (đang là Hoàng hậu) xuống làm Công chúa. Phẫn uất, Trẫn Liễu họp quân làm loạn. Trần Thái Tông chán nản bỏ đi lên Yên Tử. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo). Lúc sắp mất, ông cầm tay Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, Trần Quốc Tuấn đem lời cha trăng trối để dò ý hai thuộc tướng thân tín là Dã Tượng vàYết Kiêu. Hai người thuộc hạ ấy can rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu"...Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc." Trần Quốc Tuấn thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn." Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm dùm, rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: Hôm nay được tắm cho Thượng tướng. Trần Quang Khải cũng nói: Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho. Trước đây, hai ông tuy một là Quốc công tiết chế, một là Thượng tướng thái sư nhưng do lo lắng về mối thù của Trần Liễu để lại mà có mối hiềm nghi xa cách. Sau khi được Trần Quốc Tuấn tắm cho, hai ông trở nên thân tình, tin tưởng nhau, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn mà. Trong việc giúp đỡ nhà vua, hai ông đều đứng hàng đầu. Có hiểu rõ những việc xảy ra trong đời Trần Hưng Đạo ta mới có thể thấy được sự vị tha và tấm lòng trung quân ái quốc của Đức Thánh Trần. 3.Vận dụng kiến thức Địa lí vào gỉang dạy Văn học trong chương trình phổ thông. 3.1 Dạy về Sông Bạch Đằng: Khi dạy tác phẩm này, giáo viên đã hỏi học sinh và phát hiện các em không nhớ các chiến công của quân ta trên dòng sông lịch sử này, thậm chí học sinh cũng không biết dòng sông này có thật không, vì nhìn vào Alat em không thấy. Nếu giáo viên nắm được những kiến thức sau thì sẽ lấp đầy được những lổ hổng kiến thức cho học sinh. Sông Bach Đằng còn gọi là sông Vân Cừ, chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km. Nó nằm trong hệ thống sông Thái Bình. Sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa) từ miền Nam Trung Quốc, từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội. Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam: Trận thủy chiến sông Bạch Đằng 938: Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán. Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 981: Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đập tan quân Tống xâm lược. Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 1288: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Nguyên-Mông (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba). Với ba lần là chiến trường, chứng kiến những thắng lợi to lớn của quân dân Đại Việt chống giặc phương Bắc vào các năm 938 - Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, năm 981 - Lê Hoàn đánh thắng quân Tống và đặc biệt là năm 1288 - Trần Hưng Đạo lại áp dụng chiêu thức “đóng cọc nhọn” đánh thắng oanh liệt quân Nguyên- Mông, sông Bạch Đằng có lẽ là con sông oai hùng được sử sách ghi chép, thi phú ngợi ca nhiều nhất Việt Nam. Nhiều tác phẩm thi ca, tiêu biểu là phú Bạch Đằng Giang của Trương Hán Siêu thời Trần được ví như một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học yêu nước Việt Nam, một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ. Sông Bạch Đằng có nguồn chính chảy từ sông Lục Đầu, có các chi mạch từ Đông Triều về gặp sông Giá và sông Đá Bạc, chảy xuống dưới rồi đổ ra biển bằng hai cửa: Dòng chính dài khoảng 20km, đổ ra cửa Nam Triệu, xưa gọi là cửa Bạch Đằng. Hai chi lưu là sông Chanh dài khoảng 18km, đổ ra ở cửa Lạch Huyện và chi lưu sông Rút (còn gọi là sông Nam) dài khoảng 16km, hợp với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu. Theo GS Đào Duy Anh, sông Chanh ngày nay chính là sông Bạch Đằng xưa. Theo GS Đào Duy Anh, sông Chanh ngày nay chính là sông Bạch Đằng xưa 3.2 Khi dạy về ca dao, tục ngữ... 3.2.1 Dân gian có câu: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối” Giáo viên cũng nên giải thích cho các em biết, vì sao lại có hiện tượng này? Nếu giáo viên không am hiểu về địa lí thì khó có thể giải thích cho học sinh hiểu được. Gíao viên yêu cầu học sinh vận dụng sự hiểu biết của mình về địa lí để giải thích ý nghĩa của câu ca dao trên. “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng” Việt Nam nằm trong vùng nội chí Bán cầu Bắc. Tháng 5 âm lịch của Việt Nam tương ứng là tháng 6 dương lịch. Tháng 6 dương lịch Bán cầu Bắc là mùa hè. Ngày 22/6 hằng năm, tia bức xạ mặt trời chiếu vuông góc với tiếp tuyến bề mặt trái đất tại chí tuyến Bắc (23 0 27’ B) nên thời gian chiếu sáng ở nửa cầu Bắc(Việt Nam) dài. Càng về phía Cực Bắc ngày càng dài, đêm càng ngắn, nên có hiện tượng ngày dài, đêm ngắn. “Ngày tháng mười chưa cười đã tối” Vào ngày 22/12 (tháng 10 âm lịch), Mặt trời chuyển động biểu kiến về chí tuyến Nam và vuông góc tại bề mặt đất tại tiếp tuyến 23 0 27’ N(Chí tuyến Nam) thì ở Bán cầu Nam lúc này ngày dài đêm ngắn và ở Bán cầu Bắc(Việt Nam) hiện tượng ngày ngắn-đêm dài trên. Nói tóm lại, ở nước ta, vào khoảng tháng 6 dương lịch, tương ứng với tháng 5 âm lịch, có đêm ngắn hơn ngày rõ nhất ở miền Bắc, vì ở gần chí tuyến Bắc (nên mới có câu chưa nằm đã sáng), còn khoảng tháng 11 dương lịch, tương ứng với tháng 10 âm lịch, có ngày ngắn hơn đêm rõ rệt (nên mới có câu chưa cười đã tối). Như vậy, câu ca dao này đã phản ánh đúng hiện tượng ngày, đêm ngắn khác nhau theo mùa, nhất là khu vực miền Bắc nước ta ở vĩ độ cao hơn khu vực phía Nam nên hiện tượng càng rõ nét hơn (nước ta nằm ở nửa cầu Bắc). 3.2.2 Bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” (SGK Ngữ Văn 10tập1/trang 21). Ở bài tập số 4, yêu cầu học sinh viết một đoạn văn ngắn thông báo cho các bạn học sinh biết về hoạt động làm sạch môi trường nhân Ngày Môi trường thế giới. Ở bài tập này, nhằm rèn luyện cho sinh năng lực giao tiếp dưới dạng viết, hơn nữa là viết một văn bản thông báo và quan trọng hơn là văn bản về môi trường (có liên quan đến môn Địa lý). Như chúng ta đã biết, vấn đề ô nhiễm môi trường là một trong những vấn đề nóng trên toàn cầu hiện nay chứ không phải chỉ riêng ở Việt Nam. Vì thế, phần này ngoài việc gợi ý cho học sinh viết về hình thức và nội dung của một văn bản thông báo, thì giáo viên cần gợi ý cho các em thêm về ô nhiễm môi trường: ô nhiễm môi trường đất, ô nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường không khí... Ví dụ: Về ô nhiễm không khí thì có hai nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí: *Nguồn ô nhiễm tự nhiên (Do các hiện tượng tự nhiên gây ra): -Gió mạnh cuốn theo bụi, đất đá, thực vật vụn...bay vào khí quyển. -Núi lửa phun trào đưa vào khí quyển nhiều tro bụi. -Các quá trình thối rữa xác động thực vật trong tự nhiên cũng thải ra các chất khí bay vào khí quyển. * Nguồn ô nhiễm nhân tạo(Do các hoạt động kinh tế- xã hội của con người gây nên): - Nguồn ô nhiễm từ công nghiệp: của các nhà máy đã thải vào không khí rất nhiều chất khí độc hại hoặc quá trình bốc hơi, rò rỉ từ dây chuyền sản xuất. - Nguồn ô nhiễm từ nông nghiệp: thuốc trừ sâu,... - Nguồn ô nhiễm từ giao thông vận tải: hoạt động của động cơ các loại xe, tàu biển. Giao thông đường hàng không cũng gây ô nhiễm đáng kể (tổn hại tầng ôzôn). - Nguồn ô nhiễm do sinh hoạt của con người: do đun bếp bằng gỗ củi, than đá, dầu mỏ, sử dụng các chất tẩy rửa, thuốc diệt côn trùng... 3.2.3 Khi dạy bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, có khổ thơ : “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.” Giáo viên có thể giải thích cho học sinh biết rõ về thôn Vĩ. Thôn Vĩ tức là thôn Vĩ Dạ, từ gốc là Vĩ Dã (vĩ: Có nghĩa là lau, còn dã:có nghĩa là cánh đồng). Thôn Vĩ Dạ là nơi có phong cảnh vườn tược rất nên thơ, rất đẹp, rất hữu tình; nằm ở ngoại thành thành phố Huế. Mỗi năm, nơi này thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan. Vì thế, mới có câu nói “Nếu ai đã đến thăm xứ Huế, mà chưa đến thôn Vĩ thì coi như chưa đến Huế”. 3.3.1 Hoặc khi dạy câu ca dao sau : Giáo viên cũng có thể cho học sinh dựa vào kiến thức Địa lý đã học, để giải thích như sau: “Được mùa chớ phụ ngô khoai Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”. Gíao viên có thể gợi ý cho học sinh như sau: -Lúa gạo là cây lương thực chính của nhân dân ta, được trồng phổ biến nhiều nơi. Việc sản xuất lúa gạo đòi hỏi nhiều công chăm sóc, thời tiết thuận lợi thì mới được mùa. Nền nông nghiệp trước đây còn nhiều lạc hậu, phụ thuộc vào nhiều tự nhiên, thiên tai thường gây mất mùa và gây tình trạng thiếu ăn. -Ngô khoai là cây hoa màu dễ trồng, không sử dụng nhiều nước như lúa, có thể trồng xen vụ với lúa. Ngô và khoai còn có thể trồng xen canh với nhau để khai thác tốt hơn khả năng của đất đai. Đây là nguồn lương thực phụ. - Hoa màu cho thu hoạch năng suất cao, có khả năng tăng cường tốt hơn vấn đề an ninh lương thực cho con người, ngoài ra còn dùng để chăn nuôi. -Với kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ về tai biến bất ngờ của thiên nhiên, để đề phòng nạn đói, bên cạnh sản xuất lúa là cây lương thực chính, người dân còn sản xuất thêm hoa màu để bổ sung cho nguồn lương thực. 3.3.2 Khi dạy câu ca dao: “Ai về Phú Thọ cùng ta Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười” “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba” Giáo viên có thể giải thích cho học sinh như sau: Tổ tiên của người Việt ta là các vua Hùng, kinh đô của các vua Hùng được đặt ở trung tâm bộ Văn Lang nay là thuộc Việt Trì, Phong Châu, Phú Thọ. Để tưởng nhớ công ơn của các vua Hùng đã có công dựng nước, nước ta lấy ngày 10-3 âm lịch là ngày giỗ Tổ Hùng Vương và ở Phú Thọ vào ngày này tổ chức rất nhiều hoạt động về văn hóa lịch sử, tổ chức lễ hội Đền Hùng, có các hoạt động du lịch thăm quan các di tích văn hóa lịch sử, đón rất nhiều du khách đến thăm quan, tìm hiểu về vùng đất anh hùng hào kiệt này. Dựa vào câu ca dao này, giáo viên khai thác kiến thức: tài nguyên du lịch (tài nguyên du lịch nhân văn: lễ hội, di tích văn hóa lịch sử, làng nghề truyền thống…) ảnh hưởng đến hình thức tổ chức, mạng lưới hoạt động của ngành du lịch. 3.3.3 Khi dạy câu tục ngữ “ Gío heo may, chuồn chuồn bay thì bão”. Gíao viên có thể giải thích ý nghĩa câu tục ngữ như sau: Hiện tượng “gió heo may” là loại gió nhẹ, hơi lạnh và khô thường thổi vào mùa thu (đầu đông) ở vùng Bắc Bộ. Thời gian từ tháng 9,10 dương lịch. Mùa này thường không có mưa, nên để chỉ tính chất của thời tiết này ông cha ta mới có câu nói trên. IV.HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Học sinh vẫn thường than rằng : “ Văn dài khó học, đôi khi kiến thức xa rời thực tế”. Qua bài viết này, chúng ta dễ dàng nhận thấy kiến thức Văn học liên quan rất lớn đến Lịch sử, Địa lí Việt Nam. Điều đó cũng chứng minh nội dung Văn học là có thật, nó thiết thực trong đời sống con người chứ không xa xôi, huyền ảo. Để giúp học sinh có cái nhìn khác về môn Văn, thích thú hơn với việc học Văn, tôi cũng đã lồng ghép nội dung đề tài này trong các tiết đọc văn để giúp học sinh nắm vững kiến thức hơn. Qua đó, tôi nhận thấy rằng các em say mê hơn khi đọc tác phẩm văn học, các em cũng nắm vững kiến thức hơn bởi kiến thức môn học này lại giúp củng cố kiến thức môn học khác có liên quan. Do vậy điểm số kiểm tra đọc văn cũng cao hơn. Mỗi lớp chỉ có một vài học sinh dưới trung bình. Bởi khi học các em được liên tưởng nhiều hơn, nhớ lâu hơn chứ không học vẹt, học rồi quên ngay. Tất nhiên kết quả đạt được như trên là nhờ rất nhiều yếu tố. Chẳng hạn như sự chuyên cần của học sinh, sự hợp tác tốt của các em với giáo viên trong giờ học,… nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận việc nắm vững kiến thức của các môn học khác có liên quan của giáo viên Văn đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành kiến thức cho học sinh, giúp các em hứng thú hơn trong việc tiếp cận tác phẩm văn học. Và quan trọng hơn hết là góp phần đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực, nâng cao được chất lượng bài làm của học sinh, tạo sự chuyển biến về nhận thức của học sinh trong việc học Văn, tránh được xu hướng học lệch sang các môn tự nhiên như hiện nay. *Bảng thống kê cuối năm như sau: Lớp Sĩ Giỏi SL % số 10a3 42 03 7,1% 10a4 41 04 9,7% 11a1 40 04 10% 11a2 39 03 7,6% C. PHẦN KẾT LUẬN Khá SL % 14 20 18 15 33,3% 48,7% 45% 38,4% Trung bình SL % Yếu SL % Kém SL % 23 16 18 20 02 01 00 01 00 00 00 00 54,7% 39,8% 45% 51,2% 4,7% 2,4% 0% 2,5% V.ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG - Để thực hiện được điều này, trước hết giáo viên phải chịu khó tìm và nghiên cứu tài liệu của các môn học khác có liên quan; Các kiến thức được vận dụng cần phải chính xác, rõ ràng; Luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh, không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức môn học khác vào giảng dạy Văn học. -Việc dạy học theo nguyên tắc liên môn đòi hỏi giáo viên Văn không chỉ có kiến thức vững chắc về bộ môn mà còn phải nắm vững nội dung các môn học khác được giảng dạy ở trường phổ thông, trước hết là Lịch sử, Địa lí,... -Học sinh cũng phải có vai trò tích cực, chủ động trong việc học tập. Vì ở đây, các em huy động nhiều kiến thức đã học để hiểu biết sâu sắc, toàn diện một sự kiện, một vấn đề. Các em được củng cố, ôn tập, tổng hợp các kiến thức ở mức cao hơn và biết vận dụng một cách thông minh, linh hoạt vào việc học tập của mình. Kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn. -Thư viện trường nay đã đạt chuẩn, tuy nhiên cần phải có nhiều loại sách hay hơn, phong phú hơn, tạo cho học sinh và giáo viên một không gian đọc tốt hơn nữa. -Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử... -Nhà trường cũng nên tổ chức một sân chơi bổ ích cho thầy và trò như : Rung chuông vàng, Đường lên đỉnh Olympia...dưới hình thức lồng ghép, tích hợp các môn học với nhau. Nếu thực hiện tốt những điều trên, tôi khẳng định rằng mỗi giáo viên dạy Ngữ Văn đều có thể áp dụng phương pháp này vào quá trình giảng dạy và sẽ thu được kết quả như mong muốn. Việc kiến thức Văn học liên quan đến kiến thức các môn học khác đòi hỏi người giáo viên Văn phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí đôi khi đối lập nhau. Chẳng hạn trong bài tập văn cũng yêu cầu học sinh hiểu khái niệm đường thẳng, đường tròn… trong toán học, những thuật ngữ chuyên ngành của sinh học, thậm chí phải biết ngữ pháp tiếng nước ngoài để so sánh với ngữ pháp tiếng Việt, giúp học sinh khắc sâu kiến thức hơn. Chính vì vậy, có khi nhờ học Văn mà các em được củng cố thêm kiến thức của các môn học khác. Tôi nghĩ rằng học sinh đến trường là để học thì dù học của ai, học môn nào thì mục đích cuối cùng của các em cũng đã đạt được. Và những người làm công tác giáo dục như chúng ta cũng sẽ cảm thấy vui hơn khi đem đến kiến thức bổ ích cho người học. Với đề tài này, tôi hy vọng được chia sẻ với đồng nghiệp những điều mà tôi trăn trở mấy năm nay và mà tôi cho là thiết thực trong việc giảng dạy. Tất nhiên con đường đi đến thành công còn cần nhiều hơn nữa những kinh nghiệm thực tiễn, bản thân người viết còn phải học hỏi rất nhiều những kinh nghiệm quý báu của quý thầy-cô, những bậc bối đi trước. Rất mong nhận được những đóng góp chân thành và sự chia sẻ của quý đồng nghiệp. VI.TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập Ngữ Văn 10(tập I,II)- Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2015. 2.Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập Ngữ Văn 11(tập I,II)- Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2015. 3.Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I,II,III)- Nhà xuất bản Giáo dục. , năm 2012. 4.Sách giáo khoa, sách giáo viên Địa lí 10,11- Nhà xuất bản Giáo dục., năm 2012. 5.Sách giáo khoa, sách giáo viên Lịch sử 10,11- Nhà xuất bản Giáo dục., năm 2012. 6.http://violet.vn/. Người thực hiện Dương Thị Hiệp SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CÔÔNG HÒA XÃ HÔÔI CHỦ NGHĨA VIÊÔT NAM Đơn vị: Trường THPT Long Phước Đô Ôc lâ Ôp – Tự do – Hạnh phúc Long Phước, ngày 15 tháng 05 năm 2017 PHIẾU NHÂÔN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIÊÔM Năm học: 2016 – 2017 Tên sáng kiến kinh nghiê êm: Văn học trong lịch sử, địa lí Họ và tên tác giả: Dương Thị Hiệp Đơn vị (Tổ): Văn Lĩnh vực: Quản lí giáo dục  Phương pháp dạy bô ê môn: Ngữ văn.... Phương pháp giáo dục  Lĩnh vực khác……………………..… 1.Tính mới  Có giải pháp hoàn toàn mới   Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có  2. Hiê Ôu quả:  Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiê êu quả cao   Có tính cải tiến hoă êc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiê êu quả cao   Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiê êu quả cao   Có tính cải tiến hoă êc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiê êu quả  2. Khả năng áp dụng  Cung cấp được các luâ n cứ khoa học cho viê êc hoạch định đường ê lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt   Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiên và dễ đi vào cuô êc sống: Tốt  Khá  Đạt   Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiê êu quả hoă êc có khả năng áp dụng đạt hiê êu quả trong phạm vi rô êng: Tốt  Khá  Đạt  NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN ( Ký tên, ghi rõ họ và tên) Dương Thị Hiệp XÁC NHÂÔN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN ( Ký tên, ghi rõ họ và tên) Nguyễn Thanh Tùng THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ ( Ký tên, ghi rõ họ và tên) Nguyễn Văn Toàn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan