VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỒNG VINH
CÁC LỄ HỘI TƯỞNG NHỚ CÁC VỊ
DANH NHÂN CHỐNG NGOẠI XÂM
NỔI TIẾNG CỦA XỨ NGHỆ
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số : 62 31 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Lê Sỹ Giáo
2. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận án là kết quả điều tra thực địa và thu thập tư liệu của
tác giả luận án.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Hồng Vinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................... 11
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ................................................................. 11
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu .................................................. 26
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 33
CHƯƠNG 2: LỄ HỘI ĐỀN VUA MAI ............................................................. 34
2.1. Nguồn gốc lễ hội đền Vua Mai ........................................................................ 34
2.2. Không gian linh thiêng của lễ hội đền Vua Mai ............................................. 35
2.3. Phần lễ trong lễ hội đền Vua Mai .................................................................... 42
2.4. Phần hội trong lễ hội đền Vua Mai .................................................................. 56
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 70
CHƯƠNG 3: LỄ HỘI ĐỀN NGUYỄN XÍ ........................................................ 71
3.1. Nguồn gốc lễ hội đền Nguyễn Xí .................................................................... 71
3.2. Không gian linh thiêng của lễ hội đền Nguyễn Xí ......................................... 73
3.3. Phần lễ trong lễ hội đền Nguyễn Xí ................................................................ 75
3.4. Phần hội trong lễ hội đền Nguyễn Xí .............................................................. 82
3.5. Con cháu dòng họ Nguyễn Đình với lễ hội đền Nguyễn Xí .......................... 84
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 90
CHƯƠNG 4: LỄ HỘI LÀNG SEN..................................................................... 91
4.1. Nguồn gốc lễ hội Làng Sen .............................................................................. 91
4.2. Không gian của lễ hội ....................................................................................... 96
4.3. Thời gian mở lễ hội .......................................................................................... 96
4.4. Ý nghĩa, giá trị và những thành tựu của lễ hội Làng Sen ............................... 98
4.5. Một số đề xuất nâng tầm lễ hội làng Sen ...................................................... 104
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 111
CHƯƠNG 5: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI................................ 113
5.1. Đặc điểm của các lễ hội.................................................................................. 113
5.2. Các giá trị của lễ hội ....................................................................................... 118
5.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ hội ..................................... 123
Tiểu kết chương 5 .................................................................................................. 135
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 137
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................... 140
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 141
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 148
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội là một bảo tàng sống về sinh hoạt văn hóa tinh thần. Ở Việt Nam từ
xưa tới nay đại bộ phận người Việt sống ở làng và làng nào cũng có lễ hội. Nghệ
Tĩnh xưa (nay là Nghệ An và Hà Tĩnh - nơi “địa linh” đã sinh nhiều “nhân kiệt”.
Các vị danh nhân xứ Nghệ đã sống mãi trong lòng nhân dân nơi đây không
chỉ qua những câu ca dao, hò, ví… mà còn được nhân dân tôn thờ tại các di
tích và thông qua các hoạt động lễ hội.
1.1. Xứ Nghệ, quê hương của nhiều bậc danh nhân kiệt xuất từ xưa đã nổi
tiếng "địa linh nhân kiệt". Tìm hiểu về Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân
chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ chúng ta thêm tự hào, biết ơn và trân
trọng những giá trị truyền thống mà cha ông ta đã dày công xây dựng.
Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ
Nghệ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của nhân
dân, giáo dục truyền thống văn hóa và chống ngoại xâm của dân tộc.
Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ
Nghệ còn là môi trường để các loại hình nghệ thuật dân gian, các trò chơi dân
gian có dịp thể hiện, phát triển.
Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ
Nghệ góp phần gắn kết các thành viên trong cộng đồng, là môi trường cộng cảm
sâu sắc có tác động đến đời sống tình cảm, góp phần xây dựng tính cách và tâm
hồn người dân xứ Nghệ, tâm hồn người Việt Nam "trọng nghĩa trọng tình" và
giáo dục truyền thống ''uống nước nhớ nguồn''.
Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ
Nghệ thể hiện bản sắc văn hóa xứ Nghệ, thể hiện lòng tự tôn dân tộc, thể hiện ước
mơ, nguyện vọng và năng lực sáng tạo văn hóa của nhân dân, hướng con người
đến với chân - thiện - mỹ, có ý nghĩa thiết thực trong đời sống đương đại.
1
1.2. Trong nhiều thập kỷ qua, nhân dân ta phải dồn công sức của cải vào
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nên các lễ hội trong nước nói
chung, Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của
xứ Nghệ nói riêng cũng bị vắng bóng một thời.
Lễ hội tưởng nhớ danh nhân chống giặc ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ thể
hiện tình cảm, sự biết ơn của hậu thế đối với những người có công đối với lịch sử
dân tộc. Có nhiều hình thức tôn vinh danh nhân, lễ hội là một trong những hình
thức tôn vinh vừa trang trọng vừa gần gũi với đời sống cư dân xứ Nghệ.
Nhiều năm qua, lễ hội truyền thống ở Việt Nam đã trải qua những bước
thăng trầm: có khi lắng xuống, có khi lại phát triển ồ ạt, thiếu tính tổ chức.
Trong những nguyên nhân của thời kỳ lắng xuống ấy có thể kể đến những
nguyên nhân khách quan như chiến tranh hay kinh tế đất nước còn nhiều khó
khăn; trong những nguyên nhân chủ quan phải kể đến việc nhận thức và cách
thức quản lý của các nhà quản lý văn hóa - xã hội; có lúc người ta coi tổ chức
lễ hội là một sự lãng phí, tốn kém tiền của của nhân dân, là mê tín dị đoan…
nên đã đưa ra những quyết định quản lý lễ hội nặng về cấm đoán hành chính,
thiếu căn cứ khoa học. Chính vì thế, nhiều lễ hội truyền thống không được vận
hành theo đúng qui luật của văn hóa, nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội
theo đó cũng bị mai một dần.
Trong những năm gần đây, tình hình dường như có xu hướng ngược lại,
lễ hội phát triển ồ ạt, không được định hướng một cách có tổ chức, khoa học
và nhiều yếu tố ngoại lai đã xuất hiện trong lễ hội. Các nhà quản lý văn hóa
đã nhận thức rõ hơn về lễ hội và coi lễ hội là nhu cầu thực sự, khách quan của
nhân dân; nhu cầu này cần phải được thoả mãn một cách chính đáng. Tuy
nhiên, họ lại phải đứng trước một tình huống quản lý không hề đơn giản:
không thể đưa ra những quyết định cấm như thời kỳ trước đây, nhưng cũng
chưa thể đưa ra những quyết định khác có thể định hướng, điều chỉnh tình
trạng phát triển ồ ạt của lễ hội hiện nay.
2
Văn hoá xứ Nghệ, trong đó có lễ hội truyền thống đã có từ lâu đời, trở
thành một bộ phận không thể tách rời của văn hoá các dân tộc ở Việt Nam.
Những giá trị văn hoá trong lễ hội đã hình thành nên cốt cách tình cảm, diện
mạo của văn hóa xứ Nghệ. Những lễ hội ấy được lưu truyền từ đời này sang
đời khác, trải qua những thăng trầm biến động của lịch sử, được chắt lọc, bổ
sung trở thành bản sắc văn hoá rất riêng của người dân xứ Nghệ. Việc nhận
diện đầy đủ và nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về lễ hội truyền thống và
hiện đại ở tỉnh Nghệ An sẽ góp phần làm cho bản sắc văn hoá Việt Nam càng
thêm rõ nét “đa dạng và thống nhất, thống nhất trong đa dạng”.
Thông qua việc nghiên cứu các lễ hội tưởng nhớ danh nhân, luận án còn
cung cấp những luận cứ khoa học, giúp các cấp chính quyền địa phương nhận rõ
những giá trị đích thực của nó để có hướng bảo tồn, kế thừa và phát huy một cách
phù hợp các giá trị văn hoá truyền thống nhằm phục vụ việc xây dựng đời sống
văn hoá lành mạnh ở cơ sở. Đồng thời góp phần vào việc xây dựng, phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Với tinh thần đó và với tình cảm của một người con xứ Nghệ, chúng tôi
chọn Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của
xứ Nghệ làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Trên cơ sở tập hợp, khảo tả và phân tích các tư liệu, luận án tập trung
làm rõ những đặc điểm cùng những giá trị văn hoá của các lễ hội tưởng nhớ
các vị danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ.
- Chỉ ra những biến đổi của lễ hội tưởng nhớ danh nhân truyền thống
và hiện đại trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá của người Việt.
- Bước đầu so sánh những tương đồng và khác biệt trong lễ hội tưởng
nhớ danh nhân ở tỉnh Nghệ An.
3
- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống, đồng thời đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống trong bối cảnh phát
triển và hội nhập.
2.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu về các lễ hội tưởng nhớ các danh nhân xứ Nghệ góp phần
làm rõ bức tranh văn hóa vùng miền.
- Nêu bật vai trò và ý nghĩa của Các lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân
chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ trong đời sống tâm linh của người
dân Nghệ An - Hà Tĩnh.
- Đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát huy những yếu tố tích cực và
khắc phục những hạn chế của lễ hội trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các lễ hội tưởng nhớ các vị danh
nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ, trong đó tập trung chủ yếu vào
lễ hội đền Vua Mai, lễ hội đền Nguyễn Xí, lễ hội Làng Sen.
3.2. Phạm vi
Luận án nghiên cứu các vấn đề liên quan đến các lễ hội tưởng nhớ các vị
danh nhân chống ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ (địa bàn nghiên cứu chính
là ở tỉnh Nghệ An).
Nghiên cứu được tập trung thực hiện tại huyện Nam Đàn, huyện Nghi
Lộc và thành phố Vinh, nơi diễn ra lễ hội tưởng nhớ các vị danh nhân chống
ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ.
3.3. Vài nét về điểm nghiên cứu
3.3.1. Huyện Nam Đàn
Huyện Nam Đàn là một vùng văn vật nổi tiếng, nhất là dọc hai bờ sông
Lam. Đời Lê là huyện Nam Đường, đất khá rộng gồm 8 tổng ở tả ngạn sông
Lam. Năm 1840 cắt bốn tổng làm huyện Lương Sơn. Đến năm 1886 đổi tên
4
như hiện nay. Thời cận đại cắt hai tổng cho Thanh Chương (Xuân Lâm, Đại
Đồng), đổi lại lấy về một tổng của Thanh Chương (Nam Hoa). Nay có 23 xã
và một thị trấn Nam Đàn. Cùng với Hưng Nguyên, Nam Đàn là vùng trung
tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của nhiều triều đại. Xa xưa thời đại đồ đồng
còn để dấu vết khá quan trọng ở Nam Đàn, đó là những hiện vật đồ đồng thau
(cuốc, lưỡi cày, rìu, mũi nhọn, nhẫn...) và đồ đá mài (chày nghiền, mũi khoan,
vòng tay...). Đặc biệt có nồi nấu đồng còn dính xỉ tại di chỉ rú Trăn, xã Nam
Xuân. Nó chứng tỏ kỹ thuật luyện dồng thời đại Hùng Vương thực sự tiến
hành tại chỗ, không phải mang từ đâu đến. Thế kỷ VIII, Mai Thúc Loan dựng
cờ khởi nghĩa và xây thành đắp lũy ở đây. Sa Nam là lỵ sở của Nam Đàn. Các
cuộc nổi dậy chống Pháp đều dùng mảnh đất này làm nơi tuyên truyền vận
động. Như chúng ta đều biết, Nam Đàn là huyện có làng quê Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Không những thế, đó là đất có truyền thống cách mạng. Ở đây cũng có
làng quê Phan Bội Châu. Không phải ngẫu nhiên mà từ lâu đời đã lưu hành
rất phổ biến những câu mà nội dung mang ước vọng có nhân tài ra đời làm
cho nước thái bình thịnh trị, tựa như sấm ngữ:
"Đụn Sơn phân giải (giới),
Bò Đái thất thanh
Nam Đàn sinh thánh" [22, 49]
3.3.2. Huyện Nghi Lộc: Trong gần nghìn năm Bắc thuộc, danh xưng và
diên cách của huyện Nghi Lộc (ngày nay) có nhiều thay đổi: từ huyện Dương
Thành (thời Ngô) đến Dương Toại (thời Tần) và Phô Dương (thời Đường).
Đến nhà Trần mới tách làm đôi, một nửa thuộc về bờ bắc sông Lam huyện
Tân Phúc, thuộc Vinh là Chân Phúc. Có thuyết nói là Nghi Chân (Dương Tử
Mỹ "Nghệ Tĩnh sơn thủy vịnh"- sách Hán chép tay). Đến đời Tây Sơn Chân
Phúc đổi làm Chân Lộc, từ trước thuộc phủ Anh Sơn, đến đời Nguyễn mới
cho lệ thuộc phủ Đức Quang gồm 5 tổng (Thượng Xá, La Vân, Vân Trình,
Kim Nguyên, Đặng Xá). 166 xã, thôn, phường, trang, sau cách mạng thêm vài
làng của tổng Hải Đô (Hưng Nguyên), hợp thành 38 xã và một thị trấn. Đất ở
5
đây hầu hết là cát do biển mới bồi đắp mà thành, nói chung không được mầu mỡ
như các huyện khác. Có câu: "Được mùa Chân Phúc đổ trúc vô nồi" ý nói dù
được mùa thì lúa cũng chẳng có bao nhiêu không nhiều bằng khoai"[22, 39].
3.3.3. Thành phố Vinh: Nằm trên đất của hai xã Yên Trường và Vĩnh
Yên, Nghi Lộc. Thời Hậu Lê chính quyền phong kiến thường đóng dinh tại
đây, nên gọi là Vĩnh Dinh (quen gọi là Vịnh), có chợ gọi là chợ Vịnh, có kênh
là kênh Vịnh. Sau này thực dân gọi chệch là Vinh. Nguyễn Huệ đã từng đóng
tại bản doanh, tại đây. Thời Nguyễn, vì trấn trị Nghệ An cũ bị sông xói lở,
nên Gia Long cho dời đến đây đắp lũy đất (1803). Đến Minh Mạng, thành
mới được xây quy mô bằng đá và gạch. Thành cao một trượng, có tường lũy
cao 2,5 thước chu vi 603 trượng. Đứng từ xa nhìn lại như một con hải sâm, có
người cho giống con rùa, nên cũng gọi là Quy Thành (Thành rùa), đặc biệt là
thành có 4 cửa, duy có cửa hậu (Phía Bắc) là thường xuyên bị tấn lại vì sợ
hung thần quấy nhiễu. Cũng một kiểu như thế ở thành Thanh Hóa, nhưng tấn
lại ở đây lại là Cửa Tiền (phía Nam). Vì thế mới có câu: "Thanh vô tiền, Nghệ
vô hậu".
Năm 1898, chính quyền thực dân bắt đầu cho xây dựng thành phố
Vinh. Vào năm 1930 nó chiếm diện tích khoảng 20 cây số vuông, có 10 phố,
số dân khoảng 20.000 người. Trước cuộc kháng chiến chống Pháp ta đã triệt
để phá dỡ, kể cả thành tỉnh cũng như đối với thành phủ Diễn Châu. Một lão
nông đã cảm khái bằng mấy câu giặm vè:
... thành Nghệ An vững bền nhất đẳng
Cũng phá hoại thành bình dương.
Nói với kẻ có ruộng có nương
Chớ nên đóng mục (mốc) lim cho cổ thụ.
Đó là cái triết lý mang ý nghĩa nhân sinh khá sâu sắc xuất hiện vào thời
gian bảy năm trước ngày cải cách ruộng đất, nhưng dễ mấy ai đã hiểu được.
Sau đó thành phố lại được xây lên, nhưng chưa được bao lâu nó lại đến lượt bị
"giặc trời" Mỹ phá hoại hầu như hoàn toàn. Đối lại, chỉ riêng lực lượng phòng
6
không của thành phố Vinh cũng đã hạ được 146 máy bay đủ các loại và hai lần
được Bác tặng cờ. Từ đống gạch vụn, ngày nay thành phố Vinh đã cất mình
dậy đàng hoàng và quy mô hơn trước nhiều. Nằm bên bờ sông Lam, con sông
đẹp được xếp hạng vào đầu nhà Nguyễn. Từ xưa nó có cái tên dân gian khá
phổ biến là Rum:
"Núi Hồng ai đắp mà cao
Sông Rum ai bới ai đào mà sâu"
Rum là mầu đẹp, xanh pha trộn với đỏ trở thành mầu tim tím, gần với
mầu điều. Có chàng trai trong câu hát giặm đã hứa nhuộm cho ý trung nhân
cái quai nón thượng một mầu vừa ý nhất: "Nhuộm rum cho em đội, nhuộm
điều cho em đội !"Trước thời Lê đã từng có người ghi sông này là Thanh
Long (rồng xanh). Nhưng từ đời Lê trở về sau, cái tên Lam - xanh sẫm - được
đem dùng thay cho tên Rum [22, 52]. Mặc dầu màu lam chưa hẳn đúng với
màu rum nhưng dường như được nhiều nho sĩ chấp nhận. Các huyện, thành
cạnh dòng Lam giang là quê hương của ví phường vải mà Nam Đàn hẳn là
trung tâm.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nhất là văn hóa
cổ truyền của dân tộc. Bởi, lễ hội là sản phẩm của quá khứ, chịu sự tác
động và biến đổi của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trong từng thời
điểm lịch sử cụ thể.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Dân tộc học/Nhân học
văn hoá - xã hội kết hợp với một số phương pháp Văn hoá học, Sử học... Các
phương pháp chủ yếu là điền dã dân tộc học với các công cụ chính: phỏng vấn
sâu, thảo luận nhóm, họp cộng đồng,... được thực hiện tại các làng, xã có lễ
hội nhằm thu thập thông tin định lượng và định tính.
7
Nguồn tư liệu sử dụng trong luận án chủ yếu là tài liệu điền dã do tác giả
luận án thu thập tại địa bàn nghiên cứu. Tác giả đã kế thừa một phần nội dung
luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Dân tộc học được Hội đồng chấm luận án
đánh giá với kết quả xuất sắc năm 2008. Trong thời gian thực hiện luận án,
tác giả đã tiến hành khảo sát nhiều đợt (tháng giêng các năm 2013, 2014,
2015) và tháng 5 dương lịch các năm 2013, 2014, 2015 ở địa bàn huyện Nam
Đàn, Nghi Lộc và thành phố Vinh để tìm hiểu, nghiên cứu về lễ hội đền Vua
Mai, lễ hội đền Nguyễn Xí, lễ hội làng Sen.
- Quan sát tham dự các lễ hội từ lúc chuẩn bị lễ hội đến diễn trình lễ hội
và dư âm của nó sau lễ hội. Đây là phương pháp quan trọng nhất để thu thập
tài liệu xây dựng luận án.
- Phỏng vấn sâu những người có uy tín trong cộng đồng: người già, chủ
hộ gia đình, trưởng dòng họ, phụ trách các hội, đoàn thể, tổ chức tại địa
phương. Đối tượng thảo luận nhóm là: lãnh đạo địa phương, những người già
có uy tín, nhóm nam chủ hộ từ 40 tuổi trở lên, nhóm nam chủ hộ dưới 40 tuổi;
nhóm nữ 15- 40; 40 trở lên; nhóm theo hội, phường, nghề nghiệp...
- Sử dụng phương pháp chuyên gia thông qua việc tổ chức các hình thức
trao đổi, toạ đàm tại địa phương.
- Sử dụng phương pháp thống kê, kế thừa và phân tích các kết quả nghiên
cứu đã có, cũng như các tài liệu thứ cấp liên quan ở địa phương và Trung ương.
Ngoài ra, chúng tôi tham khảo thêm những luận điểm có tính hệ thống từ
những công trình nghiên cứu đã được công bố như sách, báo, tạp chí, các kết
quả nghiên cứu từ các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ; các tài liệu thư tịch:
thần tích, hương ước, văn bia, sắc phong… và hồ sơ di tích của các đền, đình,
chùa - không gian linh thiêng của lễ hội.
Bên cạnh đó, tác giả luận án còn sử dụng các nguồn tài liệu thứ cấp như
các văn bản về chủ trương, chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của lễ hội truyền thống; các số liệu thống kê của Trung ương và địa phương;
các tài liệu về kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An.
8
- Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận vùng văn hóa. Vùng văn hóa
được biểu hiện trên nhiều mặt của đời sống văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
Qua đó, chúng ta thấy được nét độc đáo của lễ hội ở vùng quê xứ Nghệ.
4.3. Cách tiếp cận
Luận án tiếp cận dưới góc độ Nhân học, do đó nghiên cứu thể hiện tính hệ
thống và sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu theo các bước:
- Tiếp cận liên - đa ngành
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lễ hội liên quan đến các danh nhân
với các đặc điểm mang tính truyền thống và hiện đại. Vì vậy tiếp cận liên - đa
ngành Dân tộc học/Nhân học kết hợp với một số ngành khoa học liên quan
khác như: Văn hóa học, Sử học sẽ được sử dụng trong nghiên cứu này.
- Tiếp cận hệ thống:
Tiếp cận hệ thống được sử dụng để phân tích mối quan hệ và tác động
qua lại giữa con người với các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá. Theo đó,
những vấn đề liên quan đến lễ hội cần đặt trong mối quan hệ chung của xứ
Nghệ, bao gồm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ
những mối liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá … của các cộng đồng dân cư, nhất là khi đề xuất các các giải
pháp bảo tồn và phát huy các lễ hội tưởng nhớ các danh nhân.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về lễ hội tưởng nhớ danh
nhân chống ngoại xâm nổi tiếng nhằm góp phần làm rõ diện mạo và sắc thái
văn hoá địa phương của người Việt ở tỉnh Nghệ An.
- Luận án bước đầu xác định những đặc trưng cơ bản trong lễ hội tưởng
nhớ danh nhân cũng như những biến đổi của nó, từ đó rút ra những giá trị văn
hóa của lễ hội và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa của lễ hội trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây
dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
- Luận án cung cấp những cứ liệu thực tế về các lễ hội tưởng nhớ các vị
danh nhân chống giặc ngoại xâm nổi tiếng của xứ Nghệ. Qua việc đi sâu tìm
hiểu về các lễ hội đền Vua Mai, lễ hội đền Nguyễn Xí và lễ hội làng Sen để
thấy rõ được đặc trưng văn hóa của vùng này.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính
sách nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội
phục vụ công cuộc phát triển hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy lịch sử văn
hóa địa phương, lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc và tôn vinh các vị
danh nhân Mai Thúc Loan, Nguyễn Xí, Hồ Chí Minh.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án có 5
chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Lễ hội đền Vua Mai
Chương 3: Lễ hội đền Nguyễn Xí
Chương 4: Lễ hội làng Sen
Chương 5: Đặc điểm và giá trị của lễ hội
10
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về lễ hội là mảng đề tài hấp dẫn, thu hút nhiều học giả
trong và ngoài nước tham gia. Các cuộc Hội thảo khoa học quốc tế, Hội
thảo khoa học quốc gia, sách báo viết về lễ hội truyền thống Việt Nam
được xuất bản.
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Trên phạm vi toàn quốc
Trong các loại hình của văn hóa dân gian, lễ hội là loại hình được sưu
tầm và nghiên cứu tương đối muộn màng. Thời kỳ từ thế kỷ X đến năm 1858,
các nhà nho chỉ quan tâm ghi chép lại các huyền thoại, thần tích về các thần
được người dân ở các làng quê thờ phụng mà ít ghi chép sự phụng thờ các vị
thần ấy của người dân ở các làng quê. Phải chăng, điều này do quan niệm của
các nhà nho hay do truyền thống văn hóa Việt Nam. Những năm đầu thế kỷ
XX, việc nghiên cứu Đông Dương, trong đó có Việt Nam, của người Pháp
được tăng lên với nhịp độ đáng kể với nguyên cớ như viên toàn quyền Đông
Dương P. Doumer từng viết: Muốn cai trị tốt dân tộc thuộc địa thì điều trước
hết phải hiểu tường tận dân tộc được cai trị. Lễ hội cổ truyền là một thành tố
của văn hóa dân gian được các trí thức người Pháp, có khi là linh mục, có khi
là công chức quan tâm nghiên cứu. Năm 1915, khi viết về phong tục tập quán,
Phan Kế Bính cũng dành nhiều trang trong cuốn Việt Nam phong tục để viết
về việc Thờ thần, Việc tế tự, nhập tịch, Đại hội, Lễ kỳ an. Tuy không miêu tả
một lễ hội nào cụ thể, nhưng những nhận xét về lễ hội cổ truyền của ông là rất
xác đáng. Năm 1930, Nguyễn Văn Khoan khi nghiên cứu về ngôi đình của
người Việt đã dành ba mục: Các buổi cúng tế trong đình, Tục lệ thờ cúng,
Một số hèm đặc biệt để đề cập đến phần văn hóa phi vật thể gắn bó với ngôi
đình. Chính đây lại là những thành tố của lễ hội cổ truyền gắn bó với môi
11
trường xã hội của văn hóa, nói cách khác, ngôi đình là môi trường diễn
xướng, là không gian của lễ hội cổ truyền. Thành công sớm của các nhà khoa
học Việt Nam khi nghiên cứu lễ hội cổ truyền phải kể đến Nguyễn Văn
Huyên. Ông là người tiếp thu được nhiều kinh nghiệm của học thuật Pháp và
do đó đã để lại những công trình khảo cứu rất có giá trị. Năm 1938, khi cho ra
mắt bạn đọc cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh có đề cập đến lễ
hội cổ truyền trong phần Tín ngưỡng và tế tự. Lễ hội không là đối tượng được
ông đề cập nhưng những ghi chép của ông vẫn có nhiều tác dụng cho việc
nghiên cứu về lễ hội của các thế hệ sau. Bẵng đi mấy năm từ 1945 đến 1954,
hầu như lễ hội cổ truyền không được chú tâm nghiên cứu, sưu tầm. Lý do
chính phải chăng là khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã
khiến cho những lễ hội cổ truyền không được mở, nên việc sưu tầm, nghiên cứu
về nó cũng chưa được phát triển. Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời
chia cắt, việc sưu tầm, nghiên cứu lễ hội ở hai miền diễn ra khác nhau, cùng
phương pháp và động cơ cũng có khác nhau [109, tr.15-19].
Ở miền Bắc, từ sau năm 1954, việc sưu tầm và nghiên cứu lễ hội cổ
truyền có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau năm 1975. Trước năm 1975,
việc sưu tầm nghiên cứu lễ hội cổ truyền chưa được giới nghiên cứu quan
tâm. Những năm 1954 - 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đòi hỏi
chúng ta phải tập trung sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Mặt khác, do nhiều tác động của chiến tranh, cho
nên lễ hội cổ truyền tạm lắng xuống. Ở miền Nam, cũng trong thời điểm này,
Toan Ánh là người có đóng góp rất lớn vào công việc sưu tầm và nghiên cứu
về lễ hội cổ truyền việt Nam [109, tr.20-21].
Nghiên cứu về lễ hội ở Việt Nam nói chung đã có những công trình như
Hội hè đình đám của Toan Ánh với quyển thượng và quyển hạ, do nhà xuất
bản Nam Chi ấn hành năm 1969 - 1974, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh
tái bản năm 1992. Toan Ánh sinh ra trên đất Bắc, sống ở miền Nam trước
12
năm 1975, với Toan Ánh viết về lễ hội cổ truyền như một cơ hội để đánh thức
những kỷ niệm xưa cũ về quê hương của mình. Ngoài những phần khảo cứu,
tác giả tập trung miêu thuật các lễ hội cổ truyền trên mọi miền đất nước. Với
54 lễ hội cổ truyền, công trình này là bộ sưu tập đầu tiên, dày dặn về lễ hội
Việt Nam [109, 20]. Trong các hội quê, tác giả đã phân biệt lễ hội trong cả
nước thành ba loại: một là các hội về lịch sử liên quan tới các nhân vật lịch sử
được dân làng thờ phụng làm thần linh, hoặc liên quan tới một sự kiện lịch sử
được dân chúng kỷ niệm; hai là các hội về tôn giáo; ba là các hội về phong
tục. Viết về mỗi hội tác giả đã lần lượt trình bày: nơi và ngày có hội, thần
tích, các trò vui trong ngày hội [5, tr.9 - 10]. Quyển thượng gồm hai chương:
chương 1, hội hè về kỷ niệm lịch sử; chương 2, hội hè về tôn giáo. Quyển hạ
gồm chương 3, hội hè về phong tục và chương 4, những đặc tính của cổ tục
Việt Nam trong hội hè đình đám. Tác giả không chỉ cung cấp cho chúng ta về
thời gian, không gian và nội dung của những lễ hội dân gian Việt Nam mà
còn dành tới 33 trang [6, tr.9 - 42] khái quát chung về mục đích và giải thích
những khái niệm cơ bản nhất của lễ hội. Có thể xem đây là công trình đầu tiên
nghiên cứu về lễ hôi ở Việt Nam trên phạm vi rộng, có giá trị khoa học và
thực tiễn cao, gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo.
Từ những năm 40 đến những năm 70 của thế kỷ XX, do hoàn cảnh khách
quan, đặc biệt là do chiến tranh và một số lý do khác nữa mà lễ hội ở Việt
Nam nói chung không thể tổ chức được, hoặc nếu có được tổ chức thì quy mô
và nhiều nghi thức của nó cũng bị hạn chế. Cũng vậy, đề tài về lễ hội ở Việt
Nam một thời gian dài đã bị “vắng bóng”. Trước năm 1975, hai miền Nam Bắc cách trở, lễ hội và những bài viết về lễ hội Việt Nam ít người quan tâm.
Năm 1977 trong bài Hội làng trung du [144], Lê Thị Nhâm Tuyết đã chia hội
làng ra thành năm loại. Năm 1984, Lê Thị Nhâm Tuyết tiếp tục trình bày
Nghiên cứu về hội làng cổ truyền của người Việt [145]. Những nhận xét ban
đầu của tác giả quả thú vị với những tư liệu mà tác giả đã thu thập được. Đến
13
những năm 80 của thế kỷ XX trở lại nay, các nhà khoa học mới thực sự chú ý
tới mảng đề tài lễ hội nhiều hơn. Hàng loạt các công trình, bài viết, hội thảo
khoa học tập trung nghiên cứu về lễ hội, đặc biệt là lễ hội dân gian truyền
thống. Các bài viết nghiên cứu về lễ hội dưới nhiều góc độ khác nhau: Lê
Trung Vũ miêu thuật lại và đối sánh Diễn xướng cổ truyền và lễ hội quần
chúng mới [152], khẳng định vai trò quan trọng của Lễ hội - một nhu cầu
văn hóa xã hội [153] và nhấn mạnh Lễ hội - một vấn đề thời sự [154]. Cũng
thời gian này, Trần Quốc Vượng trong bài viết Lễ hội - một cái nhìn tổng thể
[156] giúp chúng ta hiểu về lễ hội một cách đầy đủ hơn. Tôn Thất Bình viết
về Lễ hội dân gian [14] đã đưa ra cách phân loại lễ hội riêng qua việc khảo sát
thực địa các lễ hội dân gian Thừa Thiên - Huế.
Năm 1984, Thu Linh và Đặng Văn Lung đã cho ra mắt độc giả cuốn
sách Lễ hội "truyền thống và hiện đại" đã góp phần đáng kể trong việc
nghiên cứu về lễ hội nói chung [94].
Nhìn chung các nhà nghiên cứu dân tộc học, các nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian cuối những năm 80 đã có cái nhìn mới trong việc nghiên cứu lễ hội
cổ truyền Việt Nam.
Đến những năm 90 của thế kỷ XX trở lại nay, việc nhìn nhận lễ hội với ý
nghĩa đích thực và tính tích cực của nó trong đời sống nhân dân Việt Nam đã
được ban, ngành các cấp và các nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực quan tâm
nhiều hơn. Ngoài hai công trình nghiên cứu tập thể Lễ hội cổ truyền và Lễ
hội truyền thống trong đời sống xã hội hội hiện đại, các tác giả còn công bố
trên các tạp chí chuyên ngành những bài viết về lễ hội như Phan Hữu Dật đã
cung cấp Văn hóa lễ hội của các dân tộc Đông Nam Á [26], Lễ hội cầu mùa
của các dân tộc ở Việt Nam [27]. Lưu Danh Doanh đã trình bày Môi trường lễ
hội - nơi giữ gìn hoạt động múa dân gian của người Việt [32]. Lê Đức Quý
đánh giá Thực trạng lễ hội dân gian cổ truyền ở nước ta hiện nay [45]. Hồ
Hoàng Hoa đề cập tới Tính thẩm mĩ dân tộc trong lễ hội Việt Nam [66] và
14
nhấn mạnh Lễ hội - một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng [68]. Hà
Tiến Hùng nghiên cứu về Lễ hội và danh nhân lịch sử Việt Nam [73]. Phan
Khanh viết về Bảo tàng di tích lễ hội [78]. Lê Văn Kỳ Tìm hiểu lễ hội nông
nghiệp Việt Nam [87],[88],[89]. Nguyễn Quang Lê Khảo sát thực trạng văn
hóa lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ [90]. Trần Quang
quan sát Những điều trông thấy từ các hội đền, chùa [117]. Trần Hữu Sơn
quan tâm tới Đặc điểm của món ăn trong lễ hội [124].
Ngoài những công trình nghiên cứu về lễ hội ở những bình diện khác
nhau nói trên, hàng loạt các công trình chỉ đơn thuần thống kê lễ hội phục vụ
cho việc tra cứu và khách du lịch như: Hội hè Việt Nam [133] do Trương Thìn
chủ biên, 60 lễ hội truyền thống Việt Nam [116] của đồng tác giả Thạch
Phương và Lê Trung Vũ; Lê Trung Vũ và Nguyễn Hồng Dương công bố cuốn
Lịch lễ hội [155] với 387 lễ hội. Từ điển lễ hội Việt Nam [132] của Bùi Thiết,
Từ điển di tích văn hóa Việt Nam [137] của Ngô Đức Thọ, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật biên soạn và cho ra mắt độc giả cuốn Kho tàng lễ hội cổ truyền
Việt Nam [109] với 212 lễ hội của các vùng văn hóa: Tây Bắc – Việt Bắc,
châu thổ Bắc Bộ, duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ; Tổng cục du
lịch Việt Nam ấn hành sách hướng dẫn du lịch Non nước Việt Nam [139];
Minh Anh - Hải Yến - Mai Ký đã tập hợp 25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam [4];
Đoàn Huyền Trang sưu tầm và biên soạn Lễ hội văn hóa và du lịch Việt Nam
[140]. Phạm Trình - Trần Minh tập hợp, chọn lọc 322 lễ hội cả nước cho ra
mắt độc giả cuốn sách Hành trình lễ hội Việt Nam [141], trong đó có 73 lễ hội
tiêu biểu của 15 tỉnh trung du và miền núi phía bắc, 70 lễ hội của 10 tỉnh vùng
đồng bằng sông Hồng, 57 lễ hội của 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, 60 lễ hội của
8 tỉnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ, 22 lễ hội của 5 tỉnh Tây Nguyên, 40 lễ
hội của 6 tỉnh vùng Đông Nam Bộ.
Trong số các công trình kể trên, đáng lưu ý là công trình Lễ hội cổ
truyền do Lê Trung Vũ chủ biên, xuất bản năm 1992. Cuốn sách là công trình
15
của tập thể các nhà khoa học Phan Đăng Nhật, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân
Kính, Lê Văn Kỳ, Lê Trung Vũ. Công trình này đã khẳng định vai trò quan
trọng của Lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt trong
chương 1: ‘‘Lễ hội là một bộ bách khoa đồ sộ, là một bảo tàng sống về đời
sống tinh thần của người Việt. Nó đã và sẽ có tác động mạnh mẽ và sâu sắc
vào tâm linh, vào việc khuôn đúc tâm hồn và tính cách Việt Nam xưa nay và
mai sau’’[150, tr.15]. Ở chương 2, Ngô Đức Thịnh đã làm sáng rõ Môi trường
tự nhiên, xã hội và lịch sử của sự hình thành lễ hội: ‘‘Nếu như nói một trong
những truyền thống, đặc trưng của xã hội Việt Nam cổ truyền là tính CỘNG
ĐỒNG, thì chính cái truyền thống và đặc tính đó đã được sản sinh và lưu giữ
bền vững trong làng xã. Đây là tính cộng đồng của công xã nông thôn thời kỳ
chuyển biến từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp, mà những tàn dư
của nó còn tồn tại dai dẳng, thậm chí đến cả thời kỳ tư bản chủ nghĩa’’[150,
tr.25]. Chương 3 Nguyễn Xuân Kính tập trung trình bày Lịch sử lễ hội của
người Việt ở Bắc Bộ. Chương 4: Cơ cấu và việc tổ chức lễ hội, Lê Văn Kỳ đi
sâu phân tích các thành tố của lễ hội và những hiện tượng liên quan đến lễ
hội. Chương 5: Về việc phân loại lễ hội ở Việt Nam, Lê Trung Vũ đã giới
thiệu những cách phân loại lễ hội của các nhà nghiên cứu lần lượt theo thời
gian phát biểu từ năm 1976 đến năm 1990.
Lê Thị Nhâm Tuyết khi phân loại đã dựa vào tiết mục chính yếu hoặc
đặc sắc nhất của hội làng và căn cứ vào sự phân tích dân tộc học về ý nghĩa và
cội nguồn khác nhau của hội làng mà chia ra năm loại hình hội lễ: loại hình
hội lễ nông nghiệp; loại hình phồn thực giao duyên; loại hình văn nghệ, giải
trí; loại hình “hội thi tài”; loại hình “hội lịch sử”. Trịnh Cao Tưởng chia thành
sáu loại lễ hội: "hội liên quan tới tín ngưỡng nông nghiệp cổ truyền; hội mùa
biểu hiện các hình thức thượng võ; hội liên quan tới anh hùng dựng nước, giữ
nước và nhân vật lịch sử; những ngày hội văn hóa; những ngày hội tập trung
tại chùa lễ phật; hội hè tế lễ ở các làng mang màu sắc Đạo giáo. Nguyễn Khắc
16
- Xem thêm -