HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM
ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM
ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN AN NINH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Huyền
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu ở trong nước
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về lợi ích nhóm ở nước ngoài
1.3. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu và những nội dung
mới mà luận án thực hiện
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM VÀ LỢI
ÍCH NHÓM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
2.1. Khái niệm, cách phân loại và vai trò của lợi ích
2.2. Một số vấn đề lý luận về lợi ích nhóm
2.3. Lợi ích nhóm trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chương 3: NHẬN DIỆN LỢI ÍCH NHÓM Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1. Nhận diện lợi ích nhóm ở Việt Nam
3.2. Ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
3.3. Ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
3.4. Một số vấn đề đặt ra
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH
HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LỢI
ÍCH NHÓM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Phương hướng phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
4.2. Giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
5
22
31
34
34
39
68
78
78
86
99
113
122
122
131
149
151
152
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng rõ hơn trên những
nét cơ bản trong sự nghiệp đổi mới. Tuy vậy vẫn còn nhiều điều cần làm sáng tỏ,
mà một trong số đó là vấn đề lợi ích. Trước đây, tư duy giáo điều thường nhấn
mạnh một cách cực đoan lợi ích xã hội mà xem nhẹ lợi ích của cá nhân, lợi ích
của từng bộ phận. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, quan niệm đó đã được điều
chỉnh và thực tế đã xác nhận những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử ở lĩnh
vực này. Tuy vậy, cho đến nay, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội vẫn là một bài toán khó. Bởi từ sau thời kỳ đổi mới, lại xuất hiện tình trạng
lợi ích cá nhân bị đẩy lên đến mức biến thành chủ nghĩa cá nhân, vì lợi ích riêng
mà sẵn sàng đi ngược lại với lợi ích chung, lợi ích xã hội. Vấn đề là làm thế nào
để lợi ích cá nhân thực sự là một động lực phát triển của đất nước. Giải quyết
vấn đề này là một trong những mục tiêu trong chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Lãnh đạo phải tính đến các nhu cầu và lợi ích, điều chỉnh chúng, thông qua
chúng để tạo nên tính tích cực hoạt động sáng tạo của quần chúng tự giác tham
gia vào quá trình đổi mới xã hội.
Đặt ra điều này vì trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
sự xuất hiện của lợi ích nhóm đang trở thành một yếu tố tác động cả thuận chiều
và nghịch chiều đến chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, lợi ích nhóm là sự phản ánh lợi
ích chung của nhiều chủ thể đang có nhu cầu tìm kiếm những phương tiện, điều
kiện thực hiện những lợi ích riêng (cá nhân) nhất định. Lợi ích nhóm có cả tác
động tích cực và tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước. Lợi ích nhóm tiêu cực là lợi ích của một cộng đồng, có tổ chức hoặc tự phát
của những người có cùng chung một số mục đích, cùng chung lợi ích; họ tìm mọi
cách tác động đến cơ quan, người có quyền theo hướng có lợi cho nhóm của mình.
Mục đích riêng mà họ đạt được thường xâm hại tới lợi ích chung của toàn xã hội.
2
Nó là các hình thức hối lộ như “chạy” dự án, “chạy” vốn, “chạy” chức quyền và
thậm chí “chạy” cả chính sách vì các lợi ích cục bộ, địa phương... Nguy hại hơn,
lợi ích nhóm đã có những biểu hiện vi phạm lợi ích của xã hội: sử dụng bừa bãi và
tham nhũng tiền vay của quốc gia (ODA) và của nhân dân (công trái) trong các
công trình lớn; làm tha hóa cán bộ, gây mất lòng tin của nhân dân; và làm tăng
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Những năm gần đây, lợi ích nhóm càng
ngày càng gia tăng và phát triển sâu rộng, quy mô lớn hơn nhiều. Tác động tiêu
cực của các nhóm lợi ích vào quá trình thực hiện các lợi ích hợp pháp và chính
đáng khác, vào hiệu quả của thực thi chính sách và gần đây, có cả những dấu hiệu
cho thấy, vào cả quá trình hoạch định chính sách... đã được xác nhận là một thực
tế. Đảng ta cũng khẳng định ba cản trở lớn nhất của tái cơ cấu nền kinh tế là lợi
ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, tính cục bộ. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII, vấn đề phòng chống lợi ích nhóm tiêu cực nhằm xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh cũng đã được đặt ra.
Lợi ích nhóm không chỉ có tác động tiêu cực mà vẫn có cả những lợi ích
nhóm phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng, xã hội, chứa đựng nhiều yếu tố tích
cực. Cần nhận thức rằng, các nhóm lợi ích khác nhau là một trong những hệ quả
của đa dạng hóa về lợi ích - một hiện tượng khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Lợi ích nhóm tác động tích cực sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo
môi trường dân chủ, công bằng, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc chấp nhận hoạt động của
các nhóm lợi ích chính đáng và kịp thời ngăn chặn sự lũng đoạn của các nhóm lợi
ích tiêu cực đang hình thành sẽ góp phần để xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Có thể thấy, trên thế giới, vấn đề lợi ích nhóm đã xuất hiện, được nghiên
cứu từ lâu, và lợi ích nhóm thực chất là một hiện tượng khách quan trong bất kỳ
xã hội nào. Nhưng lợi ích nhóm ở Việt Nam có được hiểu như cách mà các nước
có xã hội dân sự ở phương Tây đã xem xét không, những vấn đề đang nảy sinh
3
đặc biệt là về lợi ích nhóm tiêu cực cần phải được đặt trong bối cảnh nước ta
hiện nay nhanh chóng trở thành bức xúc trong thực tiễn và đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu đầy đủ hơn. Trong một vài năm gần đây, những nghiên cứu một cách
có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn về vấn đề này đã xuất hiện
nhiều hơn. Nhưng còn rất ít nghiên cứu nhìn nhận lợi ích nhóm dưới góc độ như
một yếu tố tác động đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Do đó, chúng tôi
cho rằng, chọn đề tài: “Ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học là cần thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích những biểu hiện và đặc điểm của lợi
ích nhóm và những ảnh hưởng của nó đến định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy những mặt tính tích cực và phòng, chống ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, luận án đề ra
những mục tiêu cụ thể sau:
Một là, tổng quan một số công trình liên quan đến vấn đề lợi ích, lợi ích
nhóm và ảnh hưởng của lợi ích nhóm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Hai là, trình bày một số khái niệm công cụ và các vấn đề lý luận chung về
lợi ích; lợi ích nhóm - bao gồm bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích nhóm, lợi
ích nhóm và kinh nghiệm kiểm soát lợi ích nhóm ở một số nước trên thế giới, biểu
hiện của lợi ích nhóm ở Việt Nam; và những vấn đề xoay quanh chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội có mối quan hệ với
lợi ích nhóm.
Ba là, phân tích cả ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Bốn là, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực của lợi ích nhóm và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối
với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: các lợi ích nhóm ảnh hưởng đến chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: luận án dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nguyên lý về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn; trên quan điểm khách quan, biện chứng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp
văn bản học.
5. Về đóng góp của luận án
5.1. Đóng góp lý luận: góp phần hệ thống hóa và đưa ra quan điểm về
nguồn gốc, bản chất, biểu hiện của lợi ích nhóm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
5.2. Đóng góp thực tiễn: chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của
lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Từ đó đưa ra
phương hướng, giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm.
6. Ý nghĩa của luận án
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy, học tập các lĩnh vực liên quan tới lợi ích nhóm và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác quản
lý xã hội, xây dựng pháp luật, nhận định, tổng kết, rút kinh nghiệm ở địa phương
mình trong công tác lãnh đạo, quản lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
Trong thời kỳ đổi mới, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lợi
ích, cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, các công trình về các nhóm xã hội như nhóm
giai cấp, nhóm giới, nhóm tôn giáo, nhóm dân tộc, lợi ích nhóm, ảnh hưởng của
lợi ích nhóm đến các lĩnh vực của xã hội Việt Nam. Luận án phân loại thành các
nhóm sau đây:
1.1.1. Nhóm các công trình về vấn đề lợi ích, nhóm xã hội và lợi ích nhóm
Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Lợi ích động lực phát triển xã hội [65]
đã trình bày thực chất của lợi ích, nhu cầu và quan hệ lợi ích. Tác giả đã vận dụng
các quan điểm lý luận trên vào việc sử dụng vai trò động lực của lợi ích trong sự
phát triển của xã hội ta hiện nay. Trong đó, tác giả cũng nhấn mạnh rằng, để nhận
thức các quy luật đang chi phối sự vận động của một xã hội cụ thể thì trước hết
phải nhận thức được các lợi ích chung nào đang thôi thúc cả cộng đồng hoạt động
nhằm đạt được chúng. Và, điều quan trọng là, phải vạch ra được những lợi ích nào
đang là cấp bách và căn bản nhất trong hệ thống các lợi ích đang chi phối sự hoạt
động của từng cá nhân, của các nhóm xã hội cũng như của cả xã hội trong giai
đoạn lịch sử ấy. Trong nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu sâu lợi ích riêng, lợi ích
chung và mối quan hệ giữa chúng, từ đó khẳng định lợi ích riêng bao giờ cũng là
động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thôi thúc cá nhân hoạt động và là nhân tố
quyết định trước hết. Nó là cơ sở để thực hiện lợi ích chung, ngược lại, lợi ích
chung với ý nghĩa là những lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của
nhiều thành viên hợp thành cộng đồng nên nó lại là điều kiện và đóng vai trò định
hướng cho việc thực hiện lợi ích riêng [65, tr.81-82]. Vì những lý do trên nên chỉ
khi nào tạo lập được mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng thì
mới có thể tạo nên được sự phát triển không những của các cá nhân, mà của cả
cộng đồng. Từ đó một yêu cầu được đặt ra là cần tạo lập một cơ chế kích thích sao
6
cho mỗi cá nhân riêng lẻ, mỗi cộng đồng riêng lẻ khi hoạt động thực hiện các lợi
ích riêng của mình, nhất là những lợi ích riêng được phản ánh trong các lợi ích
chung của xã hội, cũng sẽ đồng thời tạo nên một xu hướng vận động chung của cả
cộng đồng theo hướng chúng ta mong muốn.
Nguyễn Linh Khiếu, Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích [66]. Trong
cuốn sách này, tác giả đưa ra quan điểm của mình: “Lợi ích, xét đến cùng, chính là
phương thức để thực hiện nhu cầu trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong quan hệ
xã hội, trong đấu tranh xã hội” [66, tr.39]. Từ đó, tác giả phân tích mối quan hệ
giữa các lợi ích trong sự phát triển xã hội như: mối quan hệ giữa lợi ích vật chất và
lợi ích tinh thần, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài. Ở đây, luận án có thể kế thừa các quan điểm về mối quan hệ giữa lợi ích riêng
và lợi ích chung để xem xét chúng trong mối quan hệ với lợi ích nhóm. Trong
công trình này, tác giả chỉ ra một số điểm như sau: một là, lợi ích chỉ tồn tại trong
quan hệ xã hội và luôn gắn liền với các chủ thể nhất định; hai là, mối quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng là rất đa dạng, do đó, mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi
ích chung cũng rất đa dạng; ba là, cần tạo ra sự kết hợp thống nhất giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung; bốn là, quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung thực
chất là các quan hệ cơ bản của một cá nhân hay một nhóm xã hội với cả cộng
đồng; năm là, cần tìm hiểu rõ độ gắn kết về lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng
theo các cấp độ quan hệ khác nhau của đời sống xã hội; sáu là, mối quan hệ giữa
lợi ích riêng và lợi ích chung, hay còn gọi là lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển xã hội. Trong phần về “Lợi ích kinh tế và
các xu hướng vận động chủ yếu của xã hội hiện nay”, tác giả phân tích, xem xét
thực trạng kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và các xu hướng vận động của nó. Tác
giả chỉ ra các thành phần kinh tế như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể sẽ phát triển
theo xu hướng mà ta mong muốn - phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
còn kinh tế tư nhân và tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ nhìn chung có xu
hướng vươn tới phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, hai xu hướng vận động chính này là hai lực kéo đưa xã hội ta vận động và
phát triển tiến lên. Mặt khác, chính hai xu hướng này lại vận động theo hướng
7
khác nhau, lấn át, đấu tranh gay gắt nhằm thủ tiêu nhau, tạo nên mâu thuẫn cơ bản
của xã hội ta trong thời kỳ quá độ. Và chính bộ máy nhà nước của dân, do dân và
vì dân cần quản lý, điều khiển để định hướng sự phát triển của các thành phần
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luận án tiến sĩ Hiệu quả chi tiêu ngân sách dưới sự tác động của vấn đề
nhóm lợi ích ở một số nước trên thế giới [17] của Bùi Đại Dũng trình bày cơ sở
lí luận về hiệu quả chi tiêu ngân sách và vấn đề nhóm lợi ích; hiệu quả chi tiêu
ngân sách dưới sự tác động của các nhóm lợi ích; kinh nghiệm xử lí vấn đề nhóm
lợi ích nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách ở nước ngoài và kiến nghị cho
Việt Nam
Đặng Quang Định trong công trình Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân,
nông dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay [34] đã phân tích những lợi ích kinh tế
của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Qua đó chỉ ra sự
thống nhất và những biểu hiện thiếu thống nhất trong lợi ích kinh tế giữa công
nhân, nông dân và trí thức. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp định hướng tăng
cường sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí thức.
Nguyễn Hữu Khiển trong bài viết Nhóm lợi ích và vấn đề chống tham
nhũng [63] trên cơ sở phân tích những đặc điểm của tham nhũng cùng với nhóm
lợi ích, quan hệ giữa hai vấn đề này, cho rằng phải có biện pháp tổng hợp để
chống tham nhũng và chống lợi ích nhóm tiêu cực. Đồng thời, cần phải coi thúc
đẩy hoạt động của các nhóm lợi ích chính đáng và ngăn chặn sự lũng đoạn của các
nhóm lợi ích tiêu cực là cơ sở để phòng và chống tham nhũng có hiệu quả. Tác giả
khẳng định sự xuất hiện của nhóm lợi ích là khách quan, trong đó “kinh tế hàng
hóa là tiền đề khách quan đầu tiên của sự hình thành nhóm lợi ích” [63, tr.58].
Nhóm lợi ích cũng xuất hiện một cách chủ quan: “với sự phát triển của tri thức và
năng lực của con người, nhất là trong đời sống kinh tế và chính trị, việc tự tìm
kiếm đối tác, đồng minh để hình thành các nhóm “mạnh hơn từng cá nhân đơn lẻ”
là một khuynh hướng tất yếu để tồn tại” [63, tr.58]. Khi chế độ dân chủ xuất hiện
trong xã hội tư bản, nhóm lợi ích kinh tế tìm cách tác động đến đời sống chính trị
để tạo ra lợi thế chính trị cho mình. Như vậy, nhóm lợi ích xuất hiện từ nhu cầu
8
của nhóm sản xuất kinh doanh hay nhóm lợi ích chính trị. Sự phân tích của tác giả
là gợi ý cho luận án về nguồn gốc của nhóm lợi ích.
Công trình Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở nước ta hiện
nay [18] của Vũ Dũng trình bày những chính sách của Đảng và Nhà nước về các
nhóm xã hội yếu thế; thực trạng thích ứng xã hội của nhóm người cao tuổi, người
mắc bệnh hiểm nghèo và người khuyết tật, của nhóm trẻ em lang thang cơ nhỡ;
đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm góp phần nâng cao khả năng thích ứng xã hội
của những nhóm này. Cuốn sách cho thấy hình ảnh nhóm yếu thế ở nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc hài hòa giữa yếu tố thị trường và đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa không hề đơn giản. Có những lúc yếu tố thị trường khiến
nhiều người đặt lợi nhuận lên trên hết, chỉ quan tâm đến lợi ích những nhóm ưu
thế trong xã hội mà quên mất lợi ích các nhóm yếu thế, không đảm bảo được tính
nhân văn của chế độ.
Trong cuốn sách Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội [35], của
Đặng Quang Định đã trình bày các quan niệm về lợi ích, phân loại lợi ích, sự hình
thành và vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội. Tác giả cũng phân tích các
quan điểm của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen về lợi ích và trình bày quan
điểm của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề lợi ích tạo động lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và xu hướng biến
đổi của các quan hệ lợi ích ở nước ta trong những năm tới. Luận án có thể tham
khảo được các khái niệm về lợi ích, quan điểm của các nhà kinh điển về lợi ích và
vai trò của nó.
Công trình Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế [111] của Lê Văn Toàn đã phân chia
các nhóm xã hội theo thu nhập (nhóm giàu, nhóm nghèo), theo giới tính (nhóm
nam, nhóm nữ), theo giai tầng (nhóm công nhân, nhóm nông dân, nhóm trí thức,
nhóm doanh nhân…), theo vùng miền (nhóm ở đồng bằng, nhóm ở miền núi),
theo nghề nghiệp, theo lứa tuổi. Dựa vào sự phân tầng xã hội như trên, có thể thấy,
có bao nhiêu nhóm xã hội là có bấy nhiêu nhóm lợi ích.
9
Lê Xuân Thủy trong cuốn sách Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [109] đã nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài;
đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm bảo đảm lợi ích của công nhân
trong loại hình doanh nghiệp này, trước tác động của những điều kiện mới ở Việt
Nam hiện nay
Công trình nghiên cứu Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô
thị hoá ở nước ta hiện nay [42] của Đỗ Huy Hà trình bày một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã
hội trong quá trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay; thực trạng và một số giải pháp
cơ bản nhằm giải quyết các quan hệ lợi ích trong quá trình đô thị hoá để tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
Nguyễn Thị Mai Hoa trong công trình Kiểm soát lợi ích nhóm - tiếp cận từ
góc độ giám sát quyền lực nhà nước [53], khi bàn về mối quan hệ giữa quyền lực
nhà nước và lợi ích nhóm, tác giả khẳng định “tiếp cận lợi ích nhóm không thể
tách rời sự tiếp cận chính trị và quyền lực chính trị” [53, tr.68], do đó, để đảm bảo
lợi ích, công bằng xã hội cho số đông, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được
đặt ra từ rất sớm. Việc tập trung và độc quyền quyền lực sẽ sinh ra một số nhóm
lợi ích theo nghĩa nhóm đặc quyền, đặc lợi, có khả năng tác động lớn hoặc trực
tiếp trong quá trình ra quyết sách của chính quyền. Do đó, cần một thể chế chính
trị minh bạch, tiến bộ, có khả năng phân bổ lợi ích thỏa đáng, kích thích khả năng
đóng góp, hạn chế khả năng gây hại của các nhóm lợi ích. Như vậy, để kiểm soát
lợi ích nhóm, ngăn ngừa nhóm lợi ích tiêu cực, cần tập trung vào vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước. Từ đó, tác giả nêu ra một số giải pháp như sau: một là, xây
dựng cơ chế hoạch định chính sách, ra quyết định minh bạch, khoa học [53, tr.71];
hai là, lành mạnh hóa bộ máy công quyền [53, tr.71]; ba là, thiết lập và thực hiện
nghiêm minh chế độ bãi miễn đối với lãnh đạo mất tín nhiệm [53, tr.72]; bốn là,
đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật [53, tr.72]. Bài viết là gợi ý cho luận án
tiếp cận quan hệ giữa lợi ích nhóm với quyền lực nhà nước, từ đó có thể đưa ra
10
những giải pháp hợp lý cho việc phát huy lợi ích nhóm tích cực và hạn chế lợi ích
nhóm tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm lợi ích [54] của
Nguyễn Thị Mai Hoa bàn về mối quan hệ giữa công bằng xã hội và nhóm lợi ích.
Tác giả cho rằng, “một mặt, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhóm lợi ích tác
động tích cực tới đảm bảo công bằng xã hội, tạo các động lực cơ bản thúc đẩy
phát triển xã hội; mặt khác, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các nhóm lợi
ích… là nguy cơ trực tiếp đối với công bằng xã hội, hủy hoại tiến bộ xã hội” [54,
tr.60]. Từ nhận định này, tác giả đưa ra các giải pháp để triệt tiêu “nhóm lợi ích
ngược”: 1/ đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội; 2/ đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
trong đội ngũ cán bộ công quyền; 3/ trung thực và minh bạch hóa thông tin. Bài
viết cung cấp một góc nhìn về ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến một trong những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội - đó là công bằng xã hội.
Nguyễn Ngọc Hà, Trần Thị Bích Huệ trong bài viết Lợi ích nhóm với tính
cách một khái niệm của triết học xã hội [43] trình bày tính tất yếu của lợi ích
nhóm, phân loại lợi ích nhóm, quan hệ giữa lợi ích nhóm với lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội, quan hệ giữa các lợi ích nhóm với nhau, biểu hiện của lợi ích nhóm
trong chính sách của nhà nước.
Nguyễn Hữu Khiển với bài viết Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích dưới dạng
tham nhũng [64] phân biệt lợi ích nhóm và nhóm lợi ích, khẳng định tính khách
quan trong sự hình thành lợi ích nhóm và nhóm lợi ích; bản chất của lợi ích
nhóm và nhóm lợi ích. Từ đó chỉ ra: “lợi ích nhóm dưới hình thức tham nhũng là
loại lợi ích nhóm tiêu cực mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang quan tâm và
muốn triệt tiêu trong đời sống dân sự cũng như trong hệ thống chính trị của nước
ta” [64, tr.31] cùng với đó là tính chất nguy hiểm bất thường của nó.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của lợi ích nhóm ở
Việt Nam
Bao gồm các công trình về lợi ích nhóm với đảng cầm quyền, với nhà
nước…, lợi ích nhóm trong các lĩnh vực cụ thể trong kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội; lợi ích nhóm tiêu cực và vấn đề tham nhũng… như sau:
11
Phạm Thành Nam, Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy dân chủ trong
đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay [78] khẳng định: nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng tham nhũng, đã được Đảng ta chỉ rõ, là do việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực đời sống xã hội chưa có hiệu quả;
hệ thống chính trị chưa phát huy được vai trò trong việc quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế; cơ chế chính sách, luật pháp chưa hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở. Bằng các
dẫn chứng từ thực tế, từ các nghiên cứu cũng như thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, các tác giả đã phác họa tương đối đầy đủ thực trạng 9 lĩnh
vực tham nhũng, tiêu cực xảy ra chủ yếu ở nước ta trong thời kỳ đổi mới (trong
lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; trong lĩnh vực quản lý tài chính, ngân sách;
trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản; trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng; trong
lĩnh vực quản lý thuế, quản lý thị trường, quản lý hoạt động kinh doanh thương
mại, xuất nhập khẩu; trong lĩnh vực văn hóa, xã hội; trong lĩnh vực hoạt động tư
pháp, trong tham mưu hoạch định chính sách và trong công tác cán bộ). Trong đó,
lĩnh vực thứ chín là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đề tài chính. Đây là một dạng
tham nhũng, tiêu cực “sạch” vì nó không trực tiếp nhũng nhiễu, lấy tiền của dân,
mà thu lợi gián tiếp, “sạch sẽ” thông qua các đối tượng trung gian như cơ quan,
doanh nghiệp, cá nhân hưởng lợi từ sự tham mưu, quyết định của mình. Ở một số
nước trên thế giới, tham nhũng, tiêu cực dạng này được gọi là tham nhũng chính
trị, vì “nó tạo điều kiện cho một nền kinh tế nội tại kết nối những người ủy quyền
và những người đại diện. Những người ủy quyền đứng ra bảo vệ, đưa ra những
quyết định quan trọng và kiểm soát sự tự chuyên quyền, trong khi các đại diện
chính trị hay quan liêu thì trả tiền để nhận được chiến lợi phẩm của mình”. Hành
vi phổ biến của tham nhũng chính trị là “hàng loạt hoạt động chính trị và xây dựng
chính sách, trong đó có hối lộ, gian lận bầu cử, bảo trợ lạm quyền…” [78, tr.99].
Các tác giả đã bước đầu đưa ra được một số bài học kinh nghiệm, một số quan
điểm, nguyên tắc, biện pháp chỉ đạo việc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực
mà bao trùm lên tất cả là đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực phải vì nhân dân,
dựa vào nhân dân, do nhân dân và động viên được đông đảo nhân dân tham gia.
Tham nhũng chính trị có liên quan rất nhiều đến lợi ích nhóm tiêu cực. Vì vậy,
12
cuốn sách cung cấp tư liệu để luận án sử dụng khi bàn về vấn đề tác động của lợi
ích nhóm tiêu cực đến việc hoạch định chính sách.
Nguyễn An Ninh trong công trình Những nhân tố mới tác động đến triển
vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [84] đã dành chương III để trình bày về
những nét mới của các nhân tố chủ quan trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Trong đó khi bàn về sự xuất hiện và tác động tiêu cực của các
nhóm lợi ích tư, tác giả cho rằng, có thể chia ra hai loại nhóm lợi ích: nhóm lợi
ích công, vận động cho một số đông hay toàn xã hội, có nhiều đồng thuận với
mục tiêu chung của đất nước; nhóm lợi ích tư chỉ vận động cho lợi ích cục bộ
của một số thành viên, do đó đôi khi lợi ích của xã hội có thể bị hy sinh. Nhóm
lợi ích tư có thể tác động tiêu cực cho triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, nhưng khả năng điều hòa, kiềm chế của Nhà nước đối với chúng lại vấp
phải hai vật cản là: sự suy thoái trong đạo đức lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và cơ chế quản lý điều hành của Nhà nước còn thiếu khoa
học và còn chịu nhiều ảnh hưởng của những tàn dư cơ chế cũ. Từ đó, tác giả kết
luận “Sự lộ diện và tác hại ngày càng lớn của các nhóm lợi ích tư chính là một
nhân tố mới cùng góp phần tạo nên các nguy cơ quan liêu, tham nhũng và chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu những nhóm lợi ích tư này không được kiềm chế,
hậu quả ghê gớm sẽ là: chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn còn đó nhưng bản chất đã bị
tha hóa, tiêu chí “nhà nước của dân, do dân, vì dân” vẫn được nêu lên nhưng chỉ
còn là hình thức…” [84, tr.203].
Hồ Bá Thâm, Mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm - Thực trạng, xu hướng và
giải pháp [102]. Cuốn sách phân tích những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích nhóm
và nhóm lợi ích trong giai đoạn từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang
nền kinh tế thị trường ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói
chung. Trong quá trình phân tích, các tác giả đã làm rõ quan niệm về lợi ích nhóm,
nhóm lợi ích, chỉ ra thực trạng, nguyên nhân của những mâu thuẫn, xung đột này
và đề xuất giải pháp để hạn chế chúng. Cách hiểu nhóm lợi ích của các tác giả
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam: “Nhóm lợi ích là nhóm có tác động đến chính
quyền nhà nước ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp bằng nhiều cách: 1/ phản biện
13
xã hội, giám sát xã hội, 2/ tác động bằng phản ứng, khiếu kiện để thay đổi chính
sách hay cách giải quyết, 3/ lợi dụng kẽ hở pháp luật, chính sách vận động chính
quyền có lợi cho họ; 4/ vận động cơ quan chính sách để thông qua đề xuất của họ
về chính sách; 5/ thậm chí có trường hợp mua chuộc quan chức nhà nước, cấu kết
kiểu mafia…” [102, tr.49]. Có 2 nhóm lợi ích: nhóm trục lợi và nhóm thiệt hại. Từ
đây, các tác giả phân tích về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với việc hình thành mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa nhóm trục lợi và
nhóm thiệt hại. Kinh tế thị trường, đô thị hóa, công nghiệp hóa và thương mại hóa
đã tác động hình thành nên những mâu thuẫn xung đột lợi ích chung hiện nay.
Ngoài ra, còn do yếu tố chính sách, pháp luật của nhà nước trong các quá trình đó
chưa chuyển đổi kịp thời, còn nhiều bất cập [102, tr.85-87]. Tiếp theo, tác giả
phân tích thực trạng và nguyên nhân mâu thuẫn, xung đột lợi ích trên một số lĩnh
vực như nhà đất, sử dụng lao động doanh nghiệp, giáo dục và y tế ở thành phố Hồ
Chí Minh, trong đó trình bày thực trạng, nguyên nhân và những tác động tiêu cực.
Cuối cùng, tác giả trình bày xu hướng và đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết
mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm hiện nay.
Công trình Tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán
bộ, công chức, viên chức: Kết quả khảo sát xã hội học [103] là kết quả của một
cuộc điều tra xã hội học do Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng thế giới chủ trì
thực hiện. Trong đó, có một con số đáng lưu ý là 50% số doanh nghiệp đồng ý các
nhóm lợi ích ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong hoạt động kinh doanh. Theo
đó, các doanh nghiệp cho rằng, nhóm lợi ích trong lĩnh vực kinh doanh của họ sẽ
giúp đưa những khó khăn trong quá trình kinh doanh đến được với các nhà hoạch
định chính sách; sử dụng nhóm lợi ích để đạt được mục đích;...
Lê Chi trong bài viết Tham nhũng qua “Nhóm thân hữu” [12] đã nêu ra kết
luận của Ủy ban Kinh tế Trung ương rằng, bản chất của mối quan hệ không bình
thường giữa quan chức với doanh nghiệp để trục lợi là một dạng tham nhũng đặc
biệt dẫn đến “lợi ích nhóm”. Nó có thể chi phối cả nền kinh tế, thậm chí là chính
trị. Tác hại của mối quan hệ này sẽ làm cản trở quá trình phát triển kinh tế nhanh
và bền vững vì nó tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, không bình
14
đẳng. Mối quan hệ này sẽ bóp méo các chính sách của Nhà nước thay vì ban hành
để phục vụ đại bộ phận nhân dân thì nó lại quay hướng để phục vụ cho một số ít
doanh nghiệp hình thành và phát triển “lợi ích nhóm”.
Bài viết Tham nhũng gia tăng bởi lợi ích nhóm hoành hành [112] của Vĩnh
Trà khẳng định: cuộc chiến chống tham nhũng và lợi ích nhóm là cuộc chiến
chống “giặc nội xâm” một mất một còn. Những biểu hiện tham nhũng ngày càng
phức tạp và tinh vi vì đối tượng tham nhũng thường là những người có chức, có
quyền, có trình độ, khả năng che giấu hành vi phạm tội. Nhiều trường hợp còn khó
khăn trong việc chứng minh động cơ vụ lợi trong việc cố ý làm trái, thiếu trách
nhiệm. Thậm chí nhiều nơi, người đứng đầu ngành, địa phương chưa thật sự chỉ
đạo chống tham nhũng, xử lý trách nhiệm người đứng đầu chưa nghiêm. Đặc biệt
trách nhiệm giải trình của người có chức vụ, quyền hạn chưa rõ ràng, công khai
minh bạch, ở đơn vị còn hình thức, chiếu lệ, có tính chất đối phó. Trong khi đó, lợi
ích nhóm ngày càng phát triển càng làm cho tham nhũng trở nên trầm trọng. Bài
viết đưa ra giải pháp chống lại nạn tham nhũng và lợi ích nhóm là “minh bạch
thông tin, minh bạch khiếu nại, khiếu kiện của công dân, minh bạch ngân sách, tài
chính, minh bạch mua sắm công, minh bạch, công khai thu nhập của những người
có chức, có quyền”.
Trong Hội thảo “Nhận diện lợi ích nhóm” của Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh [57], các nhà nghiên cứu đã đưa ra quan điểm về bản
chất, tác động của lợi ích nhóm đến xã hội, đất nước và phát triển kinh tế ở Việt
Nam; các dạng thức biểu hiện của lợi ích nhóm và tác hại của chúng; xu hướng
phát triển các dạng lợi ích nhóm ở Việt Nam; nguyên nhân tồn tại các loại lợi ích
nhóm ở Việt Nam hiện nay; lợi ích nhóm và vấn đề suy thoái đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; giải pháp hạn chế tác hại của lợi
ích nhóm trong tổng thể các giải pháp chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên.
Bài viết Lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng ở Việt Nam hiện nay [36] của
Đặng Quang Định trình bày bản chất của tham nhũng và lợi ích nhóm và mối
quan hệ giữa chúng, từ đó khẳng định, tham nhũng có tính chất và biểu hiện ngày
15
càng phức tạp do có sự móc nối, liên kết. Tác giả chỉ ra “biểu hiện cụ thể của lợi
ích nhóm đi liền với tham nhũng là hiện tượng móc nối, liên kết ngầm nhằm thay
đổi chính sách, dự án đầu tư; thực hiện đấu thầu ảo các dự án hoặc chuyển thầu,
chọn nhà đầu tư mới; thay đổi cán bộ quản lý các dự án; liên kết để đẩy giá hàng
hóa, dịch vụ, tăng giá bất hợp lý; thao túng thị trường hàng hóa, tạo khan hiếm
giả; thao túng lãi suất; chạy dự án… Nguy hiểm hơn, những liên kết ngầm có thể
can dự vào quá trình ban hành, hoạch định chính sách, pháp luật nhằm trục lợi cá
nhân hoặc một nhóm nhất định” [36, tr.84]. Ngoài việc có thể tham khảo về biểu
hiện của lợi ích nhóm, luận án còn có thể kế thừa những quan điểm của tác giả bài
viết về hạn chế lợi ích nhóm tiêu cực, nhằm phòng, chống tham nhũng.
Nguyễn Văn Giang trong bài viết Ảnh hưởng của “lợi ích nhóm” đến sự
lãnh đạo của Đảng cầm quyền [41] phân tích “lợi ích nhóm” theo nghĩa tiêu cực.
Theo đó, tác giả cho rằng “Đó là lợi ích của một nhóm người có quyền lực và vị
thế nhất định câu kết với nhau để mưu cầu lợi ích nhưng lợi ích này đi ngược lại
lợi ích quốc gia, ảnh hưởng không tốt đến lợi ích chính đáng của nhân dân” [41,
tr.83]. Tác giả khẳng định lợi ích nhóm ở nước ta có đặc trưng là liên quan đến
những người có chức quyền các cấp, các ngành, làm cản trở quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, làm băng hoại đạo đức của không ít đảng viên có
chức quyền; và đặc biệt đáng lo là đã bắt đầu tác động đến vai trò lãnh đạo của
Đảng. Bài viết chỉ rõ những tác động của lợi ích nhóm tiêu cực đến tất cả các mặt
trong sự lãnh đạo của Đảng như: 1/ tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng và
thực hiện các chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng [41, tr.84]; 2/ tác động
tiêu cực tới quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật [41, tr.84]; 3/
nhóm lợi ích lợi dụng các phương tiện thông tin, tuyên truyền đánh lừa dư luận,
bóp méo, cản trở sự lãnh đạo của Đảng [41, tr.85]; 4/ thao túng công tác tổ chức,
cán bộ [41, tr.85]; 5/ tác động tiêu cực đến thực hiện các nguyên tắc tổ chức, hoạt
động của Đảng [41, tr.85]; 6/ làm biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
[41, tr.85]. Để ngăn ngừa những điều trên, tác giả đưa ra một số giải pháp như
nâng cao nhận thức, phát huy dân chủ, công khai minh bạch… Luận án có thể kế
thừa phần về tác động tiêu cực của lợi ích nhóm đến nhân tố lãnh đạo quá trình
16
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - là Đảng Cộng sản và giải pháp để ngăn
ngừa, phòng chống điều này.
Cao Văn Thống, Đỗ Xuân Tuất, Nhận diện biểu hiện “Lợi ích nhóm” trong
công tác tổ chức, cán bộ và giải pháp khắc phục [107]. Các tác giả trình bày các
biểu hiện của lợi ích nhóm trong các công đoạn hoạt động của công tác tổ chức,
cán bộ như trong việc ban hành, chỉ đạo, thực hiện chủ trương, chính sách về công
tác tổ chức, cán bộ. Bài viết nêu lên cả nguyên nhân khách quan (các quy định của
Đảng, Nhà nước về công tác này chưa đầy đủ) và nguyên nhân chủ quan (sự thoái
hóa đạo đức của một số cán bộ lãnh đạo và một số cán bộ làm công tác tham mưu
về công tác tổ chức, cán bộ). Các tác giả đưa ra giải pháp để khắc phục tình trạng
này. Bài viết cung cấp cho luận án về vấn đề lợi ích nhóm ở một trong số các lĩnh
vực mà nó tồn tại - đó là trong công tác tổ chức, cán bộ.
Hồng Minh trong bài viết Lợi ích nhóm - một dạng tham nhũng đặc biệt
[77] đã chỉ ra một số doanh nhân, doanh nghiệp đã “móc nối với những phần tử
thoái hóa, biến chất trong bộ máy quản lý nhà nước, vì lợi ích cục bộ, lợi ích
nhóm, làm trầm trọng thêm các tiêu cực xã hội”. Sự “móc nối” giữa doanh nhân,
doanh nghiệp với một số công chức là mối quan hệ không bình thường, dựa trên
sự “có đi, có lại” giữa doanh nhân, doanh nghiệp với công chức có vai trò quan
trọng hoặc quyết định về cơ chế quản lý, chính sách tài chính, tiền tệ, đất đai, thủ
tục hành chính (kể cả một số công chức lãnh đạo, quản lý đã nghỉ hưu hoặc
chuyển công tác nhưng còn có thể lợi dụng để trục lợi)… Mối quan hệ không bình
thường giữa một số công chức với doanh nhân, doanh nghiệp đã và đang gây ra
những hệ lụy rất đáng lo ngại trên các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội và cả về chính trị,
an ninh, quốc phòng. Mối quan hệ ấy đã và đang phá vỡ môi trường kinh doanh
lành mạnh, tạo sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, làm nản lòng
những nhà đầu tư (cả trong nước và nước ngoài) làm ăn chân chính. Mối quan hệ
không bình thường như trên làm tha hóa và hư hỏng một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cao cấp. Tình trạng đó đã và
đang làm trầm trọng thêm sự cách biệt bất hợp lý giữa người giầu, người nghèo.
- Xem thêm -