LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta có 54 dân tộc sinh sống, đa dân tộc, đồng thời cũng
đa bản sắc dân tộc , mỗi dân tộc có một nét văn hoá riêng, nhưng do sự giao
thoa, tiếp xúc giữa các nền văn hoá, mà các dân tộc này có những phong tục, tập
quán giống nhau. Trong đó có tục lệ ăn trầu, một phong tục văn hoá truyền
thống của người Việt, không chỉ dân tộc kinh ăn trầu mà ở một số dân tộc khác
cũng ăn trầu, mà còn dùng trầu cau vào các nghi lễ lớn như cưới xin, cúng gia
tiên, đám ma, ngày lễ tết… có lẽ trầu cau là một thứ mà không thể thiếu được
trong văn hoá cổ truyền của dân tộc ta. Mặc dù ngày nay, một số nghi thức đã
mất dần đi, thêm vào đó là những nét văn hoá hiện đại, tục lệ ăn trầu bắt nguồn
từ sự tích trầu cau được trích trong Lĩnh Nam chích quái, mà Trần Thế Pháp đã
nêu ra. Gắn liền với tục ăn trầu là những hiện tượng văn hoá phong phú mà
người xưa thường làm. Qua tục ăn trầu ta có thể hiểu thêm về nếp sống, một nếp
cảm nghĩ, mối quan hệ tình cảm giữa những người lao động cùng những ước mơ
lành mạnh của họ bắt nguồn từ xa xưa. Ngày nay, số người ăn trầu ngày càng ít
dần, tục ăn trầu sẽ không còn trong xã hội tương lai, nhưng những giá trị tinh
thần chân chính biểu hiện qua tục ăn trầu thì vẫn tồn tại. Tất cả những vốn quý
đó cần được nghiên cứu và sử dụng nhằm phát huy cao độ những di sản văn hoá
quá khứ để góp phần cải tạo và xây dựng nếp văn hoá mới ở nước ta. Vì vậy em
đã chọn đề tài trên.
Đây là một đề tài mà nhiều nhà sử học hay các nhà văn hoá đã nghiên cứu
và tìm tòi. Nghiên cứu tục lệ ăn trầu của người Việt để hiểu được một phần trong
phong tục văn hóa cổ truyền của người Việt.
-Nghiên cứu tục lệ ăn trầu của người Việt, em đi sâu và tìm hiểu tục lệ ăn
trầu trong văn hóa cổ truyền của người Việt. Từ đó hiểu thêm bản sắc văn hóa
của người Việt Nam.
0
I. NGUỒN GỐC TỤC LỆ ĂN TRẦU.
Có từ sự tích trầu cau, có 2 anh em sinh đôi là Tân và Lang, do một hiểu
lầm với người chị dâu là Lưu Liên nên người em là Lang đã bỏ đi đến một dòng
suối vì sầu não, cô đơn mà thác, biến thành phiến đá vôi.
-Tục ăn trầu có từ rất sớm, nhưng chưa biết từ thời điểm nào. Phải đợi đến
tận cuối thế kỷ XV, sách Lĩnh Nam chính quái của Trần Thế Pháp ra đời, nó mới
được ghi chép thành một truyện tích rõ ràng, có một nguồn gốc mang nhiều ý
nghĩa thâm thuý.
Sau khi đọc sự tích trầu cau trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta nhận thấy một
truyện được ghi chép lại không những có kết cấu chặt chẽ, lại phối hợp được cả
những yếu tố hiện thực lẫn huyền ảo một cách khéo léo như thế tác giả của nó
đã khiến một câu truyện vụn vặt, còn mờ nhạt trong dân gian trở thành một
truyện cổ tích có đầu đuôi, vừa lý thú hấp dẫn, vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa
thâm thuý.
+ Ở giai đoạn đầu truyện có tính hiện thực với dấu vết hiện đại, với những
tên tuổi rõ ràng, có ý nghĩa, với những tình tiết hợp lý, tự nhiên. Ở giai đoạn
cuối, truyện trở nên huyễn hoặc hai anh em họ Cao và vợ người anh vì không
hiểu nhau nên đã tự chia lìa chỉ đến khi cả ba người cùng chết đi và chết bên
nhau, người anh hoá cây cau, người em hoá phiến đá, vợ người anh hoá cây trầu
không, họ mới có được sự cảm thông hoàn toàn, từ nay họ sẽ mãi mãi gắn bó
bên nhau và kết hợp làm một qua miếng trầu tình nghĩa , một dòng nước đỏ tươi
như máu được tiết ra, tượng trưng cho tình gia đình muôn đời thiêng liêng, bền
chặt.
Trần Thế Pháp, cũng như các tác giả đời Lê khác, khi viết lại sự tích trầu
cau nói riêng, dàn dựng lại những truyện huyền thoại dân gian trong Lĩnh Nam
Chích Quái nói chung, hiển nhiên đã có hậu ý đề cao những giá trị cũ của dân
tộc với mục đích phổ biến để giáo dục con em theo tinh thần 24 điều dụ của Lê
1
Thánh Tông. Có lẽ bắt đầu từ đấy (cuối thế kỷ XV) các truyện cổ tích, thần thoại
nói chung, truyện trầu cau nói riêng mới được truyền bá rộng rãi trong toàn
quốc.
Riêng trong sự tích Trầu cau, các tác giả muốn giải thích cho mọi người
rằng, dân tộc ta đã có một đời sống văn hoá khá cao ngay từ xưa từ thời Hùng
Vương kia (Theo Đại việt sử lược, vào khoảng thế kỷ VII trước Tây lịch). Ngay
từ thuở đó, xã hội Việt Nam có truyền thống lấy gia đình làm gốc, anh em biết
thương quý nhau, trên kính dưới nhường, vợ chồng lấy nhau vì tình, vì nghĩa, và
người đàn bà đã biết chọn đời chung thuỷ son sắt với chồng… Không phải đợi
đến khi bọn phong kiến Trung Hoa sang đô hộ nước ta, giáo hoá ta, dân ta mới
biết thế nào là hiếu đễ, thế nào là biết nghĩa.
Vì sự tích Trầu cau có ý nghĩa sâu sắc như vậy nên tục ăn trầu của dân ta
đã được thăng hoa, trở thành một mỹ tục mang tính chất đặc thù của một nền
văn minh cổ Đông Nam Á.
Mỹ tục ăn trầu này đã gắn liền với những sinh hoạt văn hoá, từ đời sống
vật chất, đến đời sống tinh thần của dân tộc ta. Ngày nay, qua nhiều sách vở và
các tài liệu khảo cổ, người ta được biết trầu cau là hai loại cây đã xuất hiện rất
lâu đời ở các vùng Trung Ấn, Đông Nam Á và một số quần đảo trên Thai Bình
Dương; như trong di chỉ khảo cổ thuộc văn hoá Hoà Bình, hạt cau đã được tìm
thấy trên dưới một vạn năm. Tại các nơi đây đã có nhiều dân tộc có tục ăn trầu
như các dân tộc thiểu số xưa ở miền Nam nước Trung Hoa (kể từ lưu vực sông
Dương Tử trở xuống), tức người Trung hoa miền nam ngày nay, các dân tộc
Thái Lan, Miến Điện, các dân tộc Việt - Mên - Lào, kể cả các dân tộc thiểu số
như người Thái, Nùng, Mường, Dao, Thượng… trên bán đảo Đông Dương, cùng
các dân tộc trên quần đảo Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân; và ở Ấn Độ cũng
có nhiều nơi dân chúng có tục ăn trầu.
Có lẽ người xưa, do kinh nghiệm mà có, đã biết sử dụng vôi, trầu, cau,
cũng như các loại lá, rễ, quả của nhiều thứ cây khác tìm được để bảo vệ sức
2
khoẻ, phòng ngừa hay trị bệnh. Quả thực, ăn trầu đã giúp cho cơ thể được ấm
nóng, chống lạnh, chống sơn lam thuỷ khí; ăn trầu lại sạch miệng, răng lợi và
xương cốt được bồi dưỡng, vững mạnh.
Như Giáo sư Trần Quốc Vượng đã nói:
Trầu cau là một loại đặc biệt, không thuộc đồ ăn, đồ uống, cũng không
thuộc đồ hút, với mọi gia đình người Việt chúng ta, Trầu cau cũng thân thuộc
như cơm ăn, nước uống, như bát chè xanh, như điều thuốc lào”.
Trầu có trong miệng, mỗi miếng trầu gồm một miếng cau khô hoặc tươi,
một miếng lá trầu không quét vôi, một miếng vỏ cây chát (cây chay, cây vỏ đỏ)
ăn trầu có vị cay thơm, nó trừ được mùi hôi trong mồm, các chất trong lá trầu,
hạt cau và vôi có tác dụng làm chắc chân răng. Mùa đông giá rét, ở những người
làm nông nghiệp đó họ thường phải lội xuống nước, làm việc không ngơi nghỉ,
nhai trầu làm cho người ấm lên, đỡ được phần giá buốt.
Theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm tục ăn trầu nó tiềm ẩn một triết lý về sự
tổng hợp của nhiều chất khác nhau:
+ Cây cạu vườn cao là biểu tượng của trời (dương).
+ Vôi - chất đá là biểu tượng của đất (âm)
+ Dây trầu mọc lên từ đất quân quýt lấy thân cây biểu tượng cho vũ trụ
trung gian hoà hợp. Sự tổng hợp biện chứng của âm dương tam tài ấy tạo nên
một kết hợp hết sức hài hoà. Miếng trầu có cái tươi ngọt từ hạt cau, cái cay của
lá trầu, cái nồng nàn của vôi, cái bùi của rễ… Tất cả tạo nên một chất kích thích,
làm cho thơm mồm, đỏ môi và khuôn mặt người ăn bừng bong như say rượu.
Ăn trầu có nhai mà không nốt, nó mang một tính cách linh hoạt khó thấy không thuộc loại ăn, mà cũng không thuộc loại uống, cũng không thuộc loại
hút”.
Chính vì vậy trầu cau đã trở thành một thứ không thể thiếu trong sinh hoạt
tinh thần của người Việt.
3
II. TRỒNGTRẦU CAU:
Cây cau thẳng tắp, cây trầu không mềm mại trên mảnh vườn nho nhỏ của
mỗi gia đình người Việt xưa kia, chúng là những thứ cây quý giá, thể hiện một
lối sống thanh bình, yên ả, một cuộc sống định canh, định cư thuộc nền nông
nghiệp lú nước. Trong xã hội Âu Lạc nền văm minh nông nghiệp khá phát triển
cho nên “nhà nào cũng có vườn trồng cau và trầu không. Có lẽ từ đó trở đi việc
trồng cau ngày càng phổ biến cùng với nghề làm vườn, có thể nói trong các gia
đình người Việt xưa, đặc biệt là ở nông thôn, trầu cau là một thứ không thể thiếu
được, mà nếu thiếu nó gia đình người Việt cảm thấy thiếu và trống vắng một cái
gì đó. Vì vậy ta có thể nói trồng trầu cau là một tục lệ của cư dân ngày “xưa”.
Nói từ “xưa” có nghĩa là trồng trầu cau nó chỉ là tục lệ xưa mà thôi, còn ngày
nay, tục trồng trầu cau không còn nữa, mà nó chỉ tồn tại trong một số gia đình ở
nông thôn.
Tục trồng trầu cau mặc dù không còn mấy tồn tại trong xã hội đại Việt
này nay. Vậy tại sao nói lại không còn mấy tồn tại như trước kia nữa, có lẽ do
con người ngày nay đã quên mất thói quen ăn trầu mà xưa kia người ta gọi đó là
nhu cầu cần thiết, rồi các phong tục ct xưa kia cũng mất dần, xã hội biến đổi nó
mất dần bản sắc dân tộc, nhưng đồng thời, nó lại bổ sung thêm những cái mới,
mang màu sắc hiện đại, văn minh, tiến bộ.
Việc trồng trầu cau ngày nay không còn mang sắc thái thể hiện phong tục
ăn trầu của người Việt nữa mà nó tồn tại vì kinh tế, như vườn trầu ở Hoóc Môn Bà Điểm, nó đã đi vào lịch sử dân tộc gắn lion với cuộc kháng chiến chống Pháp
của dân tộc ta, nay nó đã trở thành mục đích kinh tế, trồng trầu cau để đem lại
lợi nhuận.
Xưa kia trầu cau đã trở thành sản phẩm trao đổi giữa các vùng, ở chợ
đồng bằng, trung du, miền núi sản phẩm cau tươi, cau khô, lá trầu không, vỏ
chay, rễ quạch, chúng là những món hàng phổ biến ở các chợ cả nông thôn và
4
miền núi, chúng kết hợp lại với nhau cho một màu sắc thắm tươi, đủ hương vị
cuộc đời.
Ở phố, người thượng lưu mới có đất trồng cau, nhưng không nhiều người
chơi cảnh để nuôi dưỡng tâm hồn, để níu giữ chút duyên quê, để thể hiện cốt
cách. “sống thẳng như cau, sống thơm như quế”. Thậm chí có người còn “chơi”
cau Ta lẫn với cau Nhật (lùn)ư, câu sâm banh “bụng phệ”. Buồng cau, khay trầu
chỉ còn là chút lễ nghĩa tượng trưng trong ngày cưới hỏi. Trái cau được dán têm
cánh phượng màu đỏ, hồng lấp lánh, cách điệu, song không còn “thay chủ” gửi
gắm những thông điệp, ý nghĩa sâu xa như ngày xưa.
Dẫu vậy, các miền quê ở Quảng Nam, vẫn còn xanh mướt những vườn
cau ngút thẳng. Cây cau được trồng rộ khắp nơi, vừa phục vụ ăn trầu, lễ lạt, vừa
xuất khẩu sang nước ngoài, và chuyển sang dịch vụ cây. Việc gìn giữ và khôi
phục nét văn hoá Trầu cau không phải quá khó với vùng quê này.
Cây cau thẳng, dây trầu mềm, khắp xứ sở Việt Nam đâu mà không thấy,
hàng cau phía trước bên bể nước mưa và giàn trầu trong mỗi ngôi nhà nơi thôn
dã luôn là biểu hiện của sự thái bình. Trong Nam có 18 thôn vườn trầu, tổng
diện tích hàng trăm câu số vuông. Ngoài Bắc, dọc các thôn xóm ven sông Hồng,
ngày xưa tới đâu mà chẳng nghe câu hát:
“Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh”.
Và ở miền Trung, đâu đâu cũng thấy thấp thoáng bóng cau và văng vẳng
đâu đây câu hát:
“Bồng em mà bỏ vô nôi.
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
5
Mau cau Bát Nhị, mua trầu Hội An”.
III. TRẦU CAU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỔ TRUYỀN NGƯỜI
VIỆT:
1. Cách ăn trầu của người Việt.
1.1. Cấu tạo miếng trầu.
Cho đến cách mạng tháng Tám, tục ăn trầu vẫn còn phổ biến ởnong thôn
và thành thị. Thành phần mỗi một miếng trầu thường có: là trầu có quệt vôi, một
miếng cau, một miếng vỏ chay. Nếu không co vỏ chay người ta chỉ ăn trầu quệt
vôi với cau tươi hoặc cau khô. Không phải ngay từ đầu người Việt đã ăn trầu có
cả vỏ chay. Nghiên cứu so ánh truyện Trầu - Cau - vôi của người Việt và truyện
Bơ-lô Đu-lơ của người Ca-tu (Tây Nguyên) chúng ta có thể nêu lên một giả
thuyết có ý nghĩa về thành phần miếng trầu của người Việt. Các dị bản về truyện
Trầu - cau - vôi của người Việt đều thống nhất một chi tiết: ba nhân vật tượng
trưng cho ba yếu tố: cau trầu, vôi; và từ thời xưa vua Hùng người Việt ăn trầu
quệt vôi với cau. Sách Quế hải ngu hành chí cho biết thêm: “Người Việt thích ăn
trầu, ding bạc và thiếc làm các hộp nhỏ, một cái đựng vôi, cái đựng dây hay lá
trầu; và một cái đựng cau. Theo truyện Bơ-lô Đu-lơ của người Ca-tu thì từ xa
xưa miếng trầu của người Ca-tu đã gồm có : cau, trầu, vôi, vỏ chay. So sánh
truyện của hai dân tộc ta có thể nghĩ rằng cách ăn trầu kèm thêm vỏ chay của
người Việt bắt nguồn từ ảnh hưởng qua lại giữa người Việt và cư dân Môn Khơme cổ đại. Cho đến nay, theo đồng bào nghiện trầu, ăn trầu thiếu vỏ chay vị
đậm kém đi nhiều lắm. Nếu không có vỏ chay, người ta tìm một thứ rễ cây khác
để thay thế, đó là rễ cây quạch, ăn riêng thì có vị chát nhưng ăn cùng với trầu
quệt vôi và cau thì miếng trầu đậm đà thêm lên và màu đỏ cốt trầu cũng thắm
hơn. Câu tục ngữ “trầu không rễ như rể nằm nhà ngoài” chính nhằm khẳng định
vị ngon đậm của miếng trầu có thêm rễ cây quạch hoặc voe chay, chứng tò
người Việt dã tự giác làm tăng vị đạm cho miếng trầu trong quá trình giao lưu
văn hoá với các dân tộc khác
6
1.2. Bổ cau:
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm 6 mời anh xơi trầu.
Quả cau to có thểbổ làm 6miếng, mỗi khẩu trầu ding 1/6 quả cau, quảnhỏ
hơn, bổ tư. Ở Nam bộ, quả cau to người ta thường bổ làm 8 miêng, quả cau được
dóc vỏ xanh, tiện bỏ chũm rồi mới bổ ra thành miếng. Dao bổ cau phỉ chọn dao
sắc miếng cau mới đẹp do đó ngôn ngữ Việt có từ “dao cau” để chỉdao sắc và
lion dó là sự hình thành mỹ từ pháp “mắt sắc như dao cau”.
Mùa cau là mùa nắng hanh, người Việt phơi cau để dành ding quanh năm.
Quả cau cũng được bổ thành miếng đem phơi. Trong lúc phơi phải biết dữ cho
hạt khỏi long. Miếng cau có đẹp là miếng cau còn nguyên hạt không bị long ra
khỏi miếng cau, gọi là cau đậu. Cau đậu là loại cau quí, vì khi miếng cau đã khô
hạt dễ long, muốn có cau đâu lúc phơi cau cần phải công phu.
Cắt vỏ chay hoặc rễ quạch. Vỏ chay được cắt thành miếng mỏng hình vồ
hoặc hình chữ nhật, khi ding mới đem cây vỏ ra cắt để miếng vỏ khỏi khô.
Nhiều loại dụng cụ được tạo nên gắn liền với tục ăn trầu.
-Âu đồng hình tròn có nắp đậy kín ding đựng lá trầu chưa têm, để giữ cho
lá trầu được tươi lâu. Đồng có khi được thay bằng thiếc.
Bình vôi và chìa vôi là loại dụng cụ phổ biến của mọi gia đình. Bình đựng
vôi đã tôi, chia vôi cắm ngay trong bình, dài như chiếc đũa, một đầu nhọn, vừa
để quệt vôi vừa để têm trầu, ởnong thôn, con dao vôi ding để rọc lá trầu, và quệt
vôi têm trầu là dụng cụ thông dụng (hình)
Bình vôi cũng ding để đựng vôi đã tôi. Ống vôi nhỏ có thể bỏ túi, dặt trên
cơi, mang đi mang lại thuận tiện, không như bình vôi để cố định một nơi.
Thường thường, ống vôi được làm bằng thiếc. Nhà giầu xưa kia ding ống vôi
bạc chạm trổ tinh vi.
7
Khăn trầu, túi trầu là những đồ dùng phổ biến của đồng bào ở nông thôn
từ xưa cho đến Cách mạng tháng Tám, dùng để đựng những miếng trầu đã têm,
những miếng cau, miếng vỏ, ống vôi. Trong nhân dân lao động, những đồ dùng
này được may bằng vải hoặc lụa theo kiểu giản dị. Khăn trầu, túi trầu củấcc cô
gái được giữ gìn cẩn then. Đối với tầng lớp quí tộc, khăn trầu thường bằng lụa,
nhiễu quí, túi trầu bằng gốm, đoạn là những hàng hiếm, đắt tiền.
Tráp trầu, cơi trầu, hộp đựng trầu bằng gỗ được làm ra từ lâu đời. Nghề
khảm phát triển, những tráp trầu, hộp trầu khảm gắn xà cừ do bàn tay khéo léo
của những người thợ cả tạo nên tiêu biểu cho trình độ tinh xảo của nghề thủ
công dân gian. Những tráp trầu, hộp trầu sơn mài là sản phẩm độc đáo và quí
hơn.
Người Việt đã tổ chức chu đáo việc ăn trầu, gắn liền tục ăn trầu, một nếp
sống văn hoá cao và một trình độ thẩm mỹ tinh tế hình thành qua các thời kỳ
lịch sử.
Tục ăn trầu của người Hà Nội.
Người Hà Nội vốn nổi tiếng sành ăn, sành mặc, Hà Nội là nơi chắt lọc
những tinh hoa, nét đẹp của mọi miền để tạo nên nét đẹp cho riêng mình. Nét
đẹp của Hà Nội thể hiện ngay cả trong tục dùng trầu - một phong tục mà theo
truyền thuyết có từ thời Hùng Vương dung nước (qua sự tích Trầu cau mà người
Việt Nam hầu như ai cũng biết.
Trước kia, người Hà Nội từ 13 tuổi trở lên là biết ăn trầu. Theo sứ giả nhà
Nguyễn vào đời Trần, ở Thăng Long, 61 phố phường đều trồng rất nhiều cau và
trầu không. Người Hà Nội trước đây có dâu:
“Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh.”
Chợ Cầu, chợ Quán là các chợ lẻ, chợ phụ dọc đường, Nam phố là tên cũ
của phố Hàng Bè bây giờ, nơi xưa bán rất nhiều cau tươi, cau khô. Chợ Dinh
8
gần dinh quan phủ Phụng thiên (quãng phố Phủ Doãn và ngõ Huyện bây giờ).
Ngày nay, người Hà Nội ít ăn trầu hơn trước nên không còn những phố bán trầu
mà tập trung phần lớn ở những chợ một số ít được đem bán rong. Người Hà Nội
rất công phu trong cách chọn trầu. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già,
không non, vừa tới hạt (nửa màu nửa hạt). Người sành ăn thường kén mua cau
Đông ở tỉnh Hải Hưng (cũ) . Từ tháng 8 có thêm cau miền Nam nhưng người ta
ít ăn vì loại cau này nhiều hạt không ngon. Mua tràu phải chọn lá hơi ánh vàng,
nhỏ, dày, tươi. Ngày trứơc có trầu không làng Chả ngon nổi tiếng vì lá nhỏ, vừa
thơm vừa cay, để có được lá trầu như vậy, người làng Chả ngày đó trồng cũng
rất công phu, dàn trầu không phải được trồng trên đất trồng gong. Ngày nay
người Hà Nội ăn trầu Hưng Yên, vào dịp lễ hỏi người ta mua trầu Tây Sơn vì lá
to đẹp. Người ăn sành trầu chọn vôi xứ Đoài - Sơn Tây
Bộ đồ ăn trầu của người Hà Nội gồm có: cơi đựng trầubằng đồng hoặc
quả trầu sơn khảm xà cừ, ống vôi chạm bạc, ống nhổ bằng đồng thau dung quết
trầu. Những cụ già ăn trầu còn có thêm cối giã trầu bằng đồng chạm trổ khá tinh
vi chỉ bỏ vừa miếng trầu, miếng cau, vỏ để giã. Dao bổ cau phải sắc để bổ cau
cho đẹp và hạt không bị vỡ. Cũng chỉ là “Quả cau nho nhỏ, lá trầu xanh” nhưng
cách ăn trầu của người Hà Nội rất duyên dáng, họ ăn trầu không những làm đỏ
môi, răng đen mà còn tạo nét môi cắn chỉ rất đẹp. Người ta không cho cả cau,
trầu và rễ vào cùng một lúc mà ăng từng thứ một. Cau được nhai dập mới cho
trầu vào và sau cùng là rễ quệt thêm một ít vôi, khi ăn người ta thường lấy tay
quệt ngang miệng, lâu dần tạo thành nét môi cắn chỉ.
Ngày nay, ở Hà Nội hầu như chỉ những người trên 60 tuồi mới ăn trầu cho
nên Hà Nội không còn cảnh mời trầu như A.de Rovodes - một người Phap nói
về việc ăn trầu của người Thăng Long thế kỷ XII: “Họ có tục đem theo một vài
túi con đầy trầu cau đeo ở thắt lung, họ để mở trong khi qua lại phố phường để
mời bạn bè. Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của
bạn một miếng trầu để ăn”. Tuy nhiên, quan niệm “miếng trầu là đầu câu
chuyện” của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung vẫn được áp
9
dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Ngày Rằm, mồng Một hoặc các ngày lễ Tết hoặc
trong những dịp lễ ăn hỏi, cưới xin của các gia đình Việt Nam vẫn không thể
thiếu miếng trầu quả cau trên bàn thờ tổ tiên.
Trầu cau chỉ là một thứ nhai chơi, tuy đơn sơ nhưng lại có nhiều ý nghĩa
trên lĩnh vực y học, tâm lý học xã hội… dùng trầu cau còn là một truyền thống
văn hoá của dân tộc. Ngày nay, không mấy ai ăn trầu nhưng nét đẹp đó vẫn được
gìn giữ và áp dụng trong cuộc sống của người dân.
2. Văn hoá người Việt được thể hiện qua cách têm trầu.
Têm trầu được người Việt tiến hành: Lá trầu đã rửa sạch được dọc ra làm
đôi (nếu như lá trầu to), hoặc chỉ dọc bớt cọng già, sau đó để cuốn lại. Rọc xong
quệt vôi lên trên lá trầu, dùng tay cuốn lại, rồi ghim chặt bằng cọng trầu, miếng
trầu đều đặn như chiếc kén xinh xinh. Từ lúc dọc lá trầu đến khi làm nên những
miếng trầu gọi là têm trầu: têm trầu phải đạt 2 yêucầu: vừa vôi và đẹp mắt.
Qua cử chỉ têm trầu, ăn trầu để phán đoán phong cách, tính nết cũng như
nếp sống của con người. Chính vì lẽ đó, khi đi xem mặt nàng dâu tương lai, nhà
trai đòi bằng đựơc cô gái ra têm trầu, trước là để xem mặt cô dâu, sau làđể xem
cử chỉ têm trầu của cô gái mà phán đoán tính nết. Miếng trầu têm vụng là người
không khéo tay; miếng trầu nhỏ miếng, cau to là người không biết tính toán làm
ăn; miếng trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa.
Việc “têm” miếng trầu, nhìn miếng trầu được têm thì người thưởng thức
còn đánh giá được sự khéo tay của người têm trầu (ở cái dáng đẹp hay xấu, ở
nếp gấp, ở cánh trầu…). Chàng hoàng tử trong truyện cổ Tấm Cám nhờ nhìn vào
miếng trầu được têm khéo léo mà nhận ra được vợ mình. Trần Quốc Vượng viết:
“Ăn miếng trầu, càng biết được “tính nết” người têm nó. Giản dị hay cầu kỳ.
Đậm đà hay nhạt nhẽo. Do chất lượng và số lượng vôi bôi trên lá trầu. Và khi có
miếng trầu “ở giữa đậm quế hai đầu thơm cay…”1.
1
Vă n hoá Việt Nam tìm tòi v à suy ng ẫm, Nxb Văn học, 2002, tr.293
10
Trong dân gian, một cơi trầu được têm khéo được dùng để đánh giá về nề
nếp, công - dung - ngôn - hạnh củamột cô con gái trong một gia đình. Chính vì
vậy, chỉ mỗi việc têm trầu, người xưa cũng nghĩ ra được kiểu dáng cho miếng
trầu. Tuỳ vào hoàn cảnh, tình huống sửdụng mà miếng trầu được têm theo
những cách khác nhau gắn với những ý nghĩa tượng trưng, ngụ ý gửi gắm của
người têm: trầu cánh phượng, trầu cánh quế, trầu cánh dơi, trầu mũi kiếm, trầu
mũi mắc…
Như trong ca dao đã ghi lại hình ảnh miếng trầu.
Túi gấm lẫn với túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân.
Têm trầu mũi mác cho chồng đi quân.
Câu ca dao trên, gắn liền với những truyện kể về cuộc khởi nghĩa bà Triệu
(quân ba Triệu mang túi trầu đi đánh giặc, miếng trầu têm hình cánh kiếm và
mũi mác. Đó là vẻ đẹp độc đáo của miếng trầu ra trận. Còn têm trầu trong ngày
cưới người ta thường têm trầu cánh phượng. Nhưng không phải ai cũng làm
được, đám cưới là một nghi lễ rất thiêng liêng và quan trọng vì vậy cũng như
việc chọn người bê mâm trầu xin dâu, hay chọn người têm trầu thì không phải
cũng làm được mà người ta phải chọn ra một người phúc hậu (có gia đình yên
ấm hạnh phúc, con đàn cháu đống thì mới được chọn mặt gửi vàng. Têm trầu
sao cho đẹp, cho đủ gia vị chứ không phải chỉ cuộn tròn viên cho vào miệng,
cùng với trầu là cau, với vôi kết hợp lại cho màu sắc thắm tươi để hưởng vị đắng
cay ngọt bùi của cuộc đời.
Cũng như trà đạo của người Nhật Bản, tục ăn trầu của người Việt Nam
cũng đòi hỏi lắm công phu. Dường như tất cả cái tinh hoá củatụcăn trầu đã được
kết đọng lại trong cách têm trầu. Têm trầu là cả một nghệ thuật. Khi mời trầu,
miếng trầu không chỉ gói gọn trong nó tình cảm nồng thắm mà còn thể hiện cái
nết khéo tay, hay mắt của người têm. Trong các hội làng, bên cạnh trò thi nấu
cơm, làm bánh, dệt cửi, còn có cả thi têm trầu.
11
3. Cau trầu trong một số nghi lễ.
“Đồ sính lễ quí nhất nước Nam không gì bằng trầu cau…”, Trầu cau là lễ
vật của khá nhiều hình thức nghi lễ hàng năm của người Việt. Bên cạnh lễ vật
khác, Trầu cau thuộc loại lễ vật đơn sơ, tinh khiết. Ở đây em chỉ phân tích một
vài hình thức nghi lễ trong đó cau trầu là lễ vật chủ yêú.
3.1. Miếng trầu cúng mụ:
Theo tín ngưỡng dân gian, 12 bà mụ là nguồn gốc sinh ra con người, theo
dõi giúpđỡ con người từ lúc trong trong bụng mẹ đến khi trưởng thành. Em bé
cưới nụ cười đầu tiên, người mẹ nựng “mụ dạy”, em bé bắt đầu hang chuyêbnj,
bà khen “mụ dạy khôn”, chạp chững bước những bước đi đầu tiên em được
người lớn khuyến khích “gắng lên, mụ đỡ…”. Trong năm đầu tiên của cuộc đời,
cha mẹ em bé sửa lễ cúng mụ ba lần, trong dịp:
- Bé ba ngày
- Bé đầy tháng.
- Bé đầy năm.
Để tỏ lòng biết ơn các bà mụ và cầu mong cho bé mau lớn khôn. Tuỳ theo
gia cảnh cỗ cúng có thể thịnh soạn, có thể đơn giản nhưng nhất thiết có một đĩa
trầu gồm 12 miếng dâng lên 12 bà mụ. Lễ vật chủ yếu là 12 miếng trầu. Trong
nhân dân lao động, cùng với đĩa trầu thường có hương, hoa quả (mùa nào thức
ấy) xôi chè ít khi cúng cỗ mặn. Dây là những ngày vui trong gia đình, họ hàng,
bè bạn đến chơi mưng cháu bé, tặng quà cho cháu. Lễ cúng mụ thường không
kèm theo ăn uống linh đình, xa hơn, lãng phí hơn.
3.2. Trong nghi lễ hôn nhân.
Hôn nhân là một lễ nghi quan trọng trong đời sống mỗi con người, trong
hôn nhân, miếng trầu, quả cau là nền tảng, dân gian ta có âu: miếng trầu là đầu
câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người. Trong mâm cỗ cúng tổ hông - vị
thần của hôn nhân bao giờ cũng có buồng cau và tệp lá trầu, tục lên này không
12
chỉ tồn tại từ xưa nữa mà nó còng tồn tại cho đến tận ngày nay. Không như các
tục lệ khác như tục lệ cưới xin của người Việt, một số nghi lễ trong cưới xin
trong lễ cưới hay vào các ngày cúng gia tiên, lễ tết như trong dịp lễ tết, ở một số
nơi, vào lúc đón giao thừa người chủ nhà sẽ chọn một người hợp tuổi để xông
nhà cho năm mới để sang năm mới, gia đình có nhiều niềm vui, ăn nên làm ra,
thì người xông nhà đó thường mang trầu cau đến và trong buồng cau người ta
xem có đẹp không, mống lá trầu có tươi không mà ước đoán rằng đôi lứa ấy có
đẹp duyên không, có được bách niên giai lão không.
Tục trầu cau một hôn nhân có ý nghĩa từ trong câu truyện thương tâm
trong sự tích trầu cau, tuy họ chết đi nhưng tình yêu còn tồn tại mãi mãi bên
nhau, giúp họ hóa thân thành miếng trâu đỏ thắm để nhắc nhở con người phải
lấy tình nghĩa làm trọng. Như vậy, tục lệ trầu cau của người Việt xuất hiện trong
hôn lễ người Việt là để khơi gợi, nhắc nhở mọi người hướng về một cuộc sống
đạo lý, nghĩa tình thủy chung sâu sắc.“Miếng trầu ân nặng là bao .Muốn cho
đông liễu, tây đào là hơn, trầu này trầu ái trầu ân - trăm cô con gái đầu ăn trầu
này” .Trong lễ cưới truyền thống của người Việt gồm có các thủ tục :
+ Kén chọn
+ Giạm ngõ (chạm mặt).
+ Ăn hỏi.
+ Lễ cưới.
Ngày nay các nghi lễ này đã dần được lược bớt đi, đơn giản hơn, chỉ đi
vào những bước chính:
+ Chạm ngõ
+ Ăn hỏi
+ Cưới.
Nhưng có nơi, việc ăn hỏi đã dần mất đi, không còn nữa, trong các nghi
thức trong lễ cưới này, trầu cau là một trong những lễ vật quan trọng nhất.
13
a/ Cau trầu trong lễ giạm: là lễ vật đầu tiên để đặt quan hệ giữa hai họ,
trong nghi thức này, đây là cuộc gặp gỡ chính thức đầu tiên của 2 gia đình, lễ
trạm ngõ ngày nay không còn như xưa nữa mà chỉ là buổi gặp gỡ giữa hai gia
đình, nhà trai đem trầu cau đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ
được tự do đi lại tiếp tục qúa trình tìm hiểu nhau trước khi đi đến hôn nhân, và
nếu nhà gái nhận trầu cau của nhà trai là nhận lời gả con gái sau lễ giạm thì cô
gái đã là người có nơi có chốn, không tìm hiểu ai nữa. Nếu cô vẫn thầm yêu
người khác cũng chỉ còn luyến tiếc mà thôi.
“Yêu nhau chẳng nói khi đầu
Để cho thầy mẹ nhận trầu người ta”.
Sau khi nhận trầu cau, mà do một nguyên nhân nào đó mà hai người
không đến với nhau được, nhà gái trả lại trầu cau cho nhà trai.
b. Cau trầu trong lễ ăn hỏi: là lễ vật mà nhà trai đem đến nhà gái để biếu
họ hàng, lễ ăn hỏi này là một thông báo chính thức về sự kết giao của hai gia
đình và hai họ, đánh dấu một sự chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn
nhân: cô gái được hỏi đã trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi. Trong
nghi thức này lễ vật thường là: cau tươi, bánh cốm, chè, tượi, bánh xu xê (phu
thê) đó là những lễ vật tối thiểu tỏng tục lễ cưới cổ truyền trong các lễ vật đó thì
trầu cau luôn đặt lên hàng đầu, đứng thứ nhất trong các lễ vật, có nghĩa là nó
mang một vai trò quan trọng trong nghi thức này. Quả cau tuy là lễ vật để nhà
gái đem biếu họ hàng, bnos không lớn lăm, và không có giá trị về vật chất nhiều
nhưng nó lại mang nhiều ý nghĩa, là thông điệp báo tin với họ hàng, làng xóm
rằng đám cưới sẽ diễn ra, xưa kia nó thay cho lời mời (thay cho thiếp mời ngày
nay). Trong nghi thức này, nhà trai phải mang đến nhà gái hàng trăm, có khi
hàng ngàn quả cau. Trong thời kỳ xã hội phong kiến suy tàn, tục thách cưới trở
thành một tục lệ hạ thấp phẩm giá người con gái, thì số lượng cau trong lễ ăn hỏi
lại phản ánh mặt hạn chế của phong tục. Từ chỗ quả cau có giá trị như một lời
14
báo hỉ đến lúc hàng ngàn quả cau cùng với những ràng buộc khác gây công mắc
nợ cho người lao động thì một phong tục có thể rất ý nghĩa tốt đẹp ban đầu.
c/ Cơi trầu xin dâu: là cơi trầu nhà trai đem đến nhà gái lúc đón dâu, đầy
là nghi thức tổ chức lễ cưới, là đỉnh điểm của cả quá trinh tiến tới hôn nhân, là
hình thức liên hoan, báo hỷ, mừng hạnh phúc cô dâu, chú rể, nó có ý nghĩa rất
thiêng liêng, do đó cả xưa và nay mọi người đều rất coi trọng. Trong nghi thức
này, cơi trầu thường được tô điểm rất đẹp, trầu têm cánh phượng, cau bổ khéo,
xếp trên cơi sao cho màu sắc hài hòa. Trong lễ đón dâu, một bà đứng tuổi đại
diện mẹ chồng bưng cơi trầu nói xin dâu. Đây là ngày cô gái từ biệt cha mẹ về
nhà chồng “Cơi trầu nên dâu nhà người” có ý nghĩa như vậy.
4. Trầu cau trong giao tế xã hội.
1.1. Mời trầu tiếp khách.
-Theo phong tục cổ truyền của nhân dân ta, khi khách đến nhà, lúc nào
cũng phải có trầu mời khác. Nếu không, đó là điều ân hận đầu tiên của gia chủ.
Nó được ghi lại trong câu ca cao.
“Rễ quạch còn chửa đi đào,
Trầu không chưa có, thuốc lào chưa mua”.
Nhờ có miếng trầu, chủ và khách cảm thấy gần gũi, thân mật nên từ xưa
đã có câu. “Miếng trầu là đầu câu chuyện, sau miếng trầu đến bát nước chè
xanh, đậm đà hương vị thơm ngon, đãi khách miếng trầu và bát nước chè xanh
gắn liền với đời sống hàng ngày của người lao động nông nghiệp. Người dân
nông nghiệp thường lao động chân tay mệt nhọc, sau một ngày làm việc bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời, cuộc sống vất vả là thế, nhưng họ vẫn cảm thấy vui
vẻ, mỗi buổi tối đi làm về họ thường ngồi quây quần bên nhau; đến thăm hỏi
nhau ăn miếng trầu, uống bát nước chè xanh, tinh thần thoải mái, người dễ chịu.
Đó là một nếp sống ấm cúng của bà con nông dân ta trong làng xóm. Ngày nay,
15
những hình thức sinh hoạt này không còn như trước nữa nhưng ở một số vùng,
địa phương hình thức này vẫn giữ được.
Người ta còn mời trầu để làm quen và để tỏ lòng tin cậy. Một người
phương Tây đến Việt Nam thế kỷ 17 nhận xét: “Người Việt Nam đi đâu cũng có
túi trầu mang theo. Gặp nhau, sau câu chào hỏi, cởi túi trầu, người nọ lấy miếng
trầu ở túi người kia, rồi vừa ăn trầu “của nhau” vừa trò chuyện… Mến yêu, tin
cậy, lịch sự biết bao! đó là nét giao tiếp đặc sắc của Việt Nam. Trong tục lệ mời
trầu xưa kia là người Việt, người ta mời nhau miếng trầu để nói chuyện thân mật
với nhau hơn. Và giáo sư Trần Quốc Vượng đã so sánh mời trầu tiếp khách với
mời thuốc lá để tiếp khách giữa xã hội xưa và nay. Theo giáo sư thì “miếng trầu
đơn giản thế thôi; trầu, cau, vôi, nếu có thể thêm tí vỏ, viên thuốc lào (với người
ăn trầu thuốc”), ấy thế mà miếng trầu nó mang đậm “cá tính con người”, người
ta têm trầu là để mời trầu, mời người khác ăn trầu. Điếu thuốc lá công nghiệp
ngày nay thật phi cá tính. Ăn miếng trầu người ta biết được tính nết” của người
têm nó: và ông còn cho rằng, ăn trầu không hại sức khỏe còn hút thuốc là thì
ngược lại và ông đưa ra ưu điểm của việc ăn trầu như, ăn trầu chắc răng, bền
rằng, chống rét, kích thích nhè nhẹ hệ tuần hoàn, kích thích thần kinh, ăn trầu
hông đôi má, thêm duyên, ăn trầu hơi say say, câu chuyện tâm tình cởi mở rồi từ
đó ông đưa ra một câu hỏi: “người xưa cởi mở hơn người nay, một phần vì thế
chăng?
-Mời trầu để bắt chuyện làm quen.
“Tiện đây ăn một miếng trẩu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là.
Xưa kia au biết ai đâu
Chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu nên quen.
Nhất là khi đến chỗ xa lạ, muốn được đón nhận vui vẻ, người khôn ngoan
phải có cơ trầu đem ra mời chào mọi người để gây thiện cảm, nếu vì một lẽ gì
mà thiếu sót thì họ vô cùng áy náy, băn khoăn, xa xưa quan họ tiếp khách, đi
16
mời khách, hoặc đi chơi hội thường có miếng trầu - trầu têm cánh phượng. Vì
quan niệm “miếng trầu là đầu câu chuyện”.
4.2. Trầu cau là món quà biếu thông dụng:
Như đã nói ở trên, mặc dù trầu cau không là món quà biếu có giá trị vật
chất nhưng nó là tục lệ của người Việt. Như khi trẻ con đến tuổi đi học, cha mẹ
đem vài chục cau đến xin thầy đồ cho nhập môn, hay để tỏ lòng biết ơn thày
lang chữa khỏi bệnh tật hiểm nghèo, người nhà bệnh nhân đem trầu cau đến
biếu, người không hay chữ đem trầu cau đến biếu xin cho đôi câu đố:
“Đem một cơi trầu kêu với cụ
Xin dăm ba chữ để thờ ông”
(Nguyễn Khuyến)
Thời xưa dân vào cửa quan phải có cơi trầu hoặc vài trái cau, thợ cả đến
xin việc cũng phải có chẽ cau tươi, xin chữ ký các chức sắc trong làng, trong
tổng phải có trầu cau, khao vọng phải có trầu trình làng, trong quan hệ gia đình,
đi xa về con biếu cha mẹ chẽ cau, cây vỏ, đi chợ về nàng dâu mua cho mẹ chồng
trầu vàng, rễ tía, hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau, mỗi khi có công
việc quả biếu thường là cau, trầu. Nhiều khi chỉ một chẽ 5 ba quả cau đã là quí,
đối với những nhà giàu có, điều đó có thể là nhiều hơn nhưng ở đây người ta
thường không căn cứ vào số lượng mà chính là ở tấm lòng ăn ở với nhau.
4.3. Mời trầu là cách ngỏ tình yêu giữa nam và nữ.
Miếng trầu còn là vật giao duyên. Chàng trai và cô gái gặp nhau, mời trầu
là để ướm lời thử lòng.
“ Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cử về sau mà chào”.
Với hương vị của trầu, cau, vôi luôn luôn gợi cho nam nữ liên tưởng đến
những chuyện tình yêu, chuyện duyên phận lứa đôi.
17
“Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên”.
Trong hình thức này, người con trai thường chủ động mời trầu trước và lợi
dụng lúc mời trầu để tán tỉnh người con gái, nếu người con gái đó từ chối không
nhận trầu thì dù sự từ chối ấy lịch sự, tế nhị đến đâu cũng phải hiểu đó là sự từ
chối tình yêu, nếu người con gái đó tỏ ý ngần ngại, muốn hiểu thêm tình ý đối
phương thì
“Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì trả ơn.
Trong trường hợp này, người con trai phải trấn an và thổ lộ rõ tình ý đứng
đắn, muốn xây dựng gia đình của mình, nếu người con gái thấy hợp ý, lòng ưa
rồi thì người con gái mới nhận trầu.
Cách giao duyên trên vừa kín đáo, vừa duyên dáng, và miếng trầu lúc này
không phải là một vật chất đơn thuần nữa mà nó còn là một biểu tượng của tình
yêu.
4.4.Ăn trầu còn gắn liền với tục nhuộm răng đen của người việt
có thể nói rằng ăn trầu và nhuộm răng đen có mối liên hệ gần gũi với
nhau. Từ ngàn xưa con người đã có tục nhuộm răng đen, không như ngày nay
người ta coi hàm răng trắng là cái đẹp thì ngày xưa người ta coi răng đen là cái
đẹp . Vậy nên ,để có một hàm răng đẹp các thiếu nữ xưa đến tuổi trưởng thành
đều học ăn trầu
“Răng đen ai nhuộm cho mình.
Để duyên mình đẹp, để tình anh say”.
Người thôn nữ má hồng, răng đen đã trở thành hình ảnh làm si mê mê
biết bao chàng trai, như câu ca xưa thường nói.
“Mình về mình nhớ ta chăng
18
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen”.
Nhuộm răng đen là một nét văn hoá cổ truyền của người việt xưa . nó đã
tồn tại một cách lâu dài trong lịch sử và trở thành một phong tục đẹp , một biểu
tượng của văn hoá việt thời trước . đến ngày nay phong tục này gần như mất hẳn
, có chăng còn sót lại một số ít “hàm răng đen”của những người thuộc thế kỷ
trước .có lẽ hình ảnh những bà cụ răng đen móm mém nhai trầu hay những cô
hàng xén răng đen “cười như mùa thu toả nắng” sẽ không bao giờ trở lại nhưng
nó sẽ vẫn còn đó , trong một giai đoạn lịch sử đã qua và khi nhớ tới nó ta vẫn
thấy một thoáng tự hào.
IV. HÌNH TƯỢNG TRẦU - CAU - VÔI TRONG TRUYỆN KỂ DÂN
GIAN, DÂN CA, CA DAO.
Từ bao đời nay, người Việt kể chuyện trầu cau, lá trầu, đá, vôi, một nguồn
dân ca, ca dao sôi nổi, đằm thắm xung quanh miếng trầu đã sinh sôi, nẩy nở mãi
phản ánh tình sâu nghĩa nặng của lòng người Việt Nam gắn bó với nhau.
1. Truyện trầu- cau - vôi của người Việt.
Cho đến thế kỷ XV truyện Trầu - cau - vôi của người Việt có chủ đề ổn
định ca ngợi tình vợ chống chung thủy, tình anh em hòa thuận. Vậy ta đặt ra một
câu hỏi. Tại sao lúc này người ta lại đặt vấn đề thống nhất tình vợ chồng, tình
anh em.
Quá trinh tan rã của chế độ đại gia đình đã tạo nên bi kịch trong đời sống.
Mối quan hệ anh em bị phá vỡ do chế độ tư hữu tài sản. Nhưng nhận thức của
tác giả dân gian chỉ dừng lại ở hiện tượng phổ biến trong xã hội, tình vợ chồng
mâu thuẫn với tình anh em, mà không rõ nguyên nhân sâu xa chi.
Trong truyện “người anh lấy vợ rồi lạnh nhạt với em” chính là phản ánh
nhận thức đó. Cho nên vấn đề đặt ra trong truyện rất rõ rang: thống nhất mâu
19
- Xem thêm -