Tên tình huống:
KHI CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA BỊ XÂM PHẠM
I.
Mục tiêu giải quyết tình huống
1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc vận dụng kiến thức liên môn
để giải quyết tình huống thực tiễn.
- Việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực
tiễn nhằm giúp người học sinh biết suy nghĩ sâu hơn, rộng hơn.
Họ sẽ nhìn nhận một vấn đề của thực tiễn với nhiều khía cạnh
toàn diện hơn.
- Việc vận dụng kiến thức này còn khuyến khích chúng em biết
cách vận dụng kiến thức của các môn học khác nhau để giải quyết
tình huống thực tiễn, tăng cường khả năng tư duy phân tích, tổng
hợp, khả năng tự học của người học sinh.
- Gắn lí thuyết với thực hành và áp dụng vào thực tế đời sống.
2. Mục tiêu giải quyết tình huống.
- Đưa ra những kiến thức tổng quát đến người đọc, người nghe
hiểu rõ về chủ quyền của đất nước Việt Nam trên vùng biển đang
tranh chấp – biển Đông.
- Hiểu được những cách thức, hành vi mà Trung Quốc sử dụng trên
biển Đông để có biện pháp đấu tranh, tuyên truyền, nhắc nhở.
- Có những nhận thức đúng đắn về tình hình đang diễn ra trên vùng
biển và có hành động phù hợp để bảo vệ chủ quyền của nước ta.
II.
Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống.
- Qua các phương tiện thông tin truyền thông.
- Qua các bài học trong sách giáo khoa.
- Qua thực tiễn đời sống.
III. Giải pháp giải quyết tình huống.
Quá trình thực hiện:
Chúng em đã thực hiện đề tài này trong thời điểm vấn đề biển Đông đang rất căng
thẳng. Thời gi an để chúng em thực hiện đề tài là 06 tuần ( bao gồm 02 tuần
nghiên cứu tìm hiểu về đề tài, 02 tuần triển khai đề tài ở đơn vị lớp 11A9 –
Trường THPT Hoài Đức B, 02 tuần triển khai tại địa phương nơi cư trú của chúng
em là xã An Khánh và xã Đông La huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội). Khi triển
khai đề tài ở trường và ở địa phương chúng em chọn hình thức thảo luận, tuyên
truyền 02 buổi sinh hoạt chuyên đề/một tuần.
Các tư liệu được sử dụng:
1
Vận dụng kiến thức của các môn, các bài học cụ thể như sau:
- Ngữ văn:
+ Bài “Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt trong sách Ngữ văn lớp 7 tập 1
+ Bài “Bình ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi trong sách Ngữ văn lớp 10 tập 2
+ “Tuyên ngôn độc lập” – Hồ Chí Minh trong sách Ngữ văn lớp 12 tập 1
- Địa lí:
+ Bài 2 Địa lí 12: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ.
+ Bài 8 Địa lí 12: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển.
+ Bài 42 Địa lí 12: Vấn đề phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng ở biển Đông và
các đảo, quần đảo.
- Giáo dục công dân:
+ Bài 14 GDCD 10: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Giáo dục quốc phòng an ninh:
+ Bài 3 GDQP-AN 11: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.
+ Bài 1 GDQP-AN 10: Truyền thống đánh giặc giữ nước của đan tộc Việt Nam.
Kết hợp sử dụng thông tin của một số bài báo trên mạng Iternet.
Các thiết bị được sử dụng trong quá trình giải quyết tình huống:
- Máy vi tính có kết nối mạng.
- Máy ảnh.
- Tranh cổ động.
- Loa phát thanh.
- Máy quay phim.
- Sách giáo khoa:
+ GDQP-AN 10, 11
+ GDCD 10
+ Ngữ văn 7 – tập 1, 10 – tập 2, 12 – tập 1.
+ Địa lí 12
IV. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống.
1. Những hiểu biết cơ bản về biển đảo Việt Nam
Bài văn thuyết trình trình bày bằng máy chiếu:
Khái quát về biển đảo Việt Nam:
Bờ biển dài 3260 km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Như vậy cứ 100
km² thì có 1 km bờ biển (trung bình của thế giới là 600 km² đất liền/1km bờ
biển).
Bờ biển nước ta có thềm lục địa với diện tích trên 1 triệu km² (gấp 3 diện
tích đất liền: 1 triệu km²/330.000km²).
Trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng), Trường Sa (Khánh Hòa) và
2.577 đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và
làm chủ vùng biển.
2
Bản đồ Việt Nam
Vùng biển nước ta gồm 5 bộ phận: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
3
Vùng
Nội
thủy
Lãnh
hải
Vùng
tiếp
giáp
lãnh
hải
Ranh giới
Ý nghĩa
Ở phía trong đường cơ sở
Được xem như bộ phận lãnh
thổ trên đất liền
Lãnh hải Việt Nam có chiều rộng 12 Là đường biên giới quốc gia
hải lí (1 hải lí = 1852m). Xác định bởi trên biển
các đường song song cách đều đường
cơ sở về phía biển và đường phân định
trên các vịnh với các nước hữu quan
Rộng 12 hải lí
Nhà nước ta có quyền thực
hiện các biện pháp để bảo vệ
an ninh quốc phòng, kiểm
soát thuế quan...
Là vùng tiếp liền với lãnh hải và hợp Nước ta có chủ quyền hoàn
với lãnh hải thành một vùng biển rộng toàn về kinh tế nhưng các
nước khác được đặt ống dẫn
Vùng 200 hải lí tính từ đường cơ sở
dầu, dây cáp nguồn, máy bay
đặc
nước ngoài được tự do hoạt
quyền
động hàng hải và hàng không
kinh tế
theo công ước của Liên Hợp
Quốc về luật biển 1982
Thềm
lục địa
Là phần ngầm dưới biển và lòng đất Nhà nước ta có chủ quyền
dưới đáy biển thuộc phần lục địa kéo hoàn toàn về mặt thăm dò,
dài, mở rộng ra ngoài lãnh hải cho đến khai thác, bảo vệ...
bờ ngoài của rìa lục địa, có độ sâu
khoảng 200m hoặc hơn nữa
4
Sơ đồ khu vực biên giới biển và các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam
Tài nguyên thiên nhiên vùng biển:
- Tài nguyên khoáng sản:
+ Có trữ lượng lớn và giá trị nhất là dầu khí
+ Các bãi cát ven biển có trữ lượng titan là nguồn nhiên liệu quý cho ngành công
nghiệp
+ Muối vô tận
- Tài nguyên hải sản: sinh vật biển Đông giàu thành phần loài và có năng suất
sinh học cao, nhất là ở vùng ven biển.
+ Có hơn 2000 loài cá, hơn 100 loài tôm
+ Ven các đảo, nhất là ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có rặng san hô và
nhiều loài sinh vật quí hiếm
Ý nghĩa địa lí của vùng biển Việt Nam
- Biển có ý nghĩa to lớn để chúng ta phát triển và mở rộng giao lưu quốc tế. Tiềm
năng tài nguyên biển và vùng ven biển nước ta có ý nghĩa rất quan trọng đối với
sự nghiệp phát triển đất nước. Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên
các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương
và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông, Trung Quốc và Nhật Bản
với các nước trong khu vực. Có thể nói đó là cánh cửa rộng mở để cho ta vươn
ra đại dương bao la, nhằm chủ động hội nhập kinh tế với thế giới có hiệu quả.
- Vùng biển nước ta không những có vị trí quan trọng về kinh tế mà còn có vị trí
đặc biệt quan trọng về quân sự đối với các nước trong khu vực và trong chiến
lược của các nước lớn, nó là biên giới phía Đông, là đường tiếp cận, bàn đạp tiến
5
công, uy hiếp, phong toả và phá hoại nhiều mặt của các thế lực xâm lược. Quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thềm lục địa phía Nam có vị trí tiền tiêu, tạo thành
vòng cung án ngữ bảo vệ tổ quốc ở phía Đông. Lịch sử cho thấy rằng trong 14
cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù đối với nước ta, thì có 10 cuộc bắt đầu từ
hướng biển.
2.
Tình hình, diễn biến trên vùng biển thuộc chủ quyền đất nước ta
Bài văn trình bày một vấn đề:
Tình hình, diễn biến trên vùng biển thuộc chủ quyền đất nước ta vào tháng 5 năm
2014:
- Đầu tháng 5 năm 2014, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan Hải
Dương 981 (HD-981) bằng một đội tàu hải quân vào khu vực biển Đông gần
quần đảo Hoàng Sa, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
và thềm lục địa của Việt Nam.
Giàn khoan HD-981
- Ngày 3 tháng 5, Cục Hải sự Trung Quốc đăng cảnh báo tàu thuyền trong ba
tháng không tiếp cận phạm vi bán kính 1 hải lý quanh giàn khoan. Phạm vi này
được tăng gấp ba lên 3 hải lý từ ngày 5 tháng 5 sau khi chúng ta chính thức lên
tiếng phản đối
- Việt Nam đã cử 29 tàu tới các khu vực gần giàn khoan Hải Dương 981 của
Trung Quốc, khi nhận thấy giàn khoan này định "thiết lập vị trí cố định". Chiều
ngày 17 tháng 5, 1 tàu cá của ngư dân Lý Sơn lúc đang đanh cá tại vùng biển
Việt Nam cách giàn khoan của Trung Quốc khoảng 20 hải lý, thì bị tàu Trung
Quốc rượt đuổi và cướp hết tài sản. Trưa 18 tháng 5, tàu cá QNg 90205 TS với
14 ngư dân Quảng Ngãi bị lực lượng ngư chính Trung Quốc chặn lại và hai ngư
6
dân bị hành hung. Bên cạnh đó, Trung Quốc tiếp tục cấm ngư dân Việt Nam
đánh cá tại vùng gần vị trí đặt giàn khoan và trong vùng “Đường 9 đoạn”
- Phía Trung Quốc từ ngày 02 cho tới 07 tháng 05 đã dùng những tàu chiến đâm
húc nhiều lần và phun nước áp lực cao làm hư hại 8 tàu Kiểm ngư Việt Nam. Có
sáu kiểm ngư viên Việt Nam bị mảnh kính văng vào gây thương tích phần mềm.
Nhưng trong cuộc họp báo ngày 8 tháng 5, Trung Quốc đã tố cáo Việt Nam đã
huy động 36 tàu các loại và chủ động đâm vào tàu Trung Quốc tổng cộng 171
lần từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 5.
Tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam
- Ngày 8 tháng 5 năm 2014, theo như Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, đã có
thêm hai tàu tuần tiễu tấn công nhanh 753 và tàu hộ vệ tên lửa 534 của Trung
Quốc hoạt động tại khu vực giàn khoan Hải Dương 981.
- Ngày 15 tháng 5 năm 2014, theo lực lượng Kiểm ngư Việt Nam số tàu Trung
Quốc đã tăng lên 99 tàu gồm: 38 tàu chấp pháp, 19 tàu phục vụ, 8 tàu kéo, 4 tàu
chiến, 30 tàu cá vỏ sắt và các máy bay tuần thám.
- Ngày 15 tháng 5 năm 2014, trong cuộc họp báo ở Lầu Năm Góc tổng tham mưu
trưởng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tướng Phòng Phong Huy cho
biết Trung Quốc sẽ tiếp tục duy trì hoạt động và bảo vệ giàn khoan dầu Hải
Dương-981. Theo ông Phòng vị trí đặt giàn khoan nằm bên trong lãnh hải Trung
Quốc.
- Ngày 16 tháng 5 năm 2014, Trung Quốc tăng số tàu hiện diện tại khu vực đặt
giàn khoan Hải Dương 981 lên 126 tàu
7
Tàu Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu Việt Nam
3.Biển đảo Việt Nam về phương diện Lịch sử:
Bài văn thuyết minh: Biển đảo Việt Nam về phương diện Lịch sử
a. Những tư liệu Lịch sử trong nước:
Vua Gia Long nhiều lần phái quân ra Hoàng Sa để khảo sát thủy trình
Gia Long là vị vua đầu tiên của Vương triều Nguyễn. Trong 18 năm trị vì
đất nước (1802 – 1820), dù có nhiều công việc phải làm để củng cố vương triều
nhưng Vua Gia Long cũng không quên việc phái quân ra biển, đảo để khẳng định
chủ quyền trên biển mà nổi bật là những việc làm của ông tại quần đảo Hoàng Sa.
8
Sách “Đại Nam thực lục” cho thấy: Vua Gia Long đã cho Võ Văn Phú mộ dân
bổ sung vào đội Hoàng Sa
Nhận thức được vai trò to lớn của vùng lãnh hải đối với sự tồn tại của
vương triều, Vua Gia Long có cách nhìn thấu đáo đối với các quần đảo, trong đó
có quần đảo Hoàng Sa. Hải đội Hoàng Sa vốn được thành lập từ thời các chúa
Nguyễn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh hải và khai thác các sản vật biển.
Trước thời Gia Long lực lượng chủ yếu của Hải đội Hoàng Sa là những người ở
các xã An Vĩnh, An Hải và An Kỳ (tỉnh Quãng Ngãi). Đến thời ông nhà vua đã
cho lấy thêm người dân tại các địa phương khác bổ sung vào Đội Hoàng Sa để
củng cố thêm sức mạnh của đội quân này nhằm đối phó với những biến cố có thể
xảy ra trên vùng lãnh hải.
Thời Vua Gia Long Đội Hoàng Sa mạnh hơn cả về vai trò lẫn tổ chức hoạt
động. Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 22, năm Gia Long
thứ 2 (1803) có chép: “Tháng 7, lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa
Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”.
9
Sách “Đại Nam thực lục” nói về việc Vua Gia Long phái Phạm Quang Ảnh
và đội Hoàng Sa ra thăm dò đường biển.
Bên cạnh việc chỉnh đốn Đội Hoàng Sa, Triều Nguyễn nói chung và Vua
Gia Long nói riêng đã thấy được sự cần thiết việc hành trình ra Hoàng Sa bởi đây
là nơi ở xa đất liền. Vì vậy nhà vua đã cho quân ra thăm dò, khảo sát lộ trình ra
quần đảo này. Đây là việc làm thể hiện tầm nhìn xa, vì Hoàng Sa là một quần đảo
tiền tiêu nằm ở phía đông có liên quan đến chủ quyền của đất nước. Gia Long
xem Hoàng Sa như một tấm bình phong che chắn những cuộc tấn công của các
thế lực từ phía biển.
Việc khảo sát thủy trình ra Hoàng Sa có mục đích lâu dài và trên hết đó là
việc tối quan trọng để giữ vững được quần đảo này. Sách “Đại Nam thực lục
chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 50, năm Gia Long thứ 14 (1815) chép rằng:
“Tháng 2, sai đội Hoàng Sa là những người của Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng
Sa thăm dò đường biển”.
10
Sách “Đại Nam thực lục” chép Vua Gia Long cử đội thủy quân ra đảo Hoàng
Sa đo đạc thủy trình.
Công việc thăm dò đường thủy ra Hoàng Sa không chỉ làm trong một thời
gian ngắn mà được kéo dài qua nhiều năm bởi đây là việc làm khó khăn. Trong
quá trình hoạt động của Đội Hoàng Sa, thăm dò đường biển là nhiệm vụ bắt buộc
vì đó không chỉ tạo thuận lợi cho để khai thác sản vật mà còn rất quan trọng để
triều đình đối phó khi Hoàng Sa có những biến cố xảy ra. Đội Hoàng Sa thực hiện
những công việc theo sự chỉ đạo của triều đình và mỗi khi làm xong nhiệm vụ tại
Hoàng Sa và các vùng biển khác, Hải đội Hoàng Sa phải báo cáo công việc với
triều đình. Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 52, năm Gia
Long thứ 15 (1816) ghi rõ: “Tháng 3, sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra
Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”.
Trong thời gian giữ ngôi, Vua Gia Long đã 3 lần phái quân ra Hoàng Sa
thực hiện việc đo đạc thủy trình. Những việc làm của ông khẳng định tính thống
nhất toàn vẹn của vương triều và phần biển đảo không thể tách rời với đất liền.
11
Vương triều Nguyễn với những đối sách với thuyền buôn nước ngoài ở
Hoàng Sa:
Hoàng Sa là quần đảo có vị trí chiến lược quan trọng trong cương giới
thống nhất của vương triều Nguyễn. Hầu hết các vua triều Nguyễn đều rất quan
tâm đến Hoàng Sa vì đây là quần đảo tiền tiêu che chắn cho phần đất liền. Hơn
nữa, Hoàng Sa còn là nơi nhiều thuyền buôn của các nước khác qua lại buôn bán.
Vì thế, ngay từ thời các chúa Nguyễn đã cho lập Hải đội Hoàng Sa với
nhiệm vụ bảo vệ và đề phòng những biến cố trên quần đảo này. Một trong chính
sách của triều Nguyễn thời bấy giờ là không muốn mở cửa cho người nước ngoài
mà lịch sử vẫn gọi là chính sách “Bế quan tỏa cảng” nhưng trên quần đảo Hoàng
Sa lại có những điểm khác biệt. Hoàng Sa là quần đảo nằm ở vị trí trung chuyển
giao thông quan trọng trên biển. Vì vậy, đây là nơi qua lại của nhiều thuyền buôn
nước ngoài ghé qua trong quá trình giao thương với nước ta và các nước trong
khu vực. Triều Nguyễn có những thái độ tích cực nhưng luôn đặt quan điểm về
chủ quyền đối với những thuyền buôn nước ngoài ở Hoàng Sa. Điều đó thể hiện
bằng những việc làm cụ thể.
Sách “Đại Nam thực lục” phản ánh việc Vua Minh Mạng cho giúp đỡ
tàu nước Anh bị nạn mắc cạn ở Hoàng Sa năm 1836.
Mộc bản triều Nguyễn đang bảo quản tại Trung Tâm Lưu trữ Quốc gia IV
(Đà Lạt) là tư liệu đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản tư
liệu thế giới và được đưa vào chương trình “Ký ức thế giới”. Đây là nguồn tư liệu
có giá trị và có tính chính xác cao. Qua khối mộc bản triều Nguyễn cho ta thấy
một bức tranh toàn cảnh về thái độ của vương triều Nguyễn đối với thuyền buôn
của người phương Tây tại quần đảo Hoàng Sa. Một trong những việc mà vương
triều Nguyễn rất chú trọng là việc vẽ bản đồ Hoàng Sa. Không những đội Hoàng
12
Sa có nhiệm vụ này mà ngay cả thuyền buôn của các nước nếu vẽ được bản đồ
Hoàng Sa cũng được triều đình trọng thưởng.
Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lụcA chính biên đệ nhất kỷ”,
quyển 55, năm Gia Long thứ 16 (1817) chép: “Tháng 6, thuyền Mã Cao đậu Đà
Nẵng, đem địa đồ đảo Hoàng Sa dâng lên. Thưởng cho những người trên thuyền
Mã Cao 20 lạng bạc”.
Việc thưởng bạc cho thuyền buôn Mã Cao khi đem địa đồ Hoàng Sa dâng
lên triều đình đã cho thấy triều Nguyễn rất coi trọng đến công việc vẽ bản đồ
Hoàng Sa vì đây là công việc quan trọng phục vụ cho quá trình khảo sát thủy
trình. Việc triều đình cho các thuyền buôn nước ngoài đến Hoàng Sa cũng là xu
hướng phát triển chung về tình hình giao thương thời bấy giờ. Bên cạnh việc
thưởng cho các thuyền buôn nước ngoài có công trạng với Hoàng Sa thì triều
Nguyễn cũng có những việc làm để giúp các thuyền buôn không gặp khó khăn
khi ghé qua quần đảo Hoàng Sa.
Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”,
quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: Vua bảo bộ Công rằng: “Trong
hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không
phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị
thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây
cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi
được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.
Hoàng Sa là một quần đảo xa đất liền và nằm giữa biển khơi. Ở nơi đầu
sóng ngọn gió này cũng tiềm ẩn nhiều những rủi ro đối với các thuyền buôn nước
ngoài. Mộc bản triều Nguyễn đã phản ánh một số thuyền buôn đã bị nạn tại
Hoàng Sa. Hai nguyên nhân chính làm thuyền buôn bị nạn là những cơn bão và
nạn mắc cạn. Khi thuyền buôn gặp nạn tại Hoàng Sa, triều Nguyễn đã giúp đỡ về
nhiều mặt để giúp các thuyền buôn nước ngoài khắc phục khó khăn. Đó là việc
làm thể hiện tinh thần hòa hiếu và sự tương trợ của vương triều Nguyễn với người
nước ngoài cho dù nhà Nguyễn thực hiện chính sách đóng cửa với bên ngoài
nhưng cũng không thể thờ ơ trước việc thuyền buôn các nước gặp nạn tại Hoàng
Sa.
Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ",
quyển 176, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền
buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và
đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định. Vua được tin, dụ
tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông
ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu
không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói:
Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hóa. Thật
rất đáng khen. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ
hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tùy tùng mỗi người 1 bộ áo
13
quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn
Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.
Từ những việc làm đối với các thuyền buôn khi đi qua Hoàng Sa cho thấy
một thái độ hòa hiếu của vương triều Nguyễn. Việc giao thương với bên ngoài có
những chính sách cứng rắn nhưng vương triều Nguyễn luôn khuyến khích và giúp
đỡ các thuyền buôn khi có những việc làm tốt liên quan đến Hoàng Sa. Thông
qua các sách chính sử cũng chưa thấy phản ánh những tranh chấp của các thuyền
buôn và nhà Nguyễn về lợi ích và chủ quyền tại Hoàng Sa vì các thuyền buôn
biết rằng đây là lãnh thổ riêng của triều Nguyễn và vương triều Nguyễn được
quyền làm những công việc trên quần đảo này. Triều Nguyễn có chủ quyền riêng
đối với quần đảo Hoàng Sa và thái độ hợp tác hay không hợp tác với các thuyền
buôn của nước ngoài cũng nằm trong khả năng của triều Nguyễn. Thực tế cho
thấy, triều Nguyễn đã có những việc làm cụ thể thể hiện tinh thần tương trợ và
luôn sẵn lòng giúp đỡ những thuyền buôn nước ngoài gặp nạn tại Hoàng Sa
nhưng không bao giờ để các nước thao túng những việc ở Hoàng Sa vì đó là phần
lãnh thổ không thể tách rời của triều Nguyễn.
Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1838, đã vẽ "Hoàng Sa", "Vạn
lý Trường Sa" thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền
Trung Việt Nam.
14
Căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử của Việt Nam về hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa (Thời kỳ từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đến
Chiến thắng Mùa xuân 1975):
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Pháp quay lại Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1946, Pháp đưa một phân đội bộ binh đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza trở
lại Hoàng Sa. Dựa trên Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam, 4 tàu chiến của
Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên quần đảo với lý do giải giáp quân Nhật trong năm
1946. Ngày 17 tháng 1 năm 1947, pháo hạm Le Tonkinois của Hải quân Pháp đến
quần đảo Hoàng Sa để đòi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi đây và đã tiếp
quản quần đảo Hoàng Sa sau khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút quân vào tháng
4 năm 1950.
Ngày 7/9/1951, tại Hội nghị San Francisco về việc ký hòa ước với Nhật
Bản, ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Chính phủ miền Nam
Việt Nam thời đó trong phát biểu của mình, tiếp tục khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo: “… và cũng vì cần phải lợi dụng tất cả mọi cơ hội
để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ
quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Spratlys (Trường Sa) và
Paracels (Hoàng Sa), tạo thành một phần của Việt Nam”. Lời tuyên bố này của
Thủ tướng Trần Văn Hữu không bị bất cứ phái đoàn nào trong tổng số 51 quốc
gia tham dự hội nghị phản đối. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội
nghị. Đây là những cơ sở luật pháp rất quan trọng mà Trung Quốc không thể phủ
nhận.
Hội nghị Geneva 1954 với sự tham dự của 9 quốc gia, gồm 5 cường quốc:
Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc đã minh thị xác nhận chủ quyền của
Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hiệp định Geneva ký ngày
20/7/1954.
15
Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa
(1961)
Tháng 4/1956, Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính
quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Chính quyền VNCH đã đưa quân ra thay thế
quân Pháp trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và đóng quân trên hai quần đảo,
đảm nhiệm việc quản lý hai quần đảo theo đúng trách nhiệm mà Hiệp định
Geneva năm 1954 về việc Việt Nam Cộng hòa được trao quyền quản lý tạm thời
nửa nước Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào trong khi chờ đợi thống nhất đất nước
bằng tổng tuyển cử tự do. Trong thời gian này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã luôn khẳng
định và duy trì các quyền chủ quyền của mình một cách liên tục và hòa bình đối
với hai quần đảo bằng các hoạt động nhà nước (do Hoàng Sa và Trường Sa nằm
phía trong vĩ tuyến 17 theo đúng Hiệp định Geneva)
16
Bia chủ quyền của Việt Nam trên đảo Song Tử Tây (1956)
Ngày 20/10/1956, Tổng thống chính quyền Sài Gòn đã ra Sắc lệnh số 143NV về thay đổi địa giới các tỉnh, thành phố miền Nam, trong đó đã đặt quần đảo
Trường Sa vào địa phận tỉnh Phước Tuy. Trong Sắc lệnh số 174-NV ngày
13/7/1961 về việc sắp xếp lại quần đảo Hoàng Sa, Tổng thống chính quyền Sài
Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước thuộc tỉnh Thừa Thiên vào tỉnh Quảng Nam và
thành lập tại đây một đơn vị hành chính gọi là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang,
tỉnh Quảng Nam. Từ 1961 đến 1963, chính quyền Sài Gòn lần lượt cho xây bia
chủ quyền ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa: Trường Sa, An Bang, Song
Tử Tây, Song Tử Đông, Thị Tử, Loại Ta. Nghị định số 709-BNV-HCDP-26 ngày
21/10/1969 của Thủ tướng chính quyền Sài Gòn, sáp nhập xã Định Hải (quần đảo
Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Nghị định số
420-BNV-HĐP/26 ngày 06/9/1973 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính quyền Sài
Gòn thi hành Quyết định của Hội đồng Nội các ngày 9/01/1973, quyết định sáp
nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại
Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất
Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Tuy nhiên, trong năm 1956, khi chính quyền VNCH chưa kịp đưa quân ra
thay thế quân Pháp trên quần đảo Hoàng Sa thì Trung Quốc đã bí mật đưa quân ra
chiếm đóng các đảo thuộc nhóm phía Đông của quần đảo này. Ngày 11/7/1956,
17
lực lượng vũ trang của Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên đảo Ba Đình, thuộc quần
đảo Trường Sa và duy trì 1 căn cứ hải quân nhỏ với 1 tiểu đoàn lính hải quân ở
đây. Chính quyền VNCH đã kịch liệt phản đối. Năm 1959, quân Trung Quốc giả
làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Quân đội VNCH
đã phát hiện ngăn chặn và bắt giữ 82 “ngư dân” Trung Quốc. Tiếp đến ngày
19/01/1974, Trung Quốc dùng không quân và hải quân đánh chiếm nhóm đảo
phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam do chính quyền VNCH đóng giữ.
Cùng ngày, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm
phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; ngày 20/01/1974, Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra bản tuyên bố phản đối hành động
này của phía Trung Quốc. Ngày 14/02/1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn
công bố sách trắng về các quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 5 và 6/5/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam thông báo việc giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa do quân đội
Sài Gòn đóng giữ. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Tháng 9/1975, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị khí tượng ở Colombo tuyên bố quần đảo
Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức khí tượng thế giới tiếp tục ghi tên
trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam (trước đây đã được đăng ký trong hệ
thống các trạm của OMM dưới biểu số 48.860) trong danh mục trạm khí tượng
của Tổ chức khí tượng thế giới.
b. Những tư liệu lịch sử nước ngoài:
Đã có rất nhiều luật gia, nhà nghiên cứu lâu năm, chuyên gia về biển ở Việt
Nam cũng như trên thế giới viết về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và
những tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo. Có thể nêu ra ở đây tác giả
Marwyn S. Samuels với cuốn sách “Tranh chấp Biển Đông” dày 225 trang, do
nhà xuất bản METHUEN, NEWYORK AND LONDON ấn hành năm 1982,
trong phần đầu của cuốn sách tác giả đã nói tới những hoạt động của Trung Quốc
trên khu vực Biển Đông và kết luận rằng trong lịch sử người Trung Quốc tuy có
các chuyến “du hành” đường dài để phát triển buôn bán cùng tham vọng khống
chế các tuyến vận tải đường biển, nhưng tham vọng này đã dần dần “chìm vào dĩ
vãng” kể từ thế kỷ XV khi các quốc gia hùng mạnh của Châu Âu như Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan tăng cường giao thương trong khu vực này. Một cuốn
sách khác phải kể đến nhiều hơn có tên là “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa” do Nhà xuất bản L’Harmattan Paris ấn hành năm 1996, của bà
Monique Chemillier-Gendreau, Giáo sư công pháp và khoa học chính trị trường
Đại học Paris VII, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch
Hội Luật gia Châu Âu.
18
Cuốn sách dầy gần 300 trang của bà là một công trình nghiên cứu công
phu, độc lập và kéo dài nhiều năm, trong đó bà đã nói đến những chứng cứ lịch
sử và đánh giá lập luận của các bên, chủ yếu là Trung Quốc và Việt Nam, liên
quan đến hai quần đảo, rồi dựa trên việc áp dụng luật pháp và thực tiễn quốc tế để
đưa ra những phân tích sâu sắc về vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo. Bà
viết “qua việc xem xét kỹ lưỡng các tài liệu do người Trung Quốc nêu ra thì thấy
rằng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng Trung Quốc
có lẽ là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản hạt hai quần đảo
này”. Trong thời gian ở Pháp tháng 5/2008, người viết bài này đã có dịp gặp giáo
sư Monique và được nghe bà kể rằng, sau khi bà cho xuất bản cuốn sách nói trên,
phía Trung Quốc đã liên hệ với bà, mời bà sang thăm Trung Quốc và hứa sẽ cho
bà xem những bằng chứng lịch sử của phía Trung Quốc để phản bác lại những
phân tích và đánh giá của bà. Sau đó không lâu, bà đã sang Bắc Kinh (TQ) nhưng
những người tiếp bà chỉ là các quan chức chính phủ và không có ai đưa ra được
bằng chứng lịch sử nào để bác lại những dẫn chứng mà bà đã nêu trong cuốn
sách.
Một người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, tiến sĩ luật Đại học
Sorbonne (Pháp) Từ Đặng Minh Thu cũng bỏ ra một thời gian dài thu thập tài
liệu, nghiên cứu và có một chuyên đề cùng tên với cuốn sách của bà Monique.
Chuyên đề này được trình bày tại Hội thảo hè về “Vấn đề tranh chấp Biển Đông”
19
tổ chức tại New York City tháng 8/1998, sau đó được đăng trên số 11, tháng
7/2007 của tạp chí nghiên cứu và thảo luận “THỜI ĐẠI MỚI”, trong đó ông đã
phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc để đưa ra những kết luận về cơ
sở và thời gian thực hiện chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng tại Hội thảo này, Luật gia Đào Văn Thuỵ, sống tại Paris đã có bài tham luận
với tựa đề “Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền trên hai quần
đảo Hoàng sa, Trường Sa và luật quốc tế”. Tham luận này cũng được đăng trên
tạp chí “THỜI ĐẠI MỚI” số 11, tháng 7/2007. Tác giả đã bàn về những “chứng
cứ lịch sử” do phía Trung Quốc đưa ra, phân tích những điểm mập mờ, không
chính xác, thậm chí mâu thuẫn trong các lập luận của Trung Quốc, đồng thời so
sánh với những chứng cứ lịch sử rõ ràng, rành mạch trong lập luận do Việt Nam
đưa ra để chứng minh Việt Nam là quốc gia đầu tiên xác lập và thực hiện chủ
quyền liên tục đối với hai quần đảo.
3. Phương án đưa ra để giải quyết:
Bài văn trình bày một vấn đề: Phương án để giải quyết tình huống
“Khi chủ quyền biển đảo bị xâm phạm”:
Chúng ta cần tổ chức chỉ huy chặt chẽ, tăng cường nhiều tàu của lực lượng
kiểm ngư, cảnh sát biển từ căn cứ ra thực địa để đấu tranh bảo vệ chủ quyền của
ta.
Tiếp tục bám trụ kiên cường trên thực địa, tiếp cận phản đối, kết hợp nhiều
biện pháp như tuyên truyền luật pháp nhằm ngăn cản, làm chậm tiến độ triển
khai giàn khoan của phía Trung Quốc.
-
Cung cấp đầy đủ những phương tiện cho người dân khi ra khơi giữ biển
Cần phải ứng phó một cách linh hoạt, bình tĩnh nhằm vừa giữ được chủ
quyền của ta, vừa duy trì được quan hệ hợp tác với Trung Quốc và môi trường
hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Với các đối tác quốc tế khác: Chủ động nêu vụ giàn khoan HD-981 và tàu
đánh cá gần đây tại các cuộc thăm, tiếp xúc của các lãnh đạo cấp cao, đưa vấn
đề ra các diễn đàn khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc, Hội nghị thường niên các quốc gia thành viên Công ước luật
biển, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với lập trường chính nghĩa của ta.
Tổ chức các cuộc hội thảo bàn luận về tình hình biển Đông đối với mọi
người trong nước và ngoài nước cùng với sự tham gia của các nhà chính trị học,
kinh tế học.
Hạn chế phụ thuộc vào Trung Quốc, chủ động trong khâu chế biến và xuất
khẩu, tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế thị trường với các nước như Nhật Bản,
Mĩ để trao đổi, buôn bán hàng hóa, khẳng định uy tín, chất lượng sản phẩm của
Việt Nam.
20
- Xem thêm -