Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm thi pháp truyện ngắn nguyễn quang sáng...

Tài liệu đặc điểm thi pháp truyện ngắn nguyễn quang sáng

.PDF
109
943
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN -------  ------- NGUYỄN THỊ THU HIỀN ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN -------  ------- NGUYỄN THI ̣THU HIỀN ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VĂN HỌC MÃ SỐ : 60.22.32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÝ HOÀI THU HÀ NỘI – 2010 MỤC LỤC Mở đầu .......................................................................................................... 3 Chương 1: Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Quang Sáng ................................................................................................... 13 1.1. Con người giản dị mà phi thường trong cuộc sống chiến đấu ....... 14 1.2. Con người phức tạp, dần bị tha hoá trong cuộc sống hậu chiến ... 22 1.3. Con người ân tình, nhạy cảm trong đời sống riêng tư ................... 30 Chương 2: Không gian và thời gian nghệ thuật ....................................... 38 2.1. Không gian nghệ thuật ..................................................................... 38 2.1.1. Không gian sông nước Tháp Mười............................................. 39 2.1.2. Không gian phố thị Sài Gòn ....................................................... 47 2.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 51 2.2.1. Thời gian quá khứ qua cái nhìn hồi tưởng ................................ 52 2.2.2. Thời gian hiện tại qua các mảng màu tâm trạng ....................... 60 Chương 3: Kết cấu- giọng điệu và ngôn ngữ ............................................ 65 3.1. Kết cấu .............................................................................................. 65 3.1.1. Kết cấu sự kiện- tâm lí ................................................................ 66 3.1.2. Kết cấu đảo lộn trật tự thời gian ................................................. 69 3.1.3. Kết cấu truyện lồng trong truyện ................................................ 72 3.1.4. Kết cấu luận đề ........................................................................... 75 1 3.2. Giọng điệu......................................................................................... 77 3.2.1. Giọng ngợi ca khẳng định .......................................................... 78 3.2.2. Giọng cảm khái xót xa ................................................................ 81 3.2.3. Giọng “uy mua” .......................................................................... 85 3.3. Ngôn ngữ ........................................................................................... 88 3.3.1. Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ ...................................................... 88 3.3.2. Ngôn ngữ vừa đậm tính kịch vừa giàu chất trữ tình .................. 93 Kết luận....................................................................................................... 98 Tài liệu tham khảo ................................................................................... 101 2 MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Nguyễn Quang Sáng đến với văn chương từ những năm 60 của thế kỉ trước trong mối “cơ duyên” được xe trên chiến trường ác liệt. Suốt 50 năm hành trình đi tìm kiếm chân lý nghệ thuật, Nguyễn Quang Sáng đã từng thử sức trên nhiều lĩnh vực: tiểu thuyết, truyện vừa, kí, kịch bản phim…và cũng đạt được những thành công nhất định. Nhưng thế mạnh thực sự của ông lại thuộc về thể loại truyện ngắn bởi cứ nhắc đến Nguyễn Quang Sáng là độc giả lại nhớ đến một cây bút viết truyện ngắn tài năng. Kể từ tác phẩm đầu tay Con chim vàng (1958) đến nay, Nguyễn Quang Sáng đã cho ra mắt bạn đọc hơn 100 truyện ngắn gắn liền với hàng loạt các giải thưởng uy tín: giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất (1959) với tác phẩm Ông Năm Hạng, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội (1959) cho tác phẩm Tư Quắn, giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (1994) cho những thể nghiệm thành công trong Con mèo của Fuojita, giải Cây bút vàng (1998) trong cuộc thi truyện ngắn do Bộ công an và Hội nhà văn tổ chức cho Về lại bức tranh xưa…Năm 2000, Nguyễn Quang Sáng được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Không chỉ có vậy, nhiều truyện ngắn của ông còn được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông hoặc được chuyển thể thành kịch bản phim như Chiếc lược ngà, Con gà trống, Quán rượu người câm, Chị Nhung, Tên của đứa con, Con khỉ mồ côi…Đó là những cống hiến đáng trân trọng của nhà văn có thực tài này với thể loại truyện ngắn nói riêng và nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung. Ngày nay nhìn lại có thể thấy Nguyễn Quang Sáng không gây choáng ngợp bởi số lượng truyện ngắn đồ sộ mà tạo dấu ấn bền lâu nhờ phong cách 3 nghệ thuật độc đáo. Bạn văn, nhà phê bình và độc giả luôn nhớ tới ông như là một nhà văn Nam Bộ điển hình, một người kể chuyện bẩm sinh. Tô Hoài khi đọc Vểnh râu đã nhận xét: “Lần này đọc của Sáng, tôi đã thấy thuần lắm của cốt cách văn phong một trung tâm- miền Nam là một trung tâm, mà trong văn không có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được” [7; tr.659]. Trần Đăng Khoa cũng suy nghĩ tương tự khi đọc Một chuyện vui: “Nó sống động, nó sục lên cái mùi vị sông nước Tháp Mười, cả cái chất Nam Bộ đậm đặc không thể trộn lẫn” [7; tr.660]. Còn Phan Đắc Lập cho rằng: “Nguyễn Quang Sáng có biệt tài kể chuyện. Bằng một lối văn mộc mạc, anh cứ thủ thỉ kể hết cuộc tình này đến cuộc tình khác như một người nông dân Nam Bộ kể chuyện đời xưa và chuyện tiếu lâm. Ấy vậy mà với những trang viết mộc mạc ấy, Nguyễn Quang Sáng đã chạm tới những rung động vi nhiệm của tình yêu” [82; tr.102]. Thiết nghĩ đó mới là “giải thưởng” lớn nhất mà Nguyễn Quang Sáng đạt được trên hành trình văn học của mình. Đến nay tuy tuổi đã cao nhưng Nguyễn Quang Sáng vẫn miệt mài trên những trang viết, như ông chưa thoả mãn những gì đã đạt được. Ông vẫn trăn trở với tập truyện ngắn về miền Tây, vẫn nỗ lực tự đổi mới chính mình để theo kịp bước đi của lịch sử và thời đại. Trước những cống hiến không ngừng nghỉ của nhà văn Nam bộ “lão thành”, chúng tôi thiết nghĩ phải có công trình nghiên cứu một cách hệ thống về đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Luận văn này mong muốn góp phần tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng từ góc độ thi pháp để khẳng định sự đóng góp cũng như tài năng, cá tính sáng tạo của ông đối với nền văn học hiện đại Việt Nam. II. Lịch sử vấn đề Nguyễn Quang Sáng bắt đầu cầm bút từ 1952 hồi ở U Minh đánh Pháp. Kể từ đó đến nay, hơn 70 năm tuổi đời, 50 năm tuổi nghề, Nguyễn Quang Sáng vẫn 4 giữ được sức sáng tạo và đổi mới dồi dào. Sáng tác của ông, bởi thế, cũng thu hút được sự chú ý của không ít nhà phê bình, nghiên cứu. Các bài viết thường được triển khai theo hai hướng: hoặc khái quát đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng qua tổng kết hàng loạt tác phẩm, hoặc đi sâu vào tìm hiểu một truyện ngắn tiêu biểu của ông. Ở hướng tiếp cận nào thì các công trình đi trước đều đưa ra những gợi ý thú vị cho người thực hiện luận văn này. Năm 1969, tác giả Nguyễn Nghiệp đã có bài viết Đất nước và con người miền Nam trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Sáng đăng trên Tạp chí văn học số 1. Bài viết là những nhận xét khái quát nhất về tập truyện ngắn Chiếc lược ngà. Nguyễn Nghiệp chủ yếu thiên về tóm tắt lại nội dung các câu chuyện và bước đầu đã đưa ra một số phát hiện về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng: “Lối kể chuyện tưởng chừng như rất thoải mái, tuỳ hứng, nhưng thực ra đã thông qua bàn tay rất chủ động của tác giả (…) Quá khứ với hiện tại xen lẫn nhau, gắn bó với nhau theo lôgic bên trong của tính cách (…) Những chi tiết đều là chọn lọc và đã được khai thác đúng mức, hành động bên ngoài nói lên được tâm trạng bên trong” [68; tr.26]. Bài viết này có ý nghĩa như là một trong những bài phê bình đầu tiên về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Năm 1975, trên Tạp chí Văn học số 2, tác giả Vân Thanh đã có một bản tổng kết “dày dặn” và toàn diện hơn về Truyện ngắn Nguyễn Sáng. Nhìn lại chặng đường sáng tác của Nguyễn Quang Sáng từ 1958- 1975, Vân Thanh đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách truyện ngắn của ông: “Nói được một cái gì thật kì diệu trong những điều tưởng chừng rất bình thường của cuộc sống, đó là đóng góp đáng chú ý của Nguyễn Sáng (…) Nhưng làm quen với Nguyễn Sáng, người đọc được tiếp xúc nhiều hơn với những câu chuyện được xây dựng trên những tình tiết ngẫu nhiên, bất ngờ, lắm khi gay cấn, căng thẳng đầy tính kịch” [75; tr.17]. Vân Thanh còn đưa ra nhiều nhận định sắc sảo, chính xác về chi tiết, nhân vật, tính kịch trong truyện ngắn 5 Nguyễn Quang Sáng như: “Truyện Nguyễn Sáng giàu chi tiết sống. Nhưng chi tiết đối với anh không phải là một thứ trang sức để phô bày. Chi tiết được anh dùng trước hết là nhằm khắc hoạ nhân vật… Cùng miêu tả lớp trẻ, nhưng Nguyễn Sáng, mỗi người một nét khác nhau… Cùng miêu tả các cô giao liên, nhưng qua ngòi bút Nguyễn Sáng, mỗi người vẫn có một vẻ riêng”. “Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Sáng là những con người được vươn lên trong ánh sáng của cách mạng. Những nét u buồn không đọng lâu trong con người họ. Khó khăn, mất mát, chết chóc là điều khó tránh khỏi trong cuộc chiến đấu ác liệt này, nhưng điều đó không làm giảm lòng tin của họ vào chiến thắng ngày mai”. Hay “lắm tình huống bất ngờ, truyện Nguyễn Sáng thường mang nhiều chất kịch. Đó là phong cách của anh. Truyện của anh bao giờ cũng có khía cạnh làm người đọc hồi hộp, chờ đợi. Kết thúc truyện bao giờ cũng đột ngột, người đọc khó đoán được” [75; tr.24]. Có thể nói bài viết của Vân Thanh đã bước đầu hình thành được trong lòng bạn đọc một phong cách truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng: chứa đựng những yếu tố kì diệu, giàu chi tiết sống, lắm tình huống bất ngờ, đậm tính kịch nhưng vẫn mang nhiều chất trữ tình. Những năm sau đó, giới phê bình cũng rải rác có một số bài viết về Nguyễn Quang Sáng và truyện ngắn của ông. Có thể kể đến bài viết của Trần Hữu Tá về chân dung nhà văn trên Từ điển văn học với những nhận định ngắn gọn mà khái quát: “Nguyễn Quang Sáng có một phong cách viết truyện ngắn độc đáo. Truyện thường lắm tình huống bất ngờ, ngẫu nhiên nhưng tự nhiên, giàu chi tiết sống động và kì diệu nhưng hợp lý, tính kịch rất nổi nhưng cũng đậm đà chất trữ tình” [68; tr.114]. Đáng kể hơn nữa là các Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng của Bùi Việt Thắng và Phan Đắc Lập. Với những cảm nhận tinh tế của ngòi bút chuyên phê bình truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng đã “lẩy” ra một số đặc điểm quan trọng trong phong cách Nguyễn Quang Sáng: cốt truyện tiêu 6 biểu hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch tính cao, chất Nam Bộ đậm nét trong lời văn, lối kể chuyện rất “hoạt”. Đồng thời, Bùi Việt Thắng cũng bước đầu phác vẽ nên chân dung một con người nhạy cảm “dựa hẳn vào tình cảm để viết” nhưng cũng không kém phần hài hước, dí dỏm; lại có bản lĩnh, “thấu thị nhiều điều trong cuộc sống”. So với các bài viết trước đó thì nghiên cứu của Bùi Việt Thắng có tầm bao quát rộng hơn: khái quát lại được cả hai chặng đường truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (trước và sau 1975), đồng thời tìm ra được mối tương quan phát triển giữa hai chặng đường này: “Khi nghiên cứu bước đường sáng tác của một nhà văn ta thường thấy có hiện tượng: ở thời điểm nào đó với những ảnh hưởng và biến đổi nào đó, nhà văn viết khác trước, và cái sự khác này tạo ra một bước ngoặt. Nhưng có nhà văn, dù cố tình “rẽ ngoặt’ thì vẫn không được, anh ta phải trở lại chính mình mới được công nhận. Nguyễn Quang Sáng ở vào trường hợp thứ hai”. Theo Bùi Việt Thắng, truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết trước 1975 “ròng ròng sự sống, một sự sống đa dạng cung bậc, màu sắc, có tiếng khóc và tiếng cười, có khổ đau và hi vọng” nhưng sau 1975 “khi ông cố đổi giọng cho có vẻ hợp thời thì người đọc thấy chán- đó là khi đọc Tôi thích làm vua, Thế võ, Nhân vật ấy không được chết…” [79; tr.3]. Chỉ đến loạt truyện Con mèo của Foujita, Người đàn bà đức hạnh, Người dì tên Đợi… thì Nguyễn Quang Sáng mới “phát sáng trở lại”. Nhận định này cũng đáng để chúng ta suy nghĩ. Tuy khiêm tốn tự nhận “những dòng tôi viết chỉ là những cảm nhận sơ lược của một độc giả viết cho một nhà văn nổi tiếng” nhưng Phan Đắc Lập cũng đã góp phần không nhỏ vào việc định hình rõ hơn phong cách Nguyễn Quang Sáng. Một mặt, tác giả vẫn đồng tình với đa số nhà phê bình khác khi thừa nhận lối kể chuyện có duyên, giọng văn dí dỏm, hồn cốt Nam Bộ, sức hấp dẫn của kịch tính và chi tiết đã tạo nên “chất văn” Nguyễn Sáng. Mặt khác, Phan Đắc Lập như muốn “bàn luận” với các ý kiến cho rằng các tác phẩm sau 7 1975 của Nguyễn Quang Sáng khiến cho ông bớt “phát sáng” (như ý kiến của Bùi Việt Thắng). Ông viết: “Có người đã cho hàng loạt các tác phẩm này của anh là những thử nghiệm bất thành, vì nó là những chuyện luận đề, giống như văn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn đầu thế kỉ hai mươi. Một số bạn bè độc giả, trong đó có tôi lại nghĩ khác. Chúng tôi rất thích những Tôi thích làm vua, Thế võ, Con khướu sổ lồng…Tôi cho rằng, cùng với truyện ngắn xuất sắc của anh thời kháng chiến như Chiếc lược ngà, Chị xã đội trưởng…, một số truyện ngắn có thể xếp vào hàng những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam từ 1945 trở lại đây” [82; tr.106]. Bằng những dẫn chứng, phân tích sinh động cả về khoa học lẫn thực tế đời sống, Phan Đắc Lập đã cho thấy nhận xét trên không hoàn toàn là cảm tính. Bởi lẽ, dù trong những tác phẩm viết về chiến tranh hay những trang viết sau 1975, thì Nguyễn Quang Sáng vẫn giữ được giọng văn uy- mua, các chi tiết đắt giá cùng những tình huống giàu kịch tính (Bài học tuổi thơ, Người bạn lính,…). Chính những đặc trưng ấy đã giúp tác phẩm của ông “có khả năng chịu đựng sự thử thách khắc nghiệt của thời gian để còn gây được xúc cảm thẩm mĩ cho thế hệ mai sau”. Trong các bài viết tổng hợp về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, đáng chú ý nhất là bài nghiên cứu trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam hiện đại -Lịch sử Thi pháp - Chân dung (Phan Cự Đệ chủ biên). Với dung lượng gần chục trang sách, tác giả Lý Hoài Thu đã triển khai súc tích hai nội dung quan trọng: - Nguyễn Quang Sáng và những bước đi của truyện ngắn: tóm tắt lại đặc điểm hai chặng đường sáng tác truyện ngắn của ông (từ 1956- 1975, từ 1975 đến nay) - Vài nét về phong cách truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng: một nhà văn ưa “chơi bố cục” và tình huống, nhà văn của những chi tiết “biết nói và ám ảnh”, ngôn ngữ văn phong mang đậm chất Nam Bộ. Không dừng lại ở tính chất “đọc sách, điểm sách”, tác giả đưa ra cái nhìn toàn diện và tổng quát hơn cả về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Thấu suốt 8 cả chặng đường dài sáng tác của nhà văn; chừng mực nhưng cũng không kém phần chính xác, tinh tế khi đưa ra nhận định là nét nổi bật của bài phê bình. Công trình này cũng cho chúng ta thấy một văn phong phê bình mới khi bước đầu có hướng tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng từ góc độ thi pháp. Có thể nói, đây chính là những gợi ý rất quý báu cả về nội dung và phương pháp cho luận văn của chúng tôi. Bên cạnh những công trình nghiên cứu tổng quát về các chặng đường truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, chúng tôi còn bắt gặp những bài viết tập trung tìm hiểu sâu một truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Nam bộ này. Có thể kể đến lời nhận xét của Tô Hoài khi đọc Vểnh râu, của Trần Đăng Khoa khi đọc Một chuyện vui hay của Vũ Tú Nam khi biểu dương Con mèo Foujita… Hay các bài viết về truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Lộc, Phạm Văn Nam; về Quán rượu người câm của Trọng Khanh; về Bông cẩm thạch của Liên Phương.. Có thể nói, những bài viết trên đã đưa lại cho chúng tôi cái nhìn cụ thể nhưng không kém phần đa dạng về đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Cuối cùng không thể không nhắc đến một số khoá luận nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng như: Truyện Nguyễn Sáng (Nguyễn Thu Hà, 1976), Hình ảnh con người Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Sáng (Nguyễn Thị Việt Hoa, 1982), Một số đặc điểm thi pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (Phạm Minh Phú, 1993), Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (Vũ Thị Kim Ngân, 2007). Tiếc rằng, các công trình này hoặc chọn hướng tiếp cận xã hội học hoặc mới chỉ dừng lại ở mức khởi điểm về mặt lý luận thi pháp. Như vậy, đề tài Đặc điểm thi pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng vẫn còn để ngỏ nhiều hướng nghiên cứu mới cho người đi sau. Các bài nghiên cứu trên sẽ là những gợi mở cho chúng tôi tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Quang 9 Sáng một cách hệ thống dưới ánh sáng của thi pháp học. III. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu 1. Tiếp nối con đường còn để ngỏ của những người đi trước, chúng tôi trong luận văn này lấy “thi pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng” làm đối tượng nghiên cứu. Luận văn sẽ đi vào nghiên cứu những yếu tố hình thức mang tính nội dung, mang tính quan niệm của truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng để có được cái nhìn hệ thống về đặc điểm truyện ngắn của ông, qua đó khẳng định phong cách nhà văn. Để làm được điều đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng ở những phương diện sau: - Quan niệm nghệ thuật về con người - Không gian nghệ thuật và Thời gian nghệ thuật - Kết cấu - Giọng điệu và Ngôn ngữ 2. Nguyễn Quang Sáng là cây bút viết truyện ngắn rất đều tay từ những năm 60 của thế kỉ XX cho đến nay. Bởi vậy, để có được cái nhìn hệ thống về sáng tác của ông, chúng tôi sẽ nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng ở cả hai thời kì (trước và sau 1975), tập trung vào 5 tập truyện chính: - Con ma da- Chiếc lược ngà - Người bạn lính - Nó và tôi – Quán rượu người câm - Dân chơi- Tôi thích làm vua - Cánh đồng hoang và các truyện chuyển thể qua phim IV. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp hệ thống Phương pháp hệ thống là một phương pháp giúp người nghiên cứu có thể 10 xâu chuỗi những hiện tượng văn học đơn lẻ trong mối quan hệ biện chứng để có cái nhìn toàn diện, hệ thống về đối tượng nghiên cứu. Do đó, phương pháp này sẽ giúp chúng tôi trong việc khái quát một số phương diện thi pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng 2. Phương pháp thống kê Khảo sát thống kê là phương pháp nghiên cứu đặc trưng của thi pháp học. Thông qua việc khảo sát thống kê tần số xuất hiện của những kiểu nhân vật, kiểu thời gian, không gian nghệ thuật, kiểu ngôn ngữ…chúng tôi có thể rút ra những kết luận khách quan, chính xác về thi pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Luận văn khảo sát trên hai cấp độ: tác phẩm và toàn bộ sáng tác truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng 3. Phương pháp so sánh đối chiếu Trong quá trình nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu truyện ngắn của ông ở cấp độ đồng đại và lịch đại để thấy được những kế thừa, sáng tạo cũng như những đóng góp của ông. V. Cấu trúc của luận văn Luận văn được bố cục 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Phần nội dung của luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Quang Sáng Chương 2: Không gian nghệ thuật và Thời gian nghệ thuật Chương 3: Kết cấu - Giọng điệu và Ngôn ngữ 11 12 Chương 1: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG Sáng tạo văn chương là một hoạt động tinh thần, nhận thức nên bao giờ cũng có tính quan niệm. Coi việc phản ánh và thể hiện con người là nhiệm vụ trung tâm, tất yếu văn học không thể không có quan niệm về con người. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù quan trọng của thi pháp học hiện đại. Trần Đình Sử trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học đã định nghĩa: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật đó” [72; tr.59]. Như vậy, các nhà thi pháp học quan tâm đến việc cảm thụ, cắt nghĩa không phải con người trong thực tế mà là con người trong văn học. Con người trong văn học thực chất là quan niệm về con người được thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật, trong hệ thống các hình ảnh tượng trưng, các nguyên tắc miêu tả tâm lý, tính cách…Do đó, việc tìm hiểu quan niệm của nhà văn về con người sẽ giúp ta khám phá, phát hiện cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng có thật. Chính quan niệm nghệ thuật về con người sẽ chi phối thế giới nghệ thuật của nhà văn, tạo nên hạt nhân phong cách của mỗi tác giả, làm thành thước đo của hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật. Có thể nói, để hiểu một tác phẩm, một tác giả, một trào lưu, một giai đoạn văn học, không thể không xem xét đến quan niệm nghệ thuật về con người. Bởi xét cho cùng, con người bao giờ cũng là cái đích khám phá của nghệ thuật. Hiểu được các nguyên tắc cắt nghĩa, cảm nhận con người sẽ hiểu được vai trò sáng tạo của nhà văn trong việc thâm nhập và chiếm lĩnh đời sống. 13 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Hơn nữa, với thi pháp học thì nhân vật là sự biểu hiện tập trung nhất quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Các nhà thi pháp học cho rằng: “Nhân vật văn học nào cũng biểu hiện một cách hiểu của nhà văn về con người theo một quan điểm nhất định và qua các đặc điểm mà anh ta lựa chọn. Nhân vật văn học chính là mô hình về con người của tác giả” [72; tr.65]. Do đó, muốn khám phá sự cảm nhận về con người tới mức độ nào thì cần phải khám phá quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện trong hình thức miêu tả nhân vật: “Phân tích thi pháp là khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân vật chứ không phải chỉ ra những nội dung phong phú được thể hiện trong nhân vật” [72; tr. 60]. Vì thế, chúng tôi thiết nghĩ công việc đầu tiên phải làm khi tiến hành triển khai đề tài này là tìm hiểu, lí giải quan niệm nghệ thuật về con người qua các nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Quang Sáng là một cây bút có những đóng góp đáng kể cho văn học Việt Nam hiện đại. Đóng góp ấy trước tiên ở khía cạnh quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Trong truyện ngắn của mình, ông đã tạo ra một thế giới nhân vật có đặc điểm rất riêng 1.1. Con người giản dị mà phi thường trong cuộc sống chiến đấu Nguyễn Quang Sáng kể, ông “bắt đầu cầm bút từ 1952 hồi ở U Minh đánh Pháp”. Gia nhập quân đội từ khi mới 14, 22 tuổi tập kết ra Bắc và xuất bản những truyện ngắn đầu tiên, 32 tuổi trở lại miền Nam và bắt đầu giai đoạn “chín muồi” của ngòi bút. Gắn bó, lăn lộn với cuộc chiến đấu của dân tộc, Nguyễn Quang Sáng thuộc thế hệ nhà văn cầm bút để trả nợ nghĩa ân của cách mạng và nhân dân đã nuôi lớn ngòi bút và tâm hồn mình. Vì lẽ ấy, hình ảnh con người Việt Nam trong chiến đấu ở truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng được chuyển tải bằng dư vị đặc biệt - giản dị, tự nhiên nhưng đầy xúc động. Ngay từ năm 1975, Vân Thanh đã nhận ra đặc điểm nổi bật này khi nhận 14 xét: “Truyện Nguyễn Sáng chứa đựng những yếu tố kỳ diệu như thế. Nói kỳ diệu là nói những chuyện lạ, Nhưng với Nguyễn Sáng, đó là những chuyện lạ đã trở thành bình thường, những chuyện lạ không phải do phép tiên mà có, nó được làm nên bởi những con người bình thường” [75; tr.17]. Quả thật, Nguyễn Quang Sáng không xoáy ngòi bút vào việc mô tả dáng vẻ phi thường của những anh hùng trong chiến đấu mà lại quan tâm đặc biệt cách người ta sống ra sao giữa bom đạn tàn khốc để vẫn là một- con- người- bình- thường như bao người bình thường khác: một cô giao liên đeo mãi bông cẩm thạch cũ kĩ vì đó là kỉ vật tình yêu của người cha đã mất và người mẹ của cô (Bông cẩm thạch), một cậu lính nhỏ ngày đêm lo lắng làm sao để con gà được cất tiếng gáy giữa chiến trường mà không bị trừng phạt (Con gà trống), một anh nông dân vui mừng vì được hút thuốc nhờ đạn hoả tiễn của giặc đúng lúc quên mang theo hộp quẹt (Một chuyện vui), một người chiến sĩ khi gặp con gái chỉ mong được nghe tiếng gọi “ba” từ con bé (Chiếc lược ngà)… Đạn bom của chiến tranh càng đẩy con người vào cảnh ngộ bất bình thường thì nhân vật của Nguyễn Quang Sáng càng nổi bật lên bản chất giản dị, hồn nhiên. Dung trong truyện Chị xã đội trưởng là trường hợp như thế. Trong vai trò xã đội trưởng, Dung đối mặt hàng ngày với cuộc chiến khốc liệt: “chẳng những chỉ huy du kích, nhận càn, bắn máy bay, chị còn lãnh đạo cả việc đi cấy, đi gặt, đi đấu tranh chính trị” [55; tr.135]. Súng lục, trực thăng, bom napan… bất cứ lúc nào cũng có thể lấy đi tính mạng hay đốt cháy từng phần cơ thể của người con gái xinh đẹp ấy nhưng không sao “cướp” được ở chị những rung cảm đời thường. Vừa bước ra khỏi cuộc họp, Dung đã ngay lập tức quên đi không khí căng thẳng của trận công đồn chuẩn bị diễn ra để ngẩn ngơ trước màu đỏ của hoa ô môi: “Trong ánh sáng chói chang, hoa ô môi đỏ rực như những lá cờ lớn trải trên tàn cây, nối tiếp nhau từ đầu làng đến cuối làng. Làng bỗng rực rỡ, sáng đẹp lạ lùng… Còn Dung, Dung cứ đứng 15 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi lặng nhìn về phía làng với vẻ mặt đầy xúc động” [55; tr.150]. Từ khoảnh khắc đậm chất thơ ấy, hình ảnh chị xã đội trưởng hiện lên thật dịu dàng, trong trẻo và vô cùng gần gũi. Và giữa bom đạn ngút trời, giữa những trận càn liên tiếp, chị vẫn yêu- một tình yêu cũng rắc rối, hồn nhiên và tinh nghịch như bao cô gái khác. “Cách đây ba tháng”, nghe tin trong làng có một cô gái bị cháy cả mặt và hai tay vì bom napan, Khương (người yêu Dung) lo lắng viết thư về hỏi. Hơn một tháng sau, anh nhận được thư Dung với tuồng chữ khác lạ. Dung bảo người cháy mặt, cháy tay chính là Dung và chị khẩn thiết khuyên anh hãy quên chị đi. Lá thư khiến Khương vừa đau khổ, vừa buồn, vừa thương, vừa giận và càng thấy yêu thương Dung hơn. Giữa lúc khổ tâm nhất, Khương lại nhận được lá thư thứ hai nói “em không bị cháy gì hết, vẫn y nguyên” nhưng lại “chua” thêm dòng tái bút: “chừng anh về, biết đâu em là người bị cháy thật” [55; tr.158]. Thế đấy, hoá ra Dung đã biến sự tàn bạo của chiến tranh thành cái cớ để thử thách lòng chung thuỷ của người yêu, để được sống với cảm xúc thăng trầm, hồi hộp, ngượng ngùng của tình yêu như muôn đời nay các cô gái vẫn vậy: “Tôi không dám luận bàn về tình yêu, nhưng tôi nghĩ, điều mà chị xã đội bày ra cho thêm rắc rối đó là cái chất trẻ đẹp của tình yêu mà bom đạn của giặc Mỹ không thể nào giết chết được. Đứng trong cuộc sống chiến đấu đầy bom đạn, chẳng biết lúc nào mình bị hy sinh, bị tàn tật, nhưng điều đó không ám ảnh được chị. Chị vẫn sống một cách bình thường, vẫn yêu, yêu một cách rắc rối, hồn nhiên như vậy đó” [55; tr.158]. Còn anh Tư già (Dân chơi) dù mặc nhiên thừa nhận “chiến tranh thì đâu có gì bình thường” [19; tr.24] nhưng lại coi cuộc chiến khốc liệt thành một cuộc chơi lớn. Mặc cho trực thăng quần đảo hàng ngày trên đầu, B52 “ba đợt dội ngay đội hình”, và “mỗi lần thay đổi cù lao là phải vượt sông dưới tầm súng của tàu tuần” [54; tr.26], anh Tư già vẫn bình thản, nhàn nhã như đang sống giữa thời bình. Câu chuyện viết về chiến tranh mà chẳng khác gì đang kể 16 về những chuyến đi dã ngoại kì thú và nhân vật chính như đang du ngoạn khám phá sự giàu đẹp của mảnh đất phương Nam. Cũng như nhân vật “tôi”, người đọc vừa ngỡ ngàng vừa thích thú trước những thú chơi của anh Tư già giữa chiến trường. Thứ nhất là thú ăn: “trong cái bồng mang trên lưng anh không chỉ có quần áo mà như có cả một cái bếp lưu động. Cái bếp có đủ gia vị: hành khô, ớt khô, tiêu tỏi muối đường, bột ngọt và cả nước mắm khô…, có cả một con dao thái thịt bằng hai ngón tay, lại còn có một hộp lưỡi câu. Hôm nào đến trạm sớm chưa đúng bữa ăn thì anh chặt một nhánh cây rừng, chuốt thành cần câu, anh đi ra suối… muộn nhứt là một tiếng, anh thường trở về với một xâu cá rô mè. Một bữa cơm chiến trường thật ngon lành” [54; tr.17]. Thứ nhì là thú nhậu- thú chơi rất quen thuộc của người Nam bộ mà mồi nhậu được anh Tư “nâng lên” thành hàng độc đáo. Có khi là miếng chuối chiên bột- “cái mà ở rừng không thể có” [54; tr.15]. Có khi là món nhái nướng “ngon mà ngọt mà thơm lạ”- thứ như được anh bắt bằng bùa chú: “trong tay một cái túi may bằng áo mưa màu xanh đã cũ nát, bước ra đám cỏ dưới cơn mưa lất phất, rồi anh giả giọng nhái, anh giả giọng thế nào mà nhái từ đâu trong đám cỏ, như thót bụng vọt qua ngọn cỏ tới anh, anh đưa tay chớp gọn, nhét vào bọc nilon, rồi lại giả giọng và nhái lại bươn bả nhảy tới chân anh” [54; tr.21]. Có khi là da cá thác lác phơi trên cây rừng, đem nướng, quéo lại thơm lừng. Đi vào cuộc chiến tranh này, một cuộc chiến quá khốc liệt, ai cũng có một tâm trạng nào đó, có lúc sơ hở, có lúc cuống cuồng còn anh Tư già cứ nhàn nhã, nhởn nhơ. Chính anh đã biến chiến tranh thành sự kiện hết sức bình thường và chiến trường thành chốn nghỉ dưỡng tuyệt vời để sống cho thoả những đam mê. Dân chơi là câu chuyện viết về chiến tranh nhưng không để lại dư âm nặng nề của mưa bom bão đạn mà gợi ta liên tưởng đến những trang văn “xê dịch” của Nguyễn Tuân một thời. Có thể nói, trong truyện Nguyễn Quang Sáng, bối cảnh chiến tranh chỉ là 17 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi phông nền, còn quỹ đạo cuộc sống, tình cảm, lí trí của con người mới là tâm điểm của bức tranh hiện thực. Chiến tranh không thể biến Dung (Chị xã đội trưởng), Tư già (Dân chơi), Thu (Chiếc lược ngà), Mì (Bông cẩm thạch)…thành những cỗ máy cứng nhắc, hay thành những anh hùng “lên gân” mà họ luôn là chính họ, là từng cảnh ngộ, từng thân phận, từng nỗi niềm, từng bản lĩnh…mộc mạc đến đáng yêu. Con người Nam bộ là thế. Bản chất giản dị và hồn nhiên đã theo họ từ thuở khai hoang vùng đất mới đến tận cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ này. Bình thường, giản dị, không cao giọng “lên gân”- chính những đặc tính đó- đặt trong tương quan với sự tàn khốc của chiến tranh ác liệt lại khiến nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng hiện lên thật phi thường, “kì diệu”, cao cả. Luôn bị đẩy vào những nghịch cảnh, những tình thế tâm lý trớ trêu, chịu nhiều thương tổn do chiến tranh gây ra nhưng nhân vật của Nguyễn Quang Sáng vẫn kiên cường vươn lên, vượt qua những mất mát để đến đích cuối cùng, không đánh mất những lí tưởng và tín điều thiêng liêng trong họ. Đó là chị Bảy Quyên (Tên của đứa con), anh Ba Hoành (Quán rượu người câm), ông Năm Hạng (ông Năm Hạng), Thu (Chiếc lược ngà)… Chị Bảy Quyên trong Tên của đứa con rơi vào nghịch cảnh thật éo le: bị tên cảnh sát nguỵ ngày đêm ve vãn, dụ dỗ và người chồng (tưởng rằng đã hi sinh) lại chưa chết, bí mật trở về. Ở vào tình thế đó, khi chị mang thai với chồng, không tránh khỏi bị hiểu lầm, dị nghị. Mọi người trong làng khinh rẻ xa lánh người đàn bà “chồng mới chết, mồ mả chưa ráo mà đã tằng tịu với một sĩ quan vốn là kẻ thù của chồng mình” [53; tr.91]. Thậm chí chính mẹ chồng, mẹ đẻ cũng khinh bỉ, căm giận, ruồng rẫy chị. Thay vì niềm hạnh phúc vô bờ lần đầu được làm mẹ, Bảy Quyên đã phải chịu nỗi oan khuất không biết bày tỏ cùng ai. Xấu hổ, tủi thân, đau đớn nhưng chị cắn răng nén nỗi đau 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan