Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn hồ anh thái...

Tài liệu đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn hồ anh thái

.PDF
168
1141
77

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đoàn Thị Minh Huyền ĐẶC ĐIỂM DIỄN NGÔN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ ANH THÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đoàn Thị Minh Huyền ĐẶC ĐIỂM DIỄN NGÔN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ ANH THÁI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận văn Đoàn Thị Minh Huyền LỜI CẢM ƠN Trong quá trình làm luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ nhiệt tình từ gia đình, thầy cô, nhà trường và bạn bè. Thông qua luận văn, tác giả muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến: Gia đình đã luôn mang lại sức mạnh tinh thần cho tác giả; PGS. TS. Nguyễn Thành Thi - Trưởng khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM, GV hướng dẫn trực tiếp - người thầy đã tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn và định hướng cho tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn chỉnh luận văn; Quý thầy (cô) trong Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm TPHCM, Phòng Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm TPHCM, Tổ Thông tin Thư viện Đại học Sư phạm TPHCM, Tổ Thông tin Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM, Tổ Thông tin Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, TS. Nguyễn Thị Ngọc Minh - GV Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng các anh (chị) lớp Văn học Việt Nam K23 đã giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình làm luận văn; Cuối cùng, xin kính gửi lời chúc sức khỏe và hạnh phúc đến tất cả mọi người. Tp. HCM, ngày 24 tháng 09 năm 2014 Đoàn Thị Minh Huyền MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU.. ......................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ..........................................................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................11 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................11 5. Những đóng góp của luận văn ................................................................................12 6. Cấu trúc luận văn ....................................................................................................13 Chương 1. DIỄN NGÔN NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ ANH THÁI ..........................................14 1.1. Giới thuyết chung về người kể chuyện và diễn ngôn người kể chuyện trong tác phẩm tự sự .......................................................................................................14 1.1.1. Khái niệm người kể chuyện và diễn ngôn người kể chuyện ...........................14 1.1.2. Các kiểu diễn ngôn người kể chuyện ..............................................................20 1.2. Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn Hồ Anh Thái ..............................23 1.2.1. Diễn ngôn kể ...................................................................................................23 1.2.2. Diễn ngôn tả ....................................................................................................35 1.2.3. Diễn ngôn trữ tình ngoại đề ............................................................................40 Chương 2. DIỄN NGÔN CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ ANH THÁI.............................................. 47 2.1. Nhân vật và diễn ngôn của nhân vật trong tác phẩm tự sự ..................................47 2.1.1. Nhân vật, từ góc nhìn chủ thể của diễn ngôn ..................................................47 2.1.2. Diễn ngôn của nhân vật ...................................................................................48 2.2. Diễn ngôn của nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái ....................................52 2.2.1. Diễn ngôn đối thoại .........................................................................................52 2.2.2. Diễn ngôn độc thoại ........................................................................................71 2.3. Vai trò, hiệu ứng trần thuật của diễn ngôn đối thoại và diễn ngôn độc thoại của nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái .............................................................79 2.3.1. Diễn ngôn đối thoại trực tiếp bộc lộ phẩm chất, tính cách xã hội của nhân vật, phát ngôn cho những quan niệm đạo đức, triết học của nhà văn ....79 2.3.2. Diễn ngôn độc thoại là phương tiện nghệ thuật chủ yếu, có hiệu quả để phát hiện và thể hiện chiều sâu đời sống nội tâm của nhân vật ......................80 2.3.3. Dẫn dắt các bước phát triển tình tiết, sự kiện trong hệ thống cốt truyện ........82 Chương 3. NHỊP ĐIỆU TRẦN THUẬT VÀ SỰ HÒA PHỐI DIỄN NGÔN TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ ANH THÁI............................................. 85 3.1. Nhịp điệu trần thuật và sự hòa phối diễn ngôn trong tác phẩm tự sự ..................85 3.1.1. Khái niệm nhịp điệu trần thuật ........................................................................85 3.1.2. Hòa phối diễn ngôn và mối liên hệ với nhịp điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự ................................................................................................................86 3.2.Hòa phối diễn ngôn trong truyện ngắn Hồ Anh Thái............................................88 3.2.1. Hòa phối diễn ngôn kể, tả, bình luận ..............................................................89 3.2.2. Hòa phối diễn ngôn đối thoại và độc thoại ...................................................100 3.2.3. Hòa phối diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật ................109 KẾT LUẬN ................................................................................................................125 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................131 PHỤ LỤC ......................................................................................................................1 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hồ Anh Thái được coi là một hiện tượng đặc sắc và nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời kì văn học đổi mới giai đoạn cuối thế kỉ XX. Hơn ba mươi năm cầm bút, ông đã cho ra đời hàng trăm tác phẩm trên mọi thể loại, từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến tiểu luận, phê bình. Trong đó, bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn là thể loại mà Hồ Anh Thái thành công hơn cả. Những truyện ngắn của Hồ Anh Thái từ khi ra đời cho đến nay đều thu hút một số lượng độc giả lớn. Tạo nên sức hấp dẫn ở những truyện ngắn của Hồ Anh Thái chính là chỗ nhà văn luôn tạo được những nét độc đáo trong các tác phẩm của mình. Với những câu chuyện đa dạng về đề tài, Hồ Anh Thái đã mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm mới lạ nhưng cũng vô cùng sâu sắc về thế thái nhân tình. Với một nội lực lớn lao về tư duy nghệ thuật, Hồ Anh Thái được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao. Gần đây vấn đề trần thuật học đang ngày càng được quan tâm nghiên cứu sâu rộng ở nhiều bình diện. Bên cạnh tập trung tìm hiểu giọng điệu, kết cấu, điểm nhìn, các nhà trần thuật học còn đi sâu nghiên cứu lời kể, cách kể, hoặc nói cách khác là nghiên cứu diễn ngôn trần thuật. Diễn ngôn trần thuật có vai trò lớn trong việc đảm bảo sự bền vững cho tác phẩm văn học. Bên cạnh đó nó còn là phương tiện quan trọng biểu thị cho quá trình giao tiếp giữa độc giả với tác phẩm, giúp độc giả lí giải nội dung văn bản trên cơ sở phạm vi hiểu biết văn học của mình. Tập trung nghiên cứu lớp diễn ngôn, tức lớp ngôn ngữ trần thuật và các yếu tố tạo nên nó không chỉ giúp ta “hiểu mới, hiểu lại các khái niệm đã quen, chưa hiểu sâu…” [96] mà còn thấy những vấn đề trong tác phẩm văn học được nhìn nhận một cách toàn diện; tạo cơ sở lí luận vững chắc hơn khi đánh giá nội dung, tư tưởng, giá trị thẩm mĩ của một chỉnh thể văn học và phong cách nhà văn. Đối với tác phẩm tự sự, diễn ngôn là một nhân tố vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức cấu trúc trần thuật của tác phẩm, thể hiện tư tưởng trong chỉnh thể tác phẩm và quyết định phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Xét thấy, từ trước đến nay có rất nhiều bài báo, bài nghiên cứu tìm hiểu truyện ngắn Hồ Anh Thái ở nhiều khía cạnh, bình diện khác nhau: giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật trần thuật,… 2 song chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu cấu trúc diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của ông. Tập trung vào đề tài “Đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái” luận văn nhằm góp phần lấp dần những khoảng trống ấy. 2. Lịch sử vấn đề Theo Trần Đình Sử những bài viết bàn về vấn đề diễn ngôn gần đây “xuất hiện rất nhiều” [95]. Tuy nhiên phần nhiều diễn ngôn được các nhà nghiên cứu khai thác theo hướng ngôn ngữ học và văn hóa học. Nghiên cứu diễn ngôn theo hướng văn học tức diễn ngôn trần thuật, thực tế còn rất ít. Để có cơ sở cho cái nhìn bao quát, sâu sắc và đảm bảo tính khách quan, khoa học, chúng tôi xin lược khảo những công trình nghiên cứu theo hướng diễn ngôn ở Việt Nam và những nghiên cứu về truyện ngắn Hồ Anh Thái. 2.1. Những công trình nghiên cứu văn học theo hướng diễn ngôn ở Việt Nam “Về một diễn ngôn tính dục trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam (từ đầu thế kỉ XX đến 1945)” (2009), Trần Văn Toàn vận dụng lí thuyết diễn ngôn của Foucault để triển khai đề tài. Theo Foucault: “Mỗi thời đại, dưới những áp lực của các mối quan hệ quyền lực và các diễn ngôn mà hình thành nên một quan niệm hợp thức về cái gọi là bản chất người của mình. Chính vì thế, không phải là câu hỏi về cái tôi, con người, bản chất người đã được khám phá như thế nào mà là những phạm trù trên đã được tạo lập như thế nào? Việc tìm hiểu về diễn ngôn tính dục nếu có một ý nghĩa nào đó thì chính là ở chỗ: nó giúp ta nhận thấy những nguyên nhân chiều sâu trong việc kiến tạo và hình thành nên những quan niệm về con người trong một thời đại cụ thể” [69, tr.250]. Dựa trên đó, Trần Văn Toàn đưa ra những dẫn liệu chứng minh diễn ngôn trong văn học có sự chuyển đổi từ diễn ngôn đạo đức sang diễn ngôn khoa học về tính dục. Kết thúc nội dung, Trần Văn Toàn khẳng định : “Văn học là một diễn ngôn trong hệ thống diễn ngôn xã hội. Một cách tự nhiên chịu sự tương tác của những diễn ngôn khác. Bằng cách ấy, tính dục trở thành đối tượng đặc biệt của diễn ngôn văn học” [69, tr.295]. Trong bài báo “Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” (2010), Thái Phan Vàng Anh tập trung tìm hiểu diễn ngôn của người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Mở đầu bài viết, Thái Phan Vàng Anh nhấn mạnh 3 tầm quan trọng của ngôn ngữ trần thuật đối với sự hình thành của văn tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là một thành phần lời của tác giả, của người kể chuyện (toàn bộ văn bản tác phẩm, ngoại trừ lời trực tiếp của nhân vật)… Lời của tác giả, người kể chuyện: kể, miêu tả hành động, các biến cố thời gian, mô tả chân dung, mô tả hoàn cảnh hoạt động, tả ngoại cảnh, tả nội thất,… lời bàn luận, lời nói bán trực tiếp của nhân vật… Những phát ngôn của người kể chuyện chủ yếu tồn tại dưới dạng lời kể, lời tả, lời bình luận hay lời gián tiếp tự do (lời nửa trực tiếp hay lời nói bán trực tiếp)” [2, tr.96]. Phần sau của bài viết đi sâu tìm hiểu các kiểu lời phát ngôn của người kể chuyện và tính chất đa thanh của ngôn ngữ người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Kết thúc, Thái Phan Vàng Anh cho rằng chính cách xây dựng diễn ngôn trần thuật theo những cách khác nhau là “một trong những đặc điểm để khu biệt tiểu thuyết đương đại với tiểu thuyết truyền thống” [2, tr.108]. Trong “Diễn ngôn về xứ thuộc địa trong tác phẩm Người tình của M. Duras”, Nguyễn Thị Ngọc Minh tìm hiểu “những dấu ấn sâu đậm về xứ thuộc địa” trong tác phẩm của Duras. Người viết tập trung vào ba loại diễn ngôn: “diễn ngôn chính trị ồn ào khẳng định vị trí thượng đẳng của kẻ đi khai hóa văn minh, diễn ngôn khoa học cắt đứt một cách lạnh lùng Đông Dương với lịch sử và địa lí riêng biệt của nó, diễn ngôn về giới thừa nhận uy quyền tuyệt đối của người đàn ông da trắng...” [86]. Bởi sự tương tác của ba kiểu diễn ngôn này đều “nhằm khẳng định quyền lực của thực dân đối với xứ thuộc địa” [86]. “Diễn ngôn hội thoại và độc thoại nội tâm trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao” (2013) của Nguyễn Thị Thu Hằng tiếp cận truyện ngắn Nam Cao từ lí thuyết phân tích diễn ngôn. Bài viết tập trung thống kê, phân tích các cuộc hội thoại và độc thoại nội tâm trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Tác giả qua đó khẳng định biệt tài sử dụng ngôn từ của nhà văn khi viết truyện ngắn nói chung và truyện ngắn Chí Phèo nói riêng: “Nam Cao đã sử dụng diễn ngôn độc thoại nội tâm của nhân vật như là một phương tiện để trần thuật. Cách trần thuật này một mặt tạo nên cách kể phức điệu, đa giọng, tạo sức cuốn hút đối với người đọc, mặt khác giúp nhà văn nhập sâu vào dòng suy nghĩ của nhân vật, bộc lộ mọi ngõ ngách của tâm hồn con người, qua đó góp phần làm nổi rõ tính cách nhân vật” [23, tr.125]. 4 Với bài viết “Về diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn Trang Thế Hy” (2013), Lâm Thị Thiên Lan đi sâu tìm hiểu lớp diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn của Trang Thế Hy. Từ đó khẳng định vai trò của nó trong việc thể hiện “một cách nhìn về thế giới, biểu hiện năng lực cảm thụ cái đẹp, cách lí giải, cắt nghĩa của chủ thể phát ngôn” [34, tr.77]. Tìm hiểu “Đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Khái Hưng, Nhất Linh” (2013), Nguyễn Đăng Vy triển khai theo hai phần. Phần một tập trung trình bày sơ lược về diễn ngôn trần thuật trong văn học. Phần hai đi sâu tìm hiểu những biểu hiện của diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Khái Hưng, Nhất Linh. Dựa vào kết quả khảo sát, thống kê, người viết đưa ra những kết luận khoa học về tần suất xuất hiện diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của hai nhà văn và hiệu quả nghệ thuật mà nó đem lại. Hoàng Tố Mai trong bài báo “Diễn ngôn gián tiếp tự do trong truyện ngắn “Cá sống” của Nguyễn Ngọc Thuần” (2013) tập trung tìm hiểu những biểu hiện cụ thể của diễn ngôn gián tiếp tự do trong truyện ngắn “Cá sống”. Cuối cùng người viết khẳng định vai trò của lớp diễn ngôn này trong việc tạo dựng nên “những câu văn tinh tế, bề sâu cho truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Thuần” [85]. Trong “Kí như một loại hình diễn ngôn” (2013), Nguyễn Thị Ngọc Minh sử dụng lí thuyết diễn ngôn như một phương tiện quan trọng để tìm hiểu kí. Khẳng định sự tồn tại của hai mã thể loại và mã tư tưởng hệ trong “bộ khung cấu trúc của thế loại kí” [42, tr.31]. Tiếp cận đặc trưng của kí như một hình thức diễn ngôn, Nguyễn Thị Ngọc Minh đã bước đầu giải quyết những bất đồng, khoảng trống trong thực tiễn sáng tác và nghiên cứu loại hình văn học vốn quen thuộc này. Những công trình trên đây tuy tập trung nghiên cứu diễn ngôn trong tác phẩm văn học song lại đi theo các hướng khác nhau. Bài viết của Trần Văn Toàn, Nguyễn Thị Ngọc Minh tiếp cận theo hướng xã hội học, Nguyễn Thị Thu Hằng thì theo hướng ngữ học. Các bài báo còn lại tìm hiểu diễn ngôn theo hướng văn học. Mỗi bài báo đi vào những vấn đề cụ thể của diễn ngôn trần thuật. Thái Phan Vàng Anh, Lâm Thị Thiên Lan đi sâu vào diễn ngôn người kể chuyện, Nguyễn Đăng Vy tìm hiểu cụ thể về diễn ngôn đối thoại, độc thoại và đôi nét về sự hòa phối diễn ngôn. Hoàng Tố Mai thì 5 đi chi tiết vào một loại diễn ngôn của người kể chuyện - diễn ngôn gián tiếp tự do. Tuy nhiên, tính đến thời điểm này, chưa có công trình độc lập nào tiếp cận truyện ngắn Hồ Anh Thái ở phương diện diễn ngôn. Qua thống kê, phân tích, mô tả những công trình nghiên cứu trên, kết quả cho thấy các bài viết chú ý tập trung tìm hiểu diễn ngôn của chủ thể trần thuật, đề cập sơ qua diễn ngôn của nhân vật và sự hòa phối diễn ngôn trong tác phẩm văn học. Tuy mới triển khai những khía cạnh nhỏ của diễn ngôn trần thuật, song những công trình đã định hướng cho chúng tôi rất nhiều trong việc triển khai đề tài. 2.2. Những bài viết, công trình nghiên cứu về truyện ngắn Hồ Anh Thái Hồ Anh Thái được biết đến như một “hiện tượng văn chương” thời kì hậu chiến. Những tác phẩm của ông được dư luận trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Những bài viết về truyện ngắn của nhà văn tập trung vào một số vấn đề sau: Ý kiến về nghệ thuật biểu hiện và nội dung phản ánh trong các bài báo Về nghệ thuật Trong bài “Một vẻ đẹp cổ điển” (1993), Lê Minh Khuê đã có những nhận xét sâu sắc về nghệ thuật hành văn của Hồ Anh Thái: “Cách hành văn trong sáng, mỗi câu đều chứa đựng những tình tiết mới mẻ và tràn đầy chi tiết vừa xác thực, vừa ẩn dụ, ngôn ngữ truyện ngắn giản dị… tạo sức cuốn hút mạnh mẽ” [63, tr.301]. Ở bài báo “Nhà văn và tầm văn hóa” (1996), Phạm Quốc Ca khẳng định: “Giọng điệu thẩm mĩ của tập truyện đa dạng. Hài hước, nghiêm nghị… những triết lí về cuộc sống dày đặc như đánh vào tâm hồn mỗi chúng ta” [63, tr.287]. Tuần báo Publishers Weekly (1998) nhận định tác phẩm của Hồ Anh Thái tràn đầy “yếu tố siêu thực”, “giọng điệu chuyển từ châm biếm sang xúc động thấm thía, từ hài hước sang đau xót. Việc sử dụng tinh tế các huyền thoại và sự phản ảnh hấp dẫn đời sống đã mang đến những tác phẩm tao nhã và tràn đầy sức lay động” [63, tr.317]. Lê Thị Oanh trong bài báo “Những bến bờ rong ruổi” (2000) cho rằng Hồ Anh Thái là “nhà văn bẩm sinh với sự hài hước ngọt ngào, chất siêu thực và ngụ ngôn tràn ra từ cây bút đã mang đến những tác phẩm tao nhã, đầy sức lay động” [63, tr.268]. Ma Văn Kháng trong bài “Cái mà văn chương ta còn thiếu” (2003) khẳng định yếu tố làm nên thành công cho truyện ngắn, tiểu thuyết Hồ Anh Thái chính là ý thức 6 sáng tạo, cách tân nghệ thuật tự sự: “từng con chữ có đời sống là lạ; ở mỗi tình tiết giàu sức khám phá, ở các mối liên tưởng lạ lùng và gần gũi, những thực tại nhìn thấy và không nhìn thấy, những ấn tượng đặc sắc thông qua chủ đề của nó ở chính cuộc đời này, hôm nay,..” [65, tr.314]. Tiếp tục lí giải sức hút văn phong Hồ Anh Thái, Nguyễn Đăng Điệp trong “Chiêm nghiệm chất lắng từ những chuyến đi” (2007) viết: “Sức hút văn phong Hồ Anh Thái nằm ở chỗ anh biết phủ lên thế giới nghệ thuật của mình những màu sắc tượng trưng siêu thực và gắn với nó là khả năng tổ chức nhiều kiểu giọng điệu khác nhau: khi hài hước châm biếm, khi lạnh lùng soi xét, khi u uất trĩu buồn,… Vượt qua lối miêu tả hiện thực giản đơn, Hồ Anh Thái đã tạo được nhiều biểu tượng, nhiều ẩn dụ nghệ thuật giàu sức gợi” [65, tr.290]. Anh Chi trong bài báo “Hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái” (2009) đề cập đến rất nhiều khía cạnh: từ chủ đề, tư tưởng đến nghệ thuật biểu hiện. Nhà nghiên cứu cho rằng những tác phẩm của Hồ Anh Thái xoay quanh vấn đề đạo đức, văn hóa ứng xử, những chấn thương thể chất và tinh thần của con người trong cuộc sống. Về nghệ thuật ngôn từ, Anh Chi cho rằng trong văn chương Hồ Anh Thái tồn tại thứ “ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng, ngọt ngào, mô tả sắc nét, câu văn thăng trầm thương cảm sâu xa, nhiều hình ảnh tượng trưng siêu thực, nhiều khi trào lộng chua cay, đôi khi hài hước mà buồn thấm thía” [14, tr.55]. Ngoài ra, Anh Chi có đưa ra những nhận định ban đầu về loại hình văn chương Hồ Anh Thái: “Hồ Anh Thái không chỉ viết văn chương luận đề, một loại văn hiếm hoi của nền văn chương nước ta. Anh còn tỏ ra rất tài trong văn chương hoạt kê” [14, tr.54]. “Hồ Anh Thái - Người mê chơi cấu trúc” (2012) của Nguyễn Đăng Điệp khám phá tác phẩm của Hồ Anh Thái ở phương diện cấu trúc, nghệ thuật. Truyện ngắn Hồ Anh Thái mang tính đa cấu trúc, với cốt truyện phân mảnh, cách thay đổi cấu trúc kể, ngôn ngữ, giọng điệu văn xuôi “khác hẳn so với văn xuôi 1945-1975”. Nhà phê bình khẳng định yếu tố giúp tác phẩm của Hồ Anh Thái nói chung, truyện ngắn nói riêng được mọi người tìm đọc nhiều là “Hồ Anh Thái đã lao động cật lực trên từng con chữ đúng kiểu một nhà văn chuyên nghiệp, và với một vốn văn hóa dày dặn, anh không rơi 7 vào tình trạng tự thỏa mãn mà luôn tìm cách bứt phá trên cơ sở kiến tạo những kiến trúc mới mẻ, táo bạo” [80]. Bùi Thanh Truyền - Lê Biên Thùy trong bài viết “Hồ Anh Thái và dấu ấn hậu hiện đại” (2013) đi sâu tìm hiểu những dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn Hồ Anh Thái ở phương diện: đề tài, nhân vật và nghệ thuật ngôn từ. Theo tác giả bài viết, truyện ngắn Hồ Anh Thái thường hướng đến đề tài “sự lo âu và dự cảm”, xây dựng những nhân vật “rất nhiều điều không” tạo dựng lớp “ngôn từ giễu nhại” và ngôn từ được “hoàn cảnh hóa”. Trần Thị Ty trong “Sự dung hợp thể loại trong truyện ngắn Hồ Anh Thái nhìn từ những vỉa tầng văn hóa” (2013) cho rằng “truyện ngắn Hồ Anh Thái đã thể hiện một sự nỗ lực, tham vọng giao kết, xóa nhòa ranh giới với những loại hình văn hóa khác trong đời sống tinh thần của dân tộc và nhân loại” [100]. Sau khi triển khai nội dung người viết khẳng định, chính sự dung hợp thể loại trong truyện ngắn, “Hồ Anh Thái đã cho thấy sức sống bền vững của thể loại này trong xu thế bình đẳng với các loại hình văn học khác” [100]. Điêu Thị Tú Uyên với bài viết “Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Hồ Anh Thái” (2013) thì khẳng định: “Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn sử dụng khá đậm đặc và nhuần nhuyễn yếu tố kì ảo trong sáng tác. Tiểu thuyết và truyện ngắn của anh đều có yếu tố này, đặc biệt là truyện ngắn” [101]. Người viết đi tìm những phương thức tạo dựng yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Hồ Anh Thái: “Nhà văn vận dụng hình thức phục sinh nhân vật trong truyền thuyết để xây dựng nhân vật mang năng lực thần thánh, hình thức tiên tri để xây dựng nhân vật tiên tri, dự báo tương lai, hoặc hình thức biến dạng để xây dựng những nhân vật dị thường. Mỗi nhân vật đều được thể hiện sinh động và giàu sức biểu đạt” [101]. “Phong cách không phải là cái vỏ ngoài bất biến và ngoan cố”, Lê Hồng Lâm nhận xét về giọng văn trong truyện ngắn của Hồ Anh Thái: “Giọng văn trẻ trung, hóm hỉnh của những năm đầu đã dần chuyển sang sâu đậm triết luận khi anh viết về cuộc sống và con người Ấn Độ, nơi anh thực sự đã sống và tiếp nhận những kiến thức kinh viện” [61, tr.223]. 8 Về nội dung phản ánh Ngô Thị Kim Cúc trong bài “Như gặp lại chính mình” (1996) cho rằng khi tiếp cận những truyện ngắn của Hồ Anh Thái, người đọc sẽ thấy “hành trình đi của thân phận người bất hạnh, những hình ảnh được phản chiếu cho thấy thấp thoáng gương mặt của chính mình, gương mặt Việt Nam” [63, tr.272]. “Có thể nói rằng mỗi truyện ngắn trong tập sách này đều ẩn chứa cái lõi của một vấn nạn triết học hoặc xã hội học chờ đợi được chạm tới, đòi hỏi khám phá thêm” [63, tr.282] là lời nhận xét của Mai Sơn về nội dung của tập truyện “Người đứng một chân” trong bài báo “Tâm đắc và nghĩ ngợi” (1996). Hoàng Lan Anh trong “Hồ Anh Thái với “Tự sự 265 ngày”” (2001) cụ thể hơn: “bức chân dung trí thức được viết dưới con mắt của một nhà ngoại giao không hề bóng bẩy… Nhưng đó là một bức chân dung đáng được đọc và suy nghĩ” [61, tr.235236]. Đỗ Hải Ninh trong “Đọc “Tiếng thở dài qua rừng kim tước”” (2007) cho rằng: “Truyện ngắn của Hồ Anh Thái có những nét riêng độc đáo của một nhà văn Việt Nam am hiểu văn hóa Ấn Độ và viết về xứ sở này như viết về chính quê hương mình” [63, tr.294]. Thật vậy, rất nhiều truyện ngắn của Hồ Anh Thái viết về con người, cảnh vật và văn hóa Ấn Độ. Tiến sĩ văn học K. Pandey đã đại diện cho đồng bào nói: “Những dòng chữ của Hồ Anh Thái là những mũi kim châm cứu Á Đông đã điểm trúng huyệt tính cách Ấn Độ” [63, tr.276]. Bùi Như Hải trong “Tư duy truyện ngắn Việt Nam sau đổi mới về đề tài đạo đức xã hội” (2010) đi vào khai thác khía cạnh nội dung phản ánh trong những truyện của Hồ Anh Thái. Đó là những “con người tha hóa trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, của tầng lớp trí thức mà có cả sự tha hóa của người già, trẻ, người lãnh đạo, nhà giáo, họa sĩ, bọn ma cô, buôn lậu. Đồng tiền biến họ thành con thiêu thân, đắm chìm trong trường lạc”; “phê phán tư tưởng sùng ngoại nảy sinh từ tâm lí của một số người, hi vọng về một sự đổi đời ở một miền đất nào đó ở ngoài Tổ quốc”; “phản ánh sự xuống cấp trong một số lĩnh vực xã hội, trong đó có văn hóa nghệ thuật,… phác họa chân dung những kẻ bất tài, vô trách nhiệm với nghệ thuật, chỉ chạy theo đồng tiền và những thú vui xác thịt” [82]. Ngoài ra còn trình bày khái lược về giọng điệu trong 9 truyện ngắn Hồ Anh Thái, một “giọng điệu lạnh lùng” dùng để “phê phán mạnh mẽ sự vô tâm, thờ ơ của xã hội đối với những kẻ vô tội” [82]. Luận văn Nghiên cứu về giá trị nội dung, tư tưởng Đỗ Thị Ngọc Lan trong luận văn Thạc sĩ “Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kì đổi mới (qua tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái)” (2009) tập trung tìm hiểu những nội dung phản ánh cái xấu trong tác phẩm và cơ chế xã hội dồn ép con người lương thiện vào những bi kịch trong cuộc sống. Tác giả bài viết khẳng định nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống bằng những miêu tả về sự bộn bề của đời tư, cái xấu, cái ác mà tác giả còn luôn nhìn nhận cuộc sống với niềm tin vào lẽ phải, hướng con người đến những giá trị đạo đức tốt đẹp qua những trang truyện của mình. Nguyễn Kim Thanh trong luận văn Thạc sĩ “Văn hóa Ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái” (2012) tìm hiểu “bức tranh văn hóa - xã hội Ấn Độ và cảm hứng Phật giáo trong sáng tác của Hồ Anh Thái”, phương thức nghệ thuật tạo dựng chất văn hóa trong tác phẩm của ông. Nghiên cứu ở mảng nghệ thuật Khóa luận tốt nghiệp: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái” (2004) của Phạm Thị My, tập trung tìm hiểu nhiều phương diện của nghệ thuật trần thuật mà Hồ Anh Thái sử dụng trong quá trình tạo lập văn bản. Trong đó có nội dung đề cập đến Ngôn ngữ và giọng điệu. Tác giả khóa luận cho rằng điểm nhìn có vai trò quyết định đến việc hình thành ngôn ngữ (khách quan, chủ quan). Và khẳng định, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái có sự “lồng ghép cái khách quan vào cái chủ quan” - một hình thức “lạ hóa” lời trần thuật. Đây là một trong những thành tố quan trọng tạo nên phong cách văn chương nhà văn. Phạm Thị Ngọc Hà trong luận văn Thạc sĩ “Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Hồ Anh Thái” (2009) đề cập đến yếu tố ngôn ngữ trong sáng tác trào phúng Hồ Anh Thái. Tác giả luận văn cho rằng: “Hồ Anh Thái tạo ra một thứ ngôn ngữ đậm chất trào phúng dựa trên việc hòa trộn các lời nhân vật, lời tác giả tạo nên ngôn ngữ đa thanh, độc đáo mang phong cách Hồ Anh Thái” [19, tr.104]. Luận văn khẳng định 10 ngôn ngữ trần thuật có “sự xâm nhập của ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong ngôn ngữ trần thuật. Lời của nhân vật và lời của tác giả bị trộn lẫn, khó tách biệt.”; “không chỉ có lời đối thoại, cả những dòng độc thoại nội tâm của nhân vật cũng hòa vào ngôn ngữ trần thuật” [19, tr.105-106]. Ngôn ngữ người kể chuyện và nhân vật không có ranh giới rõ ràng, tạo nên sự phức hợp của các hệ lời và tính phức điệu cho lời văn. Ngoài ra, người viết còn cho rằng “sự hòa trộn các hệ lời” có tính quyết định đến tốc độ trần thuật: “tác giả không cần tách bạch lời nhân vật và lời của người kể chuyện, mà đặt liền nhau, xen kẽ lời kể - tả - bình luận khiến mạch kể chuyện trở nên nhanh hơn, gợi cảm giác về nhịp sống đô thị hiện đại gấp gáp và thực dụng, xô bồ, ngổn ngang…” [19, tr.107]. Bên cạnh đó, luận văn còn tập trung phân tích, đánh giá những đặc sắc về nghệ thuật trào phúng của Hồ Anh Thái ở phương diện xây dựng nhân vật, tình huống, cốt truyện. Khẳng định chính nghệ thuật trần thuật độc đáo đã giúp nhà văn thành công trong việc phát huy khả năng tạo dựng tiếng cười. Nhìn chung, qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu, các bài báo, bài viết về truyện ngắn Hồ Anh Thái, chúng tôi nhận thấy mỗi bài viết tiếp cận những khía cạnh khác nhau nhưng đều thống nhất ở những điểm sau: - Khẳng định Hồ Anh Thái là nhà văn tài năng, có nhiều tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật, để lại dấu ấn riêng của mình trên những trang truyện ngắn. - Khai thác điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái ở nhiều khía cạnh, từ nhiều trường phái lí thuyết. Dù theo phương diện nào thì cuối cùng các tác giả đều hướng đến làm bật lên phong cách nghệ thuật văn xuôi Hồ Anh Thái nói chung và truyện ngắn nói riêng. - Trong tất cả các bài viết, có hai luận văn đề cập trực tiếp đến ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm Hồ Anh Thái. Cả hai đều khẳng định, ngôn ngữ trần thuật phụ thuộc vào cách nhà văn chọn điểm nhìn, ngôi kể. Ngôn ngữ trần thuật có sự đan xen của các hệ lời, tạo tính đa thanh, phức điệu cho lời văn. Ngoài ra, luận văn còn trình bày ngắn gọn về cách tạo lập ngôn ngữ trần thuật. Việc tạo lập này có ảnh hướng đến nhịp kể của văn bản. Tuy nhiên, các tác giả chưa đưa ra một cách đầy đủ và hệ thống về các dạng lời kết hợp trong ngôn ngữ của nhân vật, ngôn ngữ người kể chuyện và các dạng lời của ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ của nhân vật. Bài nghiên cứu chỉ mới khẳng định sự đan xen của các hệ lời tạo 11 nên tính chất đa thanh cho lời văn nhưng chưa đưa ra được các cấp độ xâm nhập. Có một số nhận định còn chung chung, cảm tính mà chưa đưa ra các số liệu thống kê cụ thể. Như vậy, tính đến thời điểm này, đã có rất nhiều những bài viết, công trình nghiên cứu truyện ngắn Hồ Anh Thái trên nhiều khía cạnh, trong đó có đề cập đến khía cạnh ngôn ngữ trần thuật. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa thấy có công trình nào trực tiếp tiếp cận truyện ngắn Hồ Anh Thái theo hướng diễn ngôn một cách có hệ thống và toàn diện. Xuất phát từ thực tế đó, người viết tìm hiểu “Đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái”. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi khảo sát 9 tập truyện ngắn trong hệ thống sáng tác của Hồ Anh Thái: Những cuộc kiếm tìm (1988); Người đứng một chân (1995); Lũ con hoang (1995); Tiếng thở dài qua rừng kim tước (1998); Mảnh vỡ của đàn ông (2004); Tự sự 265 ngày (2005); Sắp đặt và diễn (2005); Bốn lối vào nhà cười (2006); Người bên này, trời bên ấy (2013). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Với đề tài khoa học này, chúng tôi tập trung tìm hiểu ba thành phần chính: diễn ngôn người kể chuyện, diễn ngôn của nhân vật và sự hòa phối của hai lớp diễn ngôn này trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. 4. Phương pháp nghiên cứu Dưới ánh sáng của lí thuyết tự sự học, để triển khai đề tài “Đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái”, chúng tôi vận dụng những phương pháp sau: Phương pháp loại hình: Truyện ngắn là một loại hình trong hệ thống tổng thể các loại hình văn xuôi. Khi nghiên cứu diễn ngôn trong truyện ngắn Hồ Anh Thái, chúng tôi luôn quan tâm đến những đặc trưng thi pháp của loại hình này nhằm khẳng định những đổi mới và sáng tạo độc đáo của nhà văn trong loại hình truyện ngắn vào giai đoạn từ sau 1986 đến nay. Phương pháp hệ thống: Để triển khai luận văn, chúng tôi đặt những truyện ngắn trong các sáng tác của Hồ Anh Thái. Điều này giúp chúng tôi tìm hiểu và làm rõ các 12 loại hình diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Tránh đưa ra những kết luận sai lệch, chủ quan. Phương pháp phân tích diễn ngôn: Chúng tôi sử dụng hệ phương pháp hình thức phân tích văn bản trong ngôn ngữ để phân tích tác phẩm thành các đơn vị nhỏ hơn. Từ đó đặt ngôn ngữ trong hành động nói, trong bối cảnh giao tiếp để giải quyết nội dung mà luận văn cần đạt. Phương pháp liên ngành văn học và ngôn ngữ: Giúp tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học và ngôn ngữ, qua đó làm cơ sở để tìm hiểu rõ và triển khai các luận điểm của luận văn. Phương pháp so sánh: Trong quá trình triển khai luận văn, muốn làm rõ hơn đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái, chúng tôi có so sánh với các nhà văn khác cùng thời Hồ Anh Thái. Từ đó có cơ sở khẳng định nét độc đáo trong cách xây dựng diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của ông. Sử dụng thao tác phân tích: Chúng tôi vận dụng thao tác phân tích để minh họa cho những nhận xét, lập luận của mình trên cơ sở phân tích những dẫn chứng trích ra từ các truyện ngắn của Hồ Anh Thái. Sử dụng thao tác thống kê, mô tả: Nhằm phân loại các kiểu diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái để xem xét những hiện tượng có tính tập trung cao, có tần suất xuất hiện nhiều lần trong truyện ngắn, mong tìm ra những đặc điểm riêng, ổn định trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. 5. Những đóng góp của luận văn Luận văn tập trung tìm hiểu “Đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái” một cách hệ thống, toàn diện. Tìm hiểu diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái là một hướng mới giúp chúng ta hiểu sâu hơn về nghệ thuật tạo lập diễn ngôn trần thuật trong kĩ thuật viết truyện ngắn của ông. Đưa ra mô hình diễn ngôn trần thuật mà Hồ Anh Thái sử dụng trong quá trình tạo lập văn bản văn học. Từ đó có cơ sở lí giải tại sao những truyện ngắn được Hồ Anh Thái làm ở giai đoạn đầu thường mang tính độc thoại hóa cùng giọng văn nhẹ nhàng, trữ tình tha thiết; những truyện ngắn được sáng tác ở giai 13 đoạn sau thường mang tính đa thanh, phức hợp cùng giọng giễu, nhại, giễu nhại, châm biếm đặc trưng. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận văn gồm ba chương: Chương I với nhan đề “Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn Hồ Anh Thái”. Sau khi giới thiệu một số khái niệm công cụ, nội dung chương này tập trung xác định cấu trúc và các kiểu diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Từ đó có cơ sở khái quát nên đặc điểm diễn ngôn người kể chuyện và vai trò của loại diễn ngôn này trong chỉnh thể tác phẩm. Chương II với nhan đề “Diễn ngôn của nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái”. Luận văn tập trung làm rõ các kiểu diễn ngôn đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Thông qua những kết luận của việc khảo sát, thống kê, chúng tôi đưa ra những nhận định về đặc điểm diễn ngôn của nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Vai trò của từng loại diễn ngôn này trong chỉnh thể truyện ngắn Hồ Anh Thái. Chương III với nhan đề “Nhịp điệu và sự hòa phối diễn ngôn trong truyện ngắn Hồ Anh Thái”. Đây là chương trọng tâm của luận văn. Nếu như chương I và chương II tìm hiểu những khía cạnh riêng lẻ của diễn ngôn trần thuật thì ở chương này, tổng kết lại, đưa ra một cách nhìn khái quát, toàn diện về đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. 14 Chương 1. DIỄN NGÔN NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ ANH THÁI 1.1. Giới thuyết chung về người kể chuyện và diễn ngôn người kể chuyện trong tác phẩm tự sự 1.1.1. Khái niệm người kể chuyện và diễn ngôn người kể chuyện Trần thuật học là một ngành nghiên cứu mới được định hình từ thập niên 60 của thế kỉ XX nhưng nó đã giải quyết rất nhiều những vấn đề then chốt của lí luận văn học mà hàng chục thế kỉ trôi qua chưa được làm sáng tỏ. Ngoài nghiên cứu cấu trúc truyện kể, vấn đề điểm nhìn, ngôi, giọng điệu,… người kể chuyện là một trong những vấn đề mà trần thuật học không thể bỏ qua. Tìm hiểu người kể chuyện sẽ giúp người đọc hiểu được vai trò và chức năng của chủ thể trong tác phẩm tự sự và là cơ sở nền tảng để nắm bắt diễn ngôn của truyện kể. 1.1.1.1. Khái niệm người kể chuyện Trong thi pháp văn xuôi hiện đại nói chung và lí thuyết trần thuật học nói riêng, chủ thể trong trần thuật là một vấn đề đang rất được quan tâm. Ngay thời kì đầu, khi mới bắt đầu nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và những vấn đề liên quan, Genette đã khẳng định: “Tôi cảm thấy truyện kể không có người kể chuyện, phát ngôn không có cách phát ngôn, đó là những ảo tưởng đơn thuần,… Đã có ai bác bỏ sự tồn tại của một ảo tưởng bao giờ chưa?… Truyện kể không có người kể chuyện của anh ta có thể tồn tại, nhưng đã từ bốn mươi bảy năm nay tôi đọc truyện, tôi chưa thấy loại truyện đó ở bất cứ đâu. Vả lại, đáng tiếc là một điều khoản lịch thiệp đơn thuần, bởi vì nếu tôi gặp một truyện kể kiểu đó, tôi sẽ chạy mất dép: truyện kể hay không phải truyện kể, khi tôi mở một quyển sách, thì chính là để tác giả nói với tôi. Và khi tôi vẫn chưa điếc cũng chưa bị câm, thì tôi thậm chí phải trả lời anh ta” [68, tr.193]. Sự kể chuyện ở đây có thể hiểu là kết quả hành động kể của hình tượng người kể chuyện. Sẽ không có câu chuyện, cốt truyện, hay nói khác đi, sẽ không có văn bản tự sự nếu không có người kể chuyện. Về sau, vai trò này của người kể chuyện lại được Todorov khẳng định: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện…” [53, tr.116-117]. Nói như thế để thấy rằng,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan