Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm phục hồ...

Tài liệu Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng việt – hàn, thành phố hà nội

.PDF
86
759
56

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TUYÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu HÀ NỘI, 2016 HÀ NỘI - năm LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực hiện, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu. Các trích dẫn và số liệu được sử dụng có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Hà Nội, năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Văn Tuyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ ..................................................... 7 1.1. Một số khái niệm công cụ cơ bản được ứng dụng trong nghiên cứu về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ .............................................. 7 1.2. Cơ sở pháp lý của công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ............. 23 Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................ 29 2.1. Khái quát về trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội ................................................................................................................... 29 2.3. Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm hiện nay ........................................................................................................... 35 2.4. Đánh giá về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm hiện nay ........................................................................................................... 47 Chương 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................................................... 52 3.1. Một số định hướng trong công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm .................................................................................................... 52 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm ......................................................................... 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG TÊN BẢNG STT TRANG Bảng 1.1 Phân loại nhóm chuyên gia và vai trò tương ứng 17 Bảng 2.1 Cơ sở hạ tầng của Trung tâm 32 Bảng 2.2 Tổng hợp về sự tham gia các hoạt động hỗ trợ của trẻ khuyết tật trí tuệ tại Trung tâm 42 Sự hài lòng của gia đình trẻ khuyết tật trí tuệ đối với Bảng 2.3 các dịch vụ công tác xã hội cho trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác xã hội với trẻ em khuyết tật trí tuệ là một lĩnh vực công tác xã hội chuyên biệt, với mục đích hỗ trợ và tạo điều kiện tốt nhất để trẻ khuyết tật hòa nhập gia đình và cộng đồng. Ở nước ta hiện nay, công tác xã hội với trẻ khuyết tật trí tuệ về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu tối thiểu trong công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng và hướng nghiệp dạy nghề cho trẻ khuyết tật trí tuệ. Tuy nhiên, việc thực hiện các nội dung công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế hiện nay, công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phục hồi chức năng và hướng nghiệp dạy nghề cho trẻ khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật trí tuệ nói riêng đang được cả Nhà nước, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ quan tâm. Trong đó, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trực tiếp thực hiện chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phục hồi chức năng và hướng nghiệp dạy nghề cho trẻ khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật trí tuệ nói riêng. Tại Hà Nội, trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn đóng tại xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là trung tâm) là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Lao động -Thương binh và Xã hội Hà Nội, có chức năng nuôi dưỡng, chăm sóc, điều trị, phục hồi chức năng và hướng nghiệp dạy nghề cho trẻ em khuyết tật từ 06 đến 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trong số 115 trẻ khuyết tật đang được phục hồi chức năng tại trung tâm hiện nay có 63 trẻ khuyết tật trí tuệ (chiếm 54,6%). Chính vì vậy, việc thực hiện các hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ đang được nuôi dưỡng, chăm sóc, điều trị, phục hồi chức năng và hướng nghiệp dạy nghề tại trung tâm là cần thiết và giữ vai trò quan trọng trong quá 1 trình thực hiện các nhiệm vụ được giao. Xuất phát từ những lý do cơ bản đó, việc chọn đề tài: “Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ ngành công tác xã hội là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo về chủ đề người khuyết tật được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong luận văn này, chúng tôi xin liệt kê và đánh giá về một số công trình nghiên cứu tiêu biểu đã công bố và có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng tôi. Đầu tiên là công trình “Đại cương can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật trí tuệ” của tác giả Trần Lệ Thu, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2010. Trong công trình này, tác giả đã tập trung trình bày những vấn đề chung về khuyết tật trí tuệ và can thiệp sớm cho trẻ em khuyết tật trí tuệ. Nội dung cụ thể của can thiệp sớm cho trẻ em khuyết tật trí tuệ từ 0 đến 6 tuổi như phát hiện sớm, chẩn đoán, sử dụng các phương pháp can thiệp sớm, tiến trình giáo dục cá nhân... Tiếp theo là tập bài giảng “Công tác xã hội với cá nhân và gia đình” của Tôn Nữ Ái Phương, giảng viên Trường Đại học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong tài liệu này, tác giả đã đưa ra khái niệm công tác xã hội với trường hợp, trong đó có trường hợp của những trẻ khuyết tật gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Tuy nhiên, tài liệu này mới chỉ đề cập đến những vấn đề công tác xã hội với trẻ em khuyết tật nói chung mà chưa đề cập đến các nội dung công tác xã hội với trẻ em khuyết tật trí tuệ. Trong cuốn “Giáo trình Nhập môn công tác xã hội” của tác giả Bùi Thị Xuân Mai được xuất bản năm 2012, tác giả chủ yếu đề cấp đến nội dung công tác xã hội có liên quan tới việc hoàn thiện, tăng cường và giúp đỡ trẻ 2 khuyết tật trí tuệ hòa nhập cuộc sống. Đặc biệt, tác giả có nói đến các hoạt động của nhân viên cx trong việc thực hiện các nội dung công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật, giúp trẻ khuyết tật giải quyết vấn đề; làm việc với các cá nhân, nhóm để giúp đỡ gia đình có hiệu quả; thường xuyên đánh giá sự thích hợp và hiệu quả của các chính sách, chương trình và dịch vụ hiện hành có liên quan đến đối tượng là trẻ khuyết tật... Cuốn tài liệu “Làm việc với cá nhân và gia đình (Công tác xã hội với cá nhân và gia đình)” của khóa đào tạo công tác xã hội cho các nhà quản lý trong lĩnh vực công tác xã hội, thuộc Dự án đào tạo công tác xã hội tại Việt Nam do các tổ chức MOLISA - ULSA - CFSI- ASI - AP - UNICEF phối hợp tổ chức năm 2012. Cuốn tài liệu này cũng đề cập đến một số vấn đề chung về công tác xã hội với các đối tượng nói chung mà không đề cập đến công tác xã hội với từng đối tượng cụ thể, trong đó có trẻ khuyết tật trí tuệ. Công trình của tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa chủ biên với tiêu đề “Công tác xã hội với người khuyết tật” do nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành cũng đề cập đến tác động của tình trạng khuyết tật đối với các mối quan hệ gia đình, đồng thời đưa ra một số cách tiếp cận khi làm việc với trẻ khuyết tật trí tuệ. Như vậy, các công trình nghiên cứu về công tác xã hội đối với từng đối tượng nói chung và đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ nói riêng đã được thực hiện rất nhiều, trên đây chỉ là một số công trình tiêu biểu và có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng tôi. Các công trình nghiên cứu về người khuyết tật chủ yếu đi sâu nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn ngành công tác xã hội đối với người khuyết tật, về các chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật. Chưa có công trình nào nghiên cứu về các nội dung công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ, đặc biệt là nghiên cứu về các nội dung công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn một địa phương 3 hay một ngành, một đơn vị nào. Do vậy, việc nghiên cứu về “Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn thành phố Hà Nội” là cần thiết trong các nội dung nghiên cứu về các nội dung công tác xã hội ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật trí tuệ, chỉ ra thực trạng công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Từ đó đưa ra một số định hướng làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt các mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau: Một là, phân tích và làm rõ thêm những vấn đề lý luận liên quan đến công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ. Hai là, phân tích thực trạng trẻ em khuyết tật trí tuệ và các nội dung công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Ba là, đưa ra một số định hướng và các giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về các nội dung công tác xã hội với trẻ em khuyết tật trí tuệ và thực trạng các dịch vụ công tác 4 xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ đang được thực hiện tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tiến hành khảo sát thực trạng các dịch vụ công tác xã hội đang được thực hiện đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội hiện nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản của chuyên ngành công tác xã hội, trong đó chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp công tác xã hội với trẻ em khuyết tật: được sử dụng để tìm hiểu về đặc điểm khuyết tật, nhu cầu, cách tiếp cận, kỹ năng… trong suốt quá trình nghiên cứu và làm việc với trẻ em khuyết tật trí tuệ để thực hiện các nội dung nghiê cứu của luận văn. Phương pháp phân tích tài liệu: được sử dụng để thu thập và phân tích, đánh giá về các tài liệu liên quan đến từng nội dung nghiên cứu của đề tài. Phương pháp quan sát: được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu để thu thập những thông tin liên quan đến đề tài, tác giả quan sát những hành động, hành vi ứng xử và thái độ, cách giao tiếp của trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm. Đồng thời quan sát thái độ, phương pháp quản lý, chăm sóc, phục hồi chức năng của cán bộ nhân viên trung tâm đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ. Phương pháp phỏng vấn sâu: được sử dụng để thu thập những thông tin cần thiết về hoàn cảnh, đặc điểm của trẻ em khuyết tật trí tuệ, qua đó thấy được những thuận lợi, khó khăn và nhu cầu của trẻ em khuyết tật trí tuệ để rút ra những nhận định và đề xuất các giải pháp phù hợp. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tác giả xây dựng bộ câu hỏi đóng và câu hỏi mở để điều tra đối với cán bộ nhân viên trung tâm và các gia đình có con là trẻ em khuyết tật trí tuệ đang được phục hồi chức năng tại trung tâm nhằm khảo sát về thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm hiện nay. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ, đồng thời làm rõ thêm các cơ sở pháp lý trong lĩnh vực công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn thành phố Hà Nội. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những định hướng và các giải pháp mà luận văn đưa ra có thể áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác chuyên môn về công tác xã hội tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Đồng thời có thể là nguồn tài liệu tham khảo đối với việc hoàn thiện chính sách, xây dựng các mô hình nhân rộng về hỗ trợ can thiệp phục hồi cho trẻ em khuyết tật trí tuệ và các đơn vị tổ chức, các nhân khác trong việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia làm 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ. Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ 1.1. Một số khái niệm công cụ cơ bản được ứng dụng trong nghiên cứu về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ 1.1.1. Khái niệm công tác xã hội Hiện có rất nhiều khái niệm về công tác xã hội được đưa ra từ các cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế. Trong luận văn này chúng tôi liệt kê ra một số khái niệm tiêu biểu và có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng tôi như sau: Năm 1970, Hiệp hội các nhân viên xã hội Mỹ (NASW) đã đưa ra khái niệm: “Công tác xã hội là một hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những cá nhân, nhóm và cộng đồng trong hoàn cảnh khó khăn để họ tự phục hồi chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được mục đích cá nhân”. Đến năm 2000, Hiệp hội Nhân viên xã hội quốc tế (IFSW) định nghĩa: “Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải quyết vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi và hệ thống xã hội, công tác xã hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề công tác xã hội”. (Thường được sử dụng ở các nước công tác xã hội đã phát triển cao). Năm 2010, trong công trình nghiên cứu của một nhóm tác giả Việt Nam đã định nghĩa: “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực, 7 đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội”.[1, tr.19] Như vậy, từ các quan niệm trên, có thể khẳng định công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp, một lĩnh vực khoa học chuyên thực hiện nhiệm vụ chức năng xã hội giao phó và được xã hội thừa nhận. Các chính sách, chương trình và dịch vụ công tác xã hội được triển khai bởi bộ máy tổ chức theo một ngành dọc và liên ngành. Bên cạnh đó, công tác xã hội được thực hiện trên một nền tảng hệ giá trị, nguyên tắc, yêu cầu nghề nghiệp,… theo quy định của pháp luật. Đồng thời, công tác xã hội còn là một ngành khoa học, bao gồm hệ thống kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hành được đào tạo ở nhiều trình độ khác nhau. 1.1.2. Khái niệm trẻ khuyết tật và trẻ em khuyết tật trí tuệ * Khái niệm trẻ em khuyết tật TheoTổ chức Y tế Thế Giới (WHO), Trẻ khuyết tật là những trẻ có thiếu hụt cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng dẫn đến những hạn chế nhất định trong hoạt động của cá nhân và gặp khó khăn, trở ngại (do môi trường sống đem lại) trong việc tham gia đầy đủ và có hiệu quả mọi hoạt động trong xã hội - cộng đồng. Theo Điều 1 Pháp lệnh người tàn tật của Việt Nam năm 1998: “Trẻ tàn tật là những trẻ từ 0-18 tuổi, không phân biệt nguồn gốc gây ra khuyết tật, thiếu một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật Việt Nam, năm 2004 Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) cho rằng, Trẻ bị khuyết tật là những trẻ từ 0 – 8 18 tuổi, không kể những nguyên nhân của khuyết tật, thiếu một hoặc hơn các bộ phận hoặc các chức năng cơ thể khiến giảm khả năng hành động và gây khó khăn trong công việc, cuộc sống và học tập. Về các dạng khuyết tật Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã phân loại trẻ khuyết tật thành 08 dạng khuyết tật như sau: (1) khó khăn về vận động; (2) khó khăn về nhìn; (3) khó khăn về nghe – nói; (4) khó khăn về học; (5) hành vi xa lạ, khác thường; (6) động kinh; (7) mất cảm giác; (8) đa tật. Còn theo cách phân loại theo Hội đồng giáo dục Hoa kỳ (Luật IDEA năm 1997), trẻ khuyết tật được phân thành 13 dạng khuyết tật bao gồm: (1) tự kỷ, (2) điếc mù, (3) điếc, (4) rối loạn cảm xúc, (5) khiếm thính, (6) chậm phát triển trí tuệ, (7) đa tật, (8) khuyết tật thể chất, (9) khuyết tật sức khoẻ, (10) khó khăn về học, (11) khuyết tật ngôn ngữ, (12) tổn thương não, (13) khiếm thị. Ở Việt Nam, theo Luật người khuyết tật (năm 2010), trẻ khuyết tật được phân thành 06 dạng khuyết tật như sau: (1) Khuyết tật vận động, (2) Khuyết tật nghe, nói, (3) Khuyết tật nhìn, (4) Khuyết tật thần kinh, tâm thần, (5) khuyết tật trí tuệ, (6) Khuyết tật khác. Về mức độ khuyết tật Theo điều 3 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ, về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NKT, có 3 mức độ khuyết tật: một là, Khuyết tật đặc biệt nặng: những trẻ do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Hai là, Khuyết tật nặng: bao gồm những trẻ do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ 9 sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Ba là, Khuyết tật nhẹ: gồm những trẻ khuyết tật không thuộc các trường hợp được quy đinh tại hai mức độ trên. Về nguyên nhân khuyết tật Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên khuyết tật ở trẻ em, tuy nhiên có thể đề cập tới các nguyên nhân sau: Một là, Do bất thường gen: Do di truyền gen gây bệnh. Một số gen bệnh được truyền từ cha mẹ sang con gây biến đổi cấu trúc cơ thể và rối loạn chuyển hóa dẫn đến khiếm khuyết, loại nguyên nhân này thường đưa đến hậu quả nặng nề vì tổn thương ở hệ thần kinh và xuất hiện rất sớm, trong thời kỳ bào thai. Nhiễm sắc thể bất thường có thể dẫn tới khiếm khuyết ở cơ quan tim, thận, phổi, gan... Các bệnh về trao đổi chất ở các tuyến, hạch: từ những chấn thương bẩm sinh có thể dẫn đến tái phát trong quá trình phát triển, dẫn đến sự rối loạn trong trao đổi chất, rối loạn về dinh dưỡng, những rối loạn này có thể dẫn đến khuyết tật, tàn tật, khó khăn trong cuộc sống. Hai là, do sang chấn trước và trong quá trình sinh nở: Trẻ bị sinh non, thiếu tháng nếu mẹ sử dụng chất kích thích hoặc mang đa thai, trẻ bị tổn thương não do bị ngạt khi sinh hoặc do bất thường của nhau thai, cuốn rốn, trẻ bị dị tật hoặc khiếm khuyết do mẹ bị bệnh trong quá trình mang thai, nhiễm độc thai nghén do sử dụng rượu, ma túy, thuốc lá, có thể dẫn đến chấn thương ở hệ thần kinh, sinh con thiếu tháng, biến chứng khi sinh do tiêm chủng, do thuốc, do can thiệp không kịp thời. Ba là, Do tai nạn: tai nạn trong sinh hoạt, tai nạn chiến tranh, tai nạn giao thông, tai nạn lao động… Bốn là, Do biến chứng do bệnh mắc phải: viêm khớp, viêm dây thần kinh ngoại biên… * Khái niệm trẻ em khuyết tật trí tuệ Cho đến nay, những khái niệm khuyết tật trí tuệ được sử dụng rộng rãi nhất ở Việt Nam là theo DSM-IV và AAMR đưa ra vào năm 1992. 10 Theo DSM-IV: tiêu chí chẩn đoán khuyết tật trí tuệ bao gồm 3 tiêu chí sau: Một là, chức năng trí tuệ dưới mức trung bình, tức là chỉ số trí tuệ đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân. Hai là, bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những lĩnh vực hành vi thích ứng: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, các kỹ năng xã hội/liên cá nhân, sử dụng các phương tiện trong cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học đường chức năng, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn. Ba là, hiện tượng khuyết tật trí tuệ xuất hiện trước 18 tuổi. Theo AAMR: khuyết tật trí tuệ là những hạn chế lớn về khả năng thực hiện chức năng. Đặc điểm của khuyết tật trí tuệ là: (1) Hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình. (2) Hạn chế về hai hoặc nhiều hơn những lĩnh vực kỹ năng thích ứng: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, các kỹ năng xã hội, sử dụng các phương tiện trong cộng đồng, tự định hướng, sức khỏe và an toàn, kỹ năng học đường chức năng, giải trí, làm việc. (3) Hiện tượng khuyết tật trí tuệ xuất hiện trước 18 tuổi. Như vậy, từ hai quan điểm trên và từ sự phân loại khuyết tật ở Việt Nam hiện nay có thể thấy, trẻ khuyết tật trí tuệ là những người khuyết tật dưới 18 tuổi, thuộc mức độ khuyết tật nặng, có hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình, hạn chế về các kỹ năng sống. Trong luận văn này chúng tôi sử dụng khái niệm trẻ khuyết tật trí tuệ như sau: trẻ khuyết tật trí tuệ là khái niệm dùng để chỉ những người dưới 18 tuổi có trí tuệ dưới mức trung bình, đồng thời bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất hai trong số những lĩnh vực hành vi thích ứng (giao tiếp, tự chăm sóc, các kỹ năng xã hội liên cá nhân, sử dụng các phương tiện trong cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học đường, chức năng làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn). 11 * Các biểu hiện đặc trưng của trẻ em khuyết tật trí tuệ Một là, về nhận thức: Sự phát triển nhận thức ở trẻ em khuyết tật trí tuệ có sự khác biệt rõ rệt so với trẻ bình thường thể hiện ở đặc điểm: từng giai đoạn phát triển kéo dài hơn và cả quá trình triển sẽ dừng lại sớm hơn. Sự trì hoãn hoàn thiện của hệ thống vỏ não cấp một và cấp hai sẽ đưa đến việc thiếu hụt các hoạt động tập trung đối trẻ khuyết tật trí tuệ. Chậm biết nói và khó khăn khi nói. Kém hiểu biết về các quy luật cơ bản. Không ý thức được hậu quả về các hành vi của mình. Khó khăn khi tự phục vụ (tự ăn uống, vệ sinh cá nhân, học tập…). Khó nhận biết các khái niệm, tư duy lôgíc kém, thiếu tính nhận xét, phê phán… Hai là, về trí nhớ: Trẻ em khuyết tật trí tuệ thường có biểu hiện chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu. Quá trình ghi nhớ không bền vững, không đầy đủ. Chỉ ghi nhớ cái bên ngoài sự vật, không ghi nhớ cái bên trong, cái khái quát… Ba là, về chú ý: Trẻ em khuyết tật trí tuệ thường có biểu hiện không tập trung vào chi tiết, chỉ tập trung các nét bên ngoài, dễ bị phân tán bởi các sự vật nhỏ… Bốn là, về vận động, kỹ năng: trẻ em khuyết tật trí tuệ thường chậm biết lật, ngồi, bò và đi đứng, chậm biết nói và khó khăn khi nói, kéo theo đó là những khó khăn khi tự phục vụ: ăn uống, vệ sinh cá nhân, giao tiếp xã hội… dẫn đến kém hiểu biết về các quy luật cơ bản và thường không ý thức được hậu quả về các hành vi của mình. Năm là, về cảm giác, tri giác: Trẻ em khuyết tật trí tuệ thường chậm chạp, ít linh hoạt, khó khăn trong việc phân biệt màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật, thiếu tính tích cực trong quan sát… 12 * Các nguyên nhân gây khuyết tật trí tuệ Nguyên nhân trước khi sinh: Một là, do di truyền: (1) Lỗi nhiễm sắc thể gây hội chứng Down, Turner, Cri-du-chat... đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây KTTT ở trẻ. (2) Lỗi gen: Gây bệnh PKU, u xơ dạng củ, gẫy NST X, hội chứng Rett, hội chứng Williams Beuren, hội chứng Angelman và Prader Willy, nứt đốt sống, thiếu một phần não, tràn dịch màng não, đầu nhỏ, rối loạn chức năng tuyến giáp. Hai là, Do các yếu tố ngoại sinh: Do lây nhiễm: mẹ bị rubella (sởi Đức) nhất là trong ba tháng đầu thai kỳ, nhiễm vi rút, bệnh giang mai hay HIV. Do nhiễm độc: Mẹ tiếp xúc với hóa chất, thuốc trừ sâu, nhiễm độc chì nặng, nhiễm độc thủy ngân, chất rượu cồn; do chụp tia X, chất độc màu da cam (thế hệ thứ hai), kháng thể Rhesus. Do suy dinh dưỡng ở người mẹ hoặc thiếu i ốt trong thức ăn hay nước uống. Nguyên nhân trong khi sinh: Đẻ non dưới 37 tuần, cân nặng khi sinh thấp hơn 2500g, ngạt khi sinh, can thiệp sản khoa (kẹp, hút thai, đẻ chỉ huy), vàng da nhân não… Nguyên nhân sau khi sinh: Viêm nhiễm (viêm màng não, chảy máu não), tổn thương (tổn thương não do chấn thương đầu nghiêm trọng hoặc do động kinh, sốt cao co giật), u não (tổn thương do khối u, hoặc do các liệu pháp y học như phẫu thuật, sử dụng tia X, dùng hóa chất hay chích máu). Nguyên nhân từ môi trường xã hội: Không được chăm sóc đầy đủ về y tế và thể chất (thiếu dinh dưỡng, không được tiêm phòng đầy đủ). Thiếu thốn về tâm lý – xã hội (thiếu sự chăm sóc nhạy cảm, không được kích thích để trải nghiệm và khám phá, bị bỏ rơi hoặc lạm dụng). Có nhiều hạn chế trong sử dụng ngôn ngữ tại gia đình (chỉ sử dụng câu ngắn với vốn từ và câu có hạn). Trẻ được nuôi dưỡng theo cách để người khác định đoạt cuộc sống của nó (những trẻ như vậy không tự kiểm soát được mình, ít khi tin là hành động của mình quan trọng đối với chính sự thành công hay thất bại của bản thân; đây cũng là nguyên nhân dẫn đến trẻ học kém). 13 * Phân loại trẻ em khuyết tật trí tuệ Đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ hiện có rất nhiều tiêu chí để phân loại. Trong luận văn này, chúng tôi dựa vào chỉ số thông minh (chỉ số IQ) để phân loại trẻ khuyết tật trí tuệ. Căn cứ vào chỉ số IQ, có thể phân loại trẻ khuyết tật trí tuệ thành bốn loại cơ bản như sau: Một là, chậm phát triển trí tuệ nhẹ: là những trẻ có chỉ số IQ từ 50-70, có khả năng giao tiếp bằng lời nói, có khả năng tự chăm sóc và làm các cộng việc đơn giản, có thể đi học và ít cần sự trợ giúp từ người khác. Hai là, chậm phát triển trí tuệ trung bình: là những trẻ có chỉ số IQ từ 35-49, có khả năng giao tiếp bằng lời nói song nghèo nàn, không rõ nghĩa, có khả năng tự chăm sóc, làm các công việc đơn giản nếu được huấn luyện từ nhỏ, có thể đi học song gặp nhiều khó khăn hơn và cần sự trợ giúp nhưng không thường xuyên. Ba là, chậm phát triển trí tuệ nặng: là những trẻ có chỉ số IQ từ 20- 34, không có khả năng giao tiếp bằng lời, không có khả năng tự chăm sóc hoặc làm các công việc đơn giản, không thể đi học và cần sự trợ giúp thường xuyên. Bốn là, chậm phát triển trí tuệ rất nặng: là những trẻ có chỉ số IQ dưới 20, hoàn toàn không có khả năng giao tiếp bằng lời nói, không có khả năng tự chăm sóc bản thân và làm các công việc đơn giản, không thể đi học, cần sự trợ giúp đặc biêt thường xuyên. 1.1.3. Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ Khái niệm công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật là việc đánh giá nhu cầu về khía cạnh xã hội của đối tượng; đồng thời đóng vai trò là người quản lý trường hợp, hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận những dịch vụ phù hợp và duy trì tiếp cận một loạt các dịch vụ phối hợp tốt nhất. Trong trường hợp cần thiết, nhân viên công tác xã hội cũng cung cấp hỗ trợ tâm lý cho trẻ khuyết 14 tật. Như vậy, bằng những kiến thức, kỹ năng và phương pháp, nhân viên công tác xã hội sẽ trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng trẻ khuyết tật phục hồi các chức năng xã hội mà họ bị suy giảm. Khái niệm công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ Có thể thấy rằng, công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ là một lĩnh vực đặc thù trong công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật nói chung. Trên cơ sở các khái niệm về công tác xã hội, công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật và khái niệm trẻ em khuyết tật trí tuệ, có thể hiểu “Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ là quá trình nhân viên công tác xã hội sử dụng phương pháp công tác xã hội với trẻ em khuyết tật để tác động lên nhóm đối tượng là trẻ em khuyết tật trí tuệ có khó khăn trong cuộc sống do khuyết tật mang lại. Thông qua tiến trình trợ giúp đó, nhân viên công tác xã hội sẽ đưa ra nhiều loại chương trình khác nhau để hỗ trợ trẻ em khuyết tật trí tuệ vượt qua những khó khăn mà trẻ đang gặp phải trong cuộc sống, học tập và hòa nhập cộng đồng”. Nội dung công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ Từ cách hiểu về công tác xã hội với trẻ em khuyết tật, cũng như mục đích của ngành công tác xã hội nói chung. Có thể khẳng định mục đích của công tác xã hội với trẻ em khuyết tật là nhằm hỗ trợ cá nhân và gia đình trẻ em khuyết tật trí tuệ; quản lý ca với trẻ em khuyết tật trí tuệ; hỗ trợ xây dựng tổ chức của trẻ em khuyết tật trí tuệ; tham gia vào việc xây dựng phản biện chính sách, luật pháp đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ; biện hộ cho quyền và lợi ích của trẻ em khuyết tật trí tuệ. Như vậy, có thể nhìn nhận nội dung của công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ bao gồm các hoạt động sau: Một là, trợ giúp khuyến khích thúc đẩy và tăng cường việc thực hiện chức năng xã hội của cá nhân, nhóm, các tổ chức và cộng đồng người khuyết tật trí tuệ bằng cách giúp họ, phòng ngừa, chữa trị và giảm nhẹ những khó 15 khăn do khuyết tật trí tuệ mang lại và biết cách sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả. Hai là, tham gia vào việc hoạch định, xây dựng và thực thi các chính sách xã hội, các nguồn tài nguyên và các chương trình để đáp ứng những nhu cầu của trẻ em khuyết tật trí tuệ và hỗ trợ cho sự phát triển của họ. Ba là, theo đuổi những chính sách, dịch vụ và chương trình thông qua công tác biện hộ trong phạm vi cơ sở hay trong phạm vi quản trị cơ sở hoặc hành động chính trị để tăng cường quyền lực cho trẻ em khuyết tật trí tuệ nhằm đảm bảo sự công bằng và sự tham gia đầy đủ của họ vào các hoạt động xã hội. Vai trò và nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ Xuất phát từ nhu cầu của xã hội và mục đích hoạt động của ngành công tác xã hội, dựa trên đặc thù nghề nghiệp là hoạt động trợ giúp các đối tượng yếu thế, thiệt thòi, giải quyết các vấn đề xã hội, nhân viên công tác xã hội có khả năng tác nghiệp khác nhau liên quan đến vấn đề của đối tượng như: kinh tế, pháp luật, tâm lý, tình cảm, sức khỏe, văn hóa, giáo dục, mối quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Vì vậy, tùy thuộc vào hoàn cảnh, vị trí nhiệm vụ được phân công, nhân viên công tác xã hội có thể đóng những vai trò khác nhau. Trong lĩnh vực công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ, vai trò của công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ được phân chia thành hai loại chính: Một là, vai trò trực tiếp (thu thập thông tin, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, giám sát và lượng giá...). Hai là, vai trò gián tiếp (là người trung gian, người hòa giải, thương lượng, tư vấn, tham vấn, hoạch định chính sách; quản lý, điều phối các hoạt động nghiên cứu...) Điều này được thể hiện một cách đầy đủ và linh hoạt khi làm việc với trẻ em khuyết tật trí tuệ. Do thân chủ bị ảnh hưởng bởi các khuyết tật trí tuệ nên khi làm việc, trợ giúp trẻ em khuyết tật trí tuệ, nhân viên công tác xã hội 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan