Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo GDCD-GDNGLL Skkn vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “ công dân với đạo đức” ...

Tài liệu Skkn vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “ công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh

.DOC
57
1278
69

Mô tả:

1 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH Mã số…… SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN “ CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH Người thực hiện: NGUYỄN THỊ THU VÂN Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy môn GDCD Năm học: 2012- 2013 2 SƠ YẾU LÝ LỊCH KHOA HỌC I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN: 1 . Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Vân 2. Sinh ngày 18 tháng 01 năm 1982 3. Giới tính: Nư 4. Địa chỉ: 7/57- KP3 - Biên Hoà – Đồng Nai 5. Điê ên thoại: 0977250460 6. Chức vụ: Giáo viên 7. Đơn vị công tác : Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh II. TRÌNH ĐÔÔ ĐÀO TẠO : - Trình đô ê chuyên môn: Cử nhân - Năm nhâ nê bằng: 2005 - Chuyên nghành đào tạo: GDCD III: KINH NGHIÊÔM KHOA HỌC : - Bảy năm kinh nghiệm 3 MỤC LỤC Trang A. MỞ ĐẦU......................................................................................................4 B. NỘI DUNG..................................................................................................9 Chương 1. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 LÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH........................................................................9 1.1. Lý luận chung về phương pháp dạy học nêu vấn đề..................................9 1.2. Sự cần thiết vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh..........................14 1.3. Tình hình vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.....................................20 Chương 2. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH…........................................................................................................24 2.1. Định hướng cách tiến hành vận dụng phương pháp nêu vấn đề..............24 2.2. Thiết kế một số giáo án vận dụng phương pháp nêu vấn đề....................26 C. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI THỰC HIỆN VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ DẠY PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”…………………………………………………………………...........49 KẾT LUẬN……………………………………………………………..........52 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................………….53 PHỤ LỤC…………………………………………………………………….53 4 A. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh CNH, HĐH với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là nguồn lực của người Việt Nam với sự phát triển toàn diện. Hơn bao giờ hết, ngành giáo dục và đào tạo giư vị trí quan trọng, là một quốc sách hàng đầu có nhiệm vụ tạo ra nhưng con người mới với đầy đủ nhưng phẩm chất và năng lực, có đức và tài, tích cực và sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đứng trước yêu cầu của xã hội, luật giáo dục (2005) đã chỉ rõ: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [16, 23] Trong nhưng năm gần đây, giáo dục phổ thông có nhưng chuyển biến tích cực, đặt biệt là nhưng đổi mới về phương pháp dạy học. Trên cơ sở phương pháp dạy học truyền thống, chúng ta đã và đang áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, trong đó có phương pháp nêu vấn đề. Phương pháp nêu vấn đề thực tế đã khắc phục nhưng hạn chế của phương pháp dạy học cũ, đồng thời khơi dậy, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống, kích thích tư duy và tinh thần hợp tác xây dựng bài của các em. Vận dụng phương pháp nêu vấn đề đặc biệt cần thiết đối với môn GDCD, thực tế đây là môn học rất quan trọng trong nhà trường phổ thông, có “vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh”. Tuy nhiên hiện nay, việc nhận thức hoặc đánh giá không đúng về vị trí của môn học vẫn còn là một tình trạng khá phổ biến. Không ít người vẫn còn có nhưng nhận thức, 5 quan niệm lệch lạc khi cho rằng GDCD chỉ là môn phụ, hoặc đồng nhất môn GDCD với môn chính trị hoặc đạo đức thuần túy. Không ít nhưng giáo viên dạy qua loa, chiếu lệ, thiếu sự đổi mới về phương pháp dạy học. Đó chính là nguyên nhân khiến môn học chưa thực sự phát huy được vai trò của mình trong việc giáo dục nhân cách học sinh. Mặt khác, dưới sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, tình trạng đạo đức của học sinh có sự xuống cấp. Lối sống thực dụng, buông thả, thiếu ước mơ, hoài bão, sự vi phạm pháp luật ngày càng tăng ở lứa tuổi học trò. Bên cạnh đó, nhưng tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào học đường hủy hoại thể lực, trí tuệ, đạo đức của các em. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức đúng vị trí và mục tiêu của môn GDCD và phải vận dụng một cách khoa học các phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy học nêu vấn đề nhằm biến nhưng tri thức vốn khô khan, trừu tượng, khó hiểu của môn học thành tình cảm, lẽ sống, lý tưởng, niềm tin ở học sinh, thôi thúc các em hành động theo lẽ phải và không ngừng nỗ lực phấn đấu để tự hoàn thiện bản thân, vươn tới các giá trị “chân- thiện-mĩ”. Xuất phát từ nhưng lý do trên, tác giả chọn vấn đề Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10 nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các nhà giáo dục trên thế giới cũng như Việt nam đã có nhưng công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học nêu vấn đề.Trong cuốn Những cơ sở của dạy học nêu vấn đề, V.Ôkôn đã nghiên cứu vấn đề các điều kiện để xuất hiện các tình huống có vấn đề trong dạy học. I.I.Lecne đã phân tích bản chất dạy học nêu vấn đề, cơ sở, tác dụng và phạm vi áp dụng phương pháp nêu vấn đề trong cuốn Dạy học nêu vấn đề. Các nhà giáo dục tên tuổi như M.I.Makhơnutốp, M.A.Đanhilốp hay B.P.Exicpốp đã phân tích các tình huống có vấn đề trong dạy học và xây dựng quy trình dạy học nêu vấn đề. 6 Ở nước ta, vấn đề dạy học nêu vấn đề cũng được các nhà khoa học, các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu như: Nguyễn Cảnh Toàn, học và cách dạy học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004; Vũ Văn Tạo, Dạy – học giải quyết vấn đề, một hướng đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, huấn luyện, Trường quản lý giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 1996. Các công trình này đã đề cập các khía cạnh khác nhau của phương pháp dạy học nêu vấn đề. Các công trình trên đã đề cập đến bản chất, vai trò, quy trình, giải pháp vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy một số phần của môn GDCD ở trường THPT. Vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh được các tác giả quan tâm nghiên cứu như: NguyÔn NghÜa D©n, §æi míi ph¬ng ph¸p d¹y häc m«n ®¹o ®øc vµ Gi¸o dôc c«ng d©n; Lª ThÞ Lan, Quan hÖ gi÷a c¸c gi¸ trÞ truyÒn thèng vµ hiÖn ®¹i trong x©y dùng ®¹o ®øc. Nhà giáo dục Phạm Minh Hạc, trong nhiều công trình nghiên cứu của mình về đạo đức đã nhấn mạnh đến vấn đề cấu trúc của nhân cách, cũng như nhấn mạnh vai trò của giáo dục đạo đức trong quá trình và phát triển nhân cách. Phạm Tất Dong đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giưa hoạt động giáo dục hướng nghiệp giáo dục lao động, dạy nghề với mục tiêu giáo dục đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ. Hà Thế Ngư chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học, nhất là các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho học sinh. Như vậy, các tác giả ở nhiều góc độ khác nhau đã đề cập các vấn đề về phương pháp dạy học, phương pháp nêu vấn đề trong dạy học, cũng như giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, học sinh. Tuy nhiên, vấn đề vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10 THPT nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống. Các công trình của các tác giả trong và ngoài nước tạo cơ sở lý luận để tác giả tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu, thực hiện đề tài của mình. 7 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề, tác giả đưa ra quy trình và thiết kế một số tiết dạy áp vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10 nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ sự cần thiết phải vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. - Đánh giá thực trạng vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” ở các trường THPT - Xây dựng quy trình và thiết kế giáo án vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu phương pháp nêu vấn đề vận dụng trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10. - Đề cập một phần ở một số bài cụ thể trong phần “Công dân với đạo đức” thuộc chương trình GDCD lớp 10. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục; dựa trên cơ sở nội dung chương trình SGK môn GDCD, SGV môn GDCD, nhưng tài liệu hướng dẫn, bồi dưỡng GV giảng dạy môn GDCD và các văn bản chỉ đạo quá trình dạy - học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thực nghiệm sư phạm; phương pháp thống kê xã hội học, v.v.. 6. Ý nghĩa đề tài 8 Sáng kiến kinh nghiệm sẽ góp phần sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy môn GDCD, giúp cho quá trình giảng dạy môn học này ngày càng đạt hiệu quả cao hơn; đồng thời góp phần vào công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh các trường THPT. 9 B. NỘI DUNG Chương 1 VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 LÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH 1.1. Lý luận chung về phương pháp nêu vấn đề 1.1.1. Các quan điểm về phương pháp nêu vấn đề Dạy học nêu vấn đề và nhưng công trình nghiên cứu về nó bắt đầu xuất hiện vào nhưng thập niên 50 - 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên dạy học nêu vấn đề với tính chất một hệ thống giảng dạy là một hiện tượng mới về nguyên tắc. Bàn về phương pháp dạy học nêu vấn đề, các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục trong và ngoài nước đã đưa nhiều quan niệm khác nhau: I.F Khalarmov cho rằng: “dạy học nêu vấn đề là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra các tình huống có vấn đề, nhằm kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết các vấn đề đó để lôi cuốn các em tham gia vào hoạt động nhận thức, nhằm tự lực nắm vưng kiến thức, kỹ năng kỹ xảo mới, phát triển tính tích cực nhận thức, đồng thời hình thành năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội các thông tin khoa học mới” [10; 34] Nhà giáo dục Ba Lan V.Ôkon cho rằng: Dạy học nêu vấn đề là toàn bộ các hoạt động như tổ chức các tình huống có vấn đề, diễn đạt các vấn đề, chú ý giúp đỡ cho học sinh ở mức cần thiết để giải quyết vấn đề đó, kiểm tra cách giải quyết ấy và cuối cùng là hệ thống hóa và củng cố các kiến thức tiếp thu được. Theo I.La.Lecne, dạy học có vấn đề: “Nó giúp cho học sinh làm quen không nhưng với cách thức giải quyết vấn đề, với bản chất của chúng, với lĩnh vực và biện pháp áp dụng giống như khi tiến hành phương pháp giải thích minh 10 họa mà còn giúp tìm hiểu cả logic, đôi khi nó chứa đựng mâu thuẫn của sự tìm tòi nhưng cách giải quyết này” [15; 17] I.La.Lecne quan niệm bản chất của dạy học nêu vấn đề chính là bởi ý nghĩa đã đưa lại kết quả tốt đẹp cho người học. Đó là sự biến đổi trong tư duy, trong nhận thức của người học, trong cách suy nghĩ, lập luận logic để tìm ra cách giải quyết vấn đề. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bảo quan niệm: “Dạy học nêu vấn đề là hình thức dạy học dựa trên nhưng quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách hoạt động một cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học có nhưng nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy nó bảo đảm cho sự lĩnh hội vưng chắc nhưng cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực và năng lực sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học cho họ” [2; 11] Tác giả đã nêu lên bản chất của dạy học nêu vấn đề chính là sự lĩnh hội kiến thức một cách sáng tạo ở người học bằng cách người giáo viên hướng dẫn cho học sinh đi lại con đường tìm tòi nghiên cứu mà các nhà khoa học đã đi, từ đó hình thành cho học sinh tính tích cực độc lập, tìm tòi, phát hiện, hình thành nhưng phẩm chất của người nghiên cứu khoa học. Mặc dù có nhưng cách diễn đạt khác nhau về phương pháp dạy học nêu vấn đề, nhưng tất cả các tác giả đều coi phương pháp dạy học nêu vấn đề là việc tổ chức quá trình dạy học bằng cách tạo ra các tình huống có vấn đề, đặt học sinh vào một môi trường tích cực, tạo nhu cầu phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh, khơi dậy khả năng suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo để xây dựng nên nhưng hiểu biết mới cho bản thân. Từ các quan niệm về dạy học nêu vấn đề ở trên, có thể nêu ra nhưng dấu hiệu bản chất của dạy học nêu vấn đề như sau: Thứ nhất, dạy học nêu vấn đề là toàn bộ quá trình tổ chức hoạt động dạy và học theo hướng tạo ra tình huống có vấn đề để kích thích tính tích cực tư duy của người học. 11 Tình huống có vấn đề là điểm khởi đầu của dạy học nêu vấn đề. Tình huống có vấn đề là tình huống gây ra cho học sinh một sự khó khăn, chứa đựng mâu thuẫn giưa cái chưa biết và cái phải tìm, nó thôi thúc học sinh tự giác giải quyết cho bằng được để chiếm lĩnh tri thức. Tình huống có vấn đề biểu hiện ra có thể là một câu hỏi, một luận đề phải chứng minh, hay bác bỏ, một tình huống phải lý giải. Thứ hai, việc tạo ra tình huống có vấn đề là sự chủ động của giáo viên trong quá trình lên lớp, đồng thời giáo viên cũng chủ động tập cho học sinh có khả năng phát hiện, tự đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. Thứ ba, dạy học nêu vấn đề nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học trong nhà trường phổ thông như: Một là: Trang bị cho học sinh nhưng tri thức cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn đất nước về tự nhiên, xã hội và nhân văn. Đồng thời rèn luyện kỹ năng và kỹ xảo tương ứng. Hai là: Tổ chức, điều khiển học sinh phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy, sáng tạo. Ba là: Giáo dục cho học sinh thế giới quan khoa học và giáo dục nhưng phẩm chất đạo đức nói riêng, phát triển nhân cách nói chung cho học sinh. Thông qua việc sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học sẽ thực hiện tốt nhưng nhiệm vụ nói trên, góp phần hình thành cho học sinh sự phát triển hoàn thiện cả về phẩm chất và năng lực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn cuộc sống. 1.1.2. Các bước chủ yếu trong dạy học nêu vấn đề - Tình huống có vấn đề. Vấn đề được nêu ra để dạy học là vấn đề học tập. Nó là mới đối với học sinh, còn trong khoa học, trong thực tiễn thì nó không phải là vấn đề mới mà là vấn đề đã được giải quyết, kiểm nghiệm trong thực tế. Bản chất của vấn đề học tập là một nhiệm vụ học tập mà để thực hiện nó, học sinh phải tư duy ở mức độ nhất định. Vấn đề học tập có thể là một câu hỏi, nhưng thắc mắc, là bản thân hoạt động tìm kiếm các câu trả lời của người học. Tuy nhiên, không phải bất cứ câu hỏi nào cũng được xem là vấn đề học tập và 12 làm xuất hiện tình huống có vấn đề, bởi vì có nhưng câu hỏi không đòi hỏi học sinh phải tư duy, các em chỉ đọc trong SGK là có thể trả lời được. Tình huống có vấn đề không chỉ thể hiện dưới dạng câu hỏi mà còn thể hiện dưới dạng tình huống. Theo nhà giáo dục Ba Lan U.Ôkon thì tình huống có vấn đề do giáo viên đưa ra trong quá trình dạy học phải đạt được ba điều kiện: - Làm xuất hiện mâu thuẫn trước học sinh, giúp họ xác định rõ nhiệm vụ nhận thức và tiếp nhận nó, nghĩa là tạo ra nhu cầu nhận thức của học sinh. - Kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh, đồng thời làm cho họ tự giác, tích cực trong hoạt động nhận thức. - Phải phù hợp với khả năng, trình độ của học sinh, nghĩa là người học có thể giải quyết hoặc biết cách giải quyết bằng hoạt động tư duy, dựa vào vốn kiến thức nhất định đã có về vấn đề đó. Ví dụ ở bài 10: “Quan niệm về đạo đức” môn GDCD 10, để học sinh hiểu được thế nào là hành vi đạo đức, giáo viên có thể đưa ra vấn đề như sau: Trong giờ kiểm tra, bạn A đã mở tài liệu và đã giúp bạn khác làm bài đạt điểm cao. A tự cho rằng hành vi mở tài liệu của mình là không vi phạm đạo đức vì đã giúp cho các bạn khác làm được bài. Theo em, đó có phải là hành vi đạo đức không? Tại sao? Hoặc khi đề cập đến điểm khác nhau giưa đạo đức và pháp luật, giáo viên đặt ra câu hỏi kích thích khả năng tư duy của học sinh như sau: Tại sao nói sự điều chỉnh hành vi của pháp luật là sự điều chỉnh thông qua nhưng yêu cầu tối thiểu. Trong khi sự điều chỉnh hành vi của đạo đức lại thường là nhưng yêu cầu cao của xã hội đối với con người? Vấn đề nêu ra có thể là đơn giản, có thể là phức tạp. Điều quan trọng là giáo viên cần khéo léo liên hệ với kiến thức cũ và vốn hiểu biết của học sinh để giải quyết vấn đề mới. Với nhưng câu hỏi nêu trên, học sinh sẽ suy nghĩ thêm và trả lời được trên cơ sở nhưng kiến thức đã được học về phần đạo đức ở cấp THCS Trong bài giảng môn Giáo dục công dân, đặc biệt phần “Công dân với đạo đức”, lượng kiến thức trong sách giáo khoa có phần mang tính trừu tượng cao. 13 Vì vậy, khi nêu vấn đề, phải chú ý tới nguyên lý về sự thống nhất giưa lý luận với thực tiễn. Giáo viên cần gợi ý để học sinh có thể tự nêu vấn đề và giải quyết vấn đề dựa trên nhưng tình huống hoặc sự kiện các em đã được tiếp cận trong cuộc sống. Chẳng hạn, trong quá trình dạy bài 10 “Quan niệm về đạo đức”, học sinh có nêu vấn đề sau: Có một vụ án, người chồng vô cùng hung ác, hàng ngày ông ta thường đánh đập rất dã man người vợ của mình, nhất là khi say xỉn, người vợ như sống trong địa ngục trần gian. Người con trai của họ vốn là người hiền lành, ngoan ngoãn, luôn là học sinh giỏi, chứng kiến cảnh hành hạ đó mà thương mẹ khôn xiết nhưng đồng thời cũng căm thù cha mình. Một hôm, anh ta đã giết chết cha mình để chấm dứt cuộc sống địa ngục gia đình. Em học sinh này cho rằng đây là một người con hiếu thảo, việc giết cha là vì quá yêu thương mẹ. Vậy hành vi của anh ta có phải là hành vi đạo đức hay không?. Với câu hỏi này, tác giả đã cho học sinh thảo luận và trả lời đồng thời định hướng để các em hiểu cho đúng về vấn đề này. Xây dựng tình huống có vấn đề là một việc làm không dễ, đòi hỏi nhiều hiểu biết và kinh nghiệm. Do đó trong tình hình hiện nay, đây thường là công việc của giáo viên. Tuy nhiên giáo viên vẫn nên động viên hướng dẫn để học sinh có thể tham gia nêu vấn đề ở mức độ phù hợp với trình độ của các em - Giải quyết vấn đề Giải quyết vấn đề phụ thuộc vào vấn đề đã được nêu ra. Nhiệm vụ học tập này có thể là trả lời câu hỏi, chứng minh hoặc bác bỏ một luận điểm, lí giải một tình huống cụ thể. Cơ sở để giải quyết vấn đề là nội dung kiến thức trong sách giáo khoa. Đây là tài liệu quan trọng vì nó cung cấp cho học sinh nhưng tri thức khoa học cơ bản, đã được khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm. Ngoài ra cơ sở giải quyết vấn đề còn là vốn hiểu biết của giáo viên và học sinh. Muốn giải quyết vấn đề có hiệu quả, giáo viên cần chuẩn bị một cách chu đáo, chia nhưng vấn đề lớn thành nhưng vấn đề nhỏ phù hợp với trình độ của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức từ đơn giản đến phức tạp. 14 Giai đoạn này đòi hỏi học sinh phải huy động tri thức, vốn sống để giải quyết vấn đề. Giáo viên cần khéo léo gợi ý để học sinh tự giải quyết, tạo ra sự hứng thú cho học sinh bằng cách nêu nhưng câu hỏi gợi mở, giải quyết từng vấn đề. Giáo viên cũng cần nêu ra nhưng câu hỏi giả định, nhằm khắc sâu trí nhớ, phát triển trí tuệ cho học sinh. Làm tốt điều này sẽ khiến học sinh không ngừng tìm tòi để nhận thức, hăng say trong học tập. Bước này là hết sức quan trọng. Nó vừa là kết quả của sự suy nghĩ, tìm tòi, nỗ lực hết mình của học sinh vừa thể hiện tính hiệu quả từ nhưng gợi ý của giáo viên. Nhìn nhận vào nhưng gì mà học sinh phát biểu được, giáo viên có thể biết được học sinh nắm bài đến đâu, đang khúc mắc chỗ nào để tiếp tục có nhưng gợi ý nhỏ, giúp các em tiếp tục suy nghĩ để đi đến kết luận đúng đắn cuối cùng. Hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề học tập là việc làm phải được chuẩn bị công phu, chu đáo. Giờ học dạy theo phương pháp này có thành công hay không, thành công nhiều hay ít là phụ thuộc rất nhiều vào sự hướng dẫn của giáo viên. - Kết luận Sau khi giải quyết vấn đề, cần liệt kê tất cả các giải pháp đã nêu đồng thời đánh giá mức độ đúng đắn và hạn chế của kết quả các giải pháp. Giáo viên và học sinh cần khách quan trong đánh giá và sau đó là quyết định lựa chọn giải pháp tối ưu nhất. Học sinh vận dụng nhưng kiến thức vừa mới tìm tòi được để đi đến kết luận vấn đề, đồng thời có thể tiếp tục phát hiện nhưng vấn đề học tập mới. Ở giai đoạn này, giáo viên cũng cần uốn nắn nhưng suy nghĩ và hành động không đúng đắn của học sinh 1.2. Sự cần thiết vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh 1.2.1. Đạo đức lối sống của HS hiện nay và sự cần thiết giáo dục đạo đức lối sống cho HS 15 Đạo đức, lối sống của học sinh được hình thành từ môi trường gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó môi trường giáo dục của nhà trường đóng vai trò quan trọng, góp phần to lớn đối với sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Bác Hồ đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Năm 1964, khi nói chuyện với thầy trò trường ĐHSP Hà Nội, Bác Hồ chúng ta đã dạy: “ Dạy cũng như học phải biết chú trong cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” [26; 171]. Như vậy tư tưởng trồng người của Bác là giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên học sinh vừa hồng vừa chuyên tức là vẹn toàn cả đức lẫn tài. Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là một yêu cầu đặc biệt quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện nay khi xã hội có nhưng bước chuyển biến không ngừng, sâu rộng, to lớn về mọi mặt. Mặt trái của cơ chế thị trường tác động không ít đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận dân cư trong đó có số lượng học sinh, thiếu niên khiến cho đạo đức của học sinh hiện nay đang trên đà suy giảm. Một bộ phận thế hệ trẻ lười biếng trong học tập; có nhưng hành vi không tôn trọng thầy cô, cha mẹ; trộm cắp, cờ bạc, sống không có lý tưởng, mục đích; chạy theo nhưng nhu cầu tầm thường, thích hưởng thụ, sùng bái đồng tiền, coi thường pháp luật, quay lưng lại với các giá trị văn hóa truyền thống, đạo đức truyền thống. Tình trạng sống buông thả thể hiện trong việc quan hệ tình dục bừa bãi của đối tượng khá lớn học sinh đang ở mức báo động gây lo ngại cho gia đình và xã hội. Trái với truyền thống coi trọng tình nhân ái của dân tộc ta, một bộ phận trong nhân dân, chủ yếu là lớp trẻ, vị thành niên đang sa vào cuộc sống bạo lực, phi nhân tính, trái đạo lý làm người như: học sinh đánh thầy, học sinh kết bè cánh để đánh nhau, giải quyết mâu thuẫn theo kiểu “xã hội đen”... Báo chí gần đây hay đề cập đến bạo lực chốn học đường, do bị ảnh hưởng từ trò chơi điện tử, phim ảnh nhan nhản trên mạng đã khiến các em hành xử với bạn mình quá tàn nhẫn, việc trò vô lễ với thầy cô trong cách xưng hô, chửi thầy, thậm chí đánh cả thầy, tạt axit vào mặt thầy ngay trên bục giảng đã 16 xảy ra. Trong gia đình, con cái ngược đãi cha mẹ, thậm chí đánh, giết cả người sinh thành ra mình hết sức dã man khiến cho dư luận bức xúc. Theo thống kê của ngành công an, mỗi năm xảy ra khoảng 100.000 vụ án hình sự, trong đó có hơn 70% đối tượng phạm pháp là thanh thiếu niên. Chỉ tính riêng năm 2010, trên địa bàn cả nước có 13572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, trong đó có 1.600 vụ học sinh đánh nhau. Con số phạm tội cho thấy sự yếu kém về tư cách đạo đức của một bộ phận không nhỏ của học sinh, gây búc xúc cho xã hội, làm xấu đi hình ảnh học sinh đáng ra phải trong sáng, tốt đẹp, có tri thức văn hóa, đạo đức tốt, đáng được yêu mến và hy vọng. Thực trạng đạo đức, lối sống của học sinh trong nền kinh tế thị trường đã nêu là vấn đề đáng lo ngại cần phải được quan tâm và kịp thời ngăn chặn bởi lẽ thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, Bác Hồ từng khẳng định họ là “rường cột của nước nhà”, là lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới. Nếu chúng ta không quan tâm và giải quyết nhưng tiêu cực ấy thì hậu quả của nó đối với đời sống xã hội và sự phát triển của đất nước là rất nghiêm trọng. Để hạn chế nhưng cái tiêu cực, cái xấu đang xâm nhập vào giới trẻ nói chung học sinh nói riêng, ngoài đòi hỏi sự quan tâm và giáo dục trong gia đình, thì cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục trong nhà trường. Các bộ môn giảng dạy trong nhà trường, bên cạnh việc cung cấp nhiều kiến thức bổ ích cho học sinh còn góp phần giáo dục đạo đức cho các em. Đối với môn GDCD, mục tiêu dạy người đóng vai trò quan trọng nhất, thông qua môn học, học sinh nắm được các khái niệm cơ bản về các phạm trù đạo đức trong việc xử lý hàng ngày; nắm được các chuẩn mực về đạo đức, các hành vi nên làm của một người công dân, người có đạo đức; biết cư xử đúng mực trong các mối quan hệ giưa tình bạn, tình yêu và trong mối quan hệ gia đình; biết rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, lương tâm để trong các mối quan hệ biết điều chỉnh hành vi của mình theo chiều hướng tốt đẹp, có ích cho người khác. Tuy nhiên để môn học có sức mạnh tác động đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi HS trong thực tế đòi hỏi người truyền đạt phải có năng lực giảng dạy, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy 17 học, đặc biệt là các phương pháp dạy học tích cực trong đó có phương pháp nêu vấn đề 1.2.2. Sự cần thiết vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh Trong dạy phần “Công dân với đạo đức”, việc vận dụng phương pháp nêu vấn là rất cần thiết nhằm phát huy hiệu quả dạy học. Điều này xuất phát từ nhưng căn cứ sau: Thứ nhất, vai trò của phương pháp nêu vấn đề đối với việc phát huy tính tích cực của học sinh Một trong nhưng mục tiêu của giáo dục đào tạo là đảm bảo cho con người có khả năng thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại. Luật giáo dục 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[16; 23] Phương pháp dạy học nêu vấn đề đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH hiện nay trong nhà trường theo hướng tích cực hóa hoạt động người học. Phương pháp này luôn phát triển cho học sinh năng lực phát hiện tình huống, giải quyết vấn đề trong quá trình nhận thức và thực tiễn cuộc sống. Khác hẳn với cách giảng dạy nhồi nhét, học sinh chỉ biết nghe, ghi nhớ, mà lười suy nghĩ. Dạy học nêu vấn đề phát huy được tính tích cực tự nhận thức của học sinh. Thông qua thảo luận, nêu ý kiến cách giải quyết của mình trong tập thể, qua đó kiến thức người học được tiếp thu lên một trình độ mới. Đặc biệt khi học sinh biết đặt câu hỏi nêu ra điều mình chưa biết và tìm cách giải quyết vấn đề nêu ra là một yếu tố quan trọng để học tập thông minh, chủ động. Phương pháp này giúp học sinh tự mình nắm kiến thức, tự mình rút ra nhưng kết luận sau khi đã suy nghĩ kỹ. Nhưng kết luận này là sự phản ánh nhưng quan điểm riêng, có căn cứ khoa học, do các em nhận thức được và như thế các em sẽ nắm chắc kiến thức, nhớ bài học 18 sâu sắc hơn. Điều này mang tính độc lập, tự giác học tập chứ không thụ động chờ vào kết luận của giáo viên. Do đó, hình thành trong bản thân người học sự hứng thú, ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người. Học sinh chỉ học tập tốt, có kết quả khi các em tiếp nhận lý thuyết bằng cách giải quyết nhưng vấn đề thực tế. Phương pháp nêu vấn đề giúp người học không chỉ năng động, sáng tạo trong việc nắm vưng tri thức, mà còn hình thành kỹ năng cần thiết như kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; kỹ năng suy nghĩ, lập luận và giải quyết vấn đề, đánh giá một nhận định nào đó. Cũng như kỹ năng biết lắng nghe, nói, tranh luận để bảo vệ luận điểm của mình, của nhóm. Thứ hai, xuất phát từ mục đích, yêu cầu của dạy học phần “Công dân với đạo đức” Phần “Công dân với đạo đức” là một trong 5 phân môn của chương trình giáo dục công dân lớp 10. Chương trình gồm hai mạch nội dung: Một là: Quan niệm về đạo đức, một số phạm trù cơ bản của đạo đức học: Nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc. Hai là: Các giá trị đạo đức, thể hiện trong 3 mối quan hệ cơ bản của con người là: - Quan hệ với bản thân: Bài “Tự hoàn thiện bản thân”. - Quan hệ với người khác: Bài “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”. - Quan hệ với cộng đồng, đất nước, nhân loại, gồm các bài: “Công dân với cộng đồng” “Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” “Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại” Mục tiêu của phần môn GDCD - Phần “Công dân với đạo đức” là giúp học sinh nắm vưng các giá trị đạo đức của xã hội để từ đó có thái độ tôn trọng các giá trị đạo đức ấy, hình thành nhưng hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn 19 mực đạo đức của xã hội, dám phê phán các thái độ và hành vi đạo đức lệch lạc, đồng thời có quyết tâm học tập, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân. Để thực hiện mục tiêu trên, việc lựa chọn phương pháp giảng dạy cho môn học đóng vai trò quan trọng. Đặc điểm tri thức phần “Công dân với đạo đức” mang tính khái quát hóa và trừu tượng cao nhưng lại gắn liền với thực tiễn cuộc sống, liên quan đến cách cư xử trong các mối quan hệ đa dạng của HS khiến các em đặc biệt quan tâm thậm chí đôi khi cảm thấy hoang mang khó xử hoặc sai lầm trong nhiều trường hợp gặp phải. Do đó nếu trong bài học, giáo viên sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, đặt ra các tình huống thực tế vừa lý thú, vừa phù hợp với môn học xuất phát từ cuộc sống hàng ngày hoặc từ hoạt động nhận thức mà người học chưa biết giải đáp để học sinh tự giải quyết và tự do nói ra suy nghĩ của mình thì hiệu quả giáo dục của các tiết học sẽ nâng cao. Thứ nhất, sẽ giúp giảm lối học thụ động, sách vở, học sinh sẽ học tập đầy say mê, sôi nổi, hứng thú; thứ hai, khi trao đổi với thầy cô, bạn bè về nhưng vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống sẽ giúp cho người học được trải nghiệm, hóa giải vấn đề mà họ đang gặp bế tắt, đồng thời học sinh biết rút ra được bài học cho chính bản thân mình từ đó đánh giá, tự điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của mình theo hướng tích cực. Thứ ba, xuất phát từ đối tượng người học. Có thể nói, học sinh lớp 10 đang ở vào lứa tuổi ham học hỏi, ham hiểu biết, năng động, sáng tạo, thích cái mới mẻ và luôn thích thể hiện mình. Vì vậy, phương pháp giáo dục phải phù hợp với tâm lý, lứa tuổi cũng như là sở thích và nguyện vọng của các em. Trong việc sử dụng phương pháp dạy học cũng vậy, nếu giáo viên chỉ sử dụng phương pháp dạy học truyền thống sẽ tạo cho học sinh tâm lý chán nản, tẻ nhạt trong giờ học, không phát huy được tính sáng tạo của học sinh và như vậy hiệu quả giáo dục của tiết học sẽ hạn chế. Đặc biệt là môn học GDCD, các em từng xem đó là môn bổ trợ, việc học và dạy tốt môn này phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó có sự nỗ lực, đầu tư tiết dạy của giáo viên và học tập tự giác, tích cực của học sinh. Tuy nhiên, việc học tốt môn GDCD là rất khó đối 20 với các em vì môn học vốn trừu tượng và nặng về lý luận, hầu hết các em đều thích học tập với một trạng thái thật thoải mái, không gây áp lực mà vẫn dễ tiếp thu bài đặc biệt là các em thích hoạt động và thể hiện bản thân mình. Phương pháp dạy học nêu vấn đề sẽ khiến học sinh cảm thấy hứng thú hơn khi việc học được hấp dẫn bằng sự đáp ứng nhu cầu của mình. Trong thực tiễn dạy học, giáo viên có thể đưa ra nhưng tình huống có ý nghĩa đối với học sinh bằng cách kể một câu chuyện liên quan, sử dụng đoạn băng video, thậm chí để các em sắm vai để tạo tình huống và giải quyết tình huống. Được hoạt động và thể hiện khả năng của mình, học sinh sẽ rất hứng thú. Nếu giáo viên không nắm bắt tâm lý đó hoặc thiếu khả năng đổi mới phương pháp giảng dạy thì không nhưng các em càng không thích thú với môn học, học chỉ để đối phó mà hơn hết việc rèn luyện tác phong đạo đức cho học sinh sẽ mất dần đi tác dụng bởi vì một khi chính môn giáo dục các em khiến các em không có động lực, niềm vui và hứng thú để học thì làm sao có thể tác động đến tình cảm để thực hiện hành vi đúng đắn trong thực tế. Như vậy, việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực nói chung, dạy học nêu vấn đề nói riêng đáp ứng nhu cầu người học, giúp học sinh có thái độ đúng đắn với môn học, với nhiệm vụ học tập của mình và hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn để trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. 1.3. Tình hình vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh Thành phố Biên Hòa có khoảng 40 giáo viên dạy môn GDCD, hầu hết các giáo viên được đào tạo chính quy, một số ít giáo viên dạy môn văn, sử kiêm nhiệm. Phần lớn giáo viên giảng dạy môn này còn trẻ, năng động và có ý thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhiều giáo viên tự nghiên cứu và đầu tư cho bài dạy của mình sao cho hiệu quả nhất bằng cách sử dụng phong phú phương pháp dạy học tích cực, trong đó có phương pháp nêu vấn đề. Hầu hết giáo viên đánh giá cao và cho rằng cần thiết khi vận dụng phương pháp này trong phần “Công dân với đạo đức”. Một số giáo viên tâm huyết với nghề tỏ ra
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan