Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ tr...

Tài liệu Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi thị nghè, thành phố hồ chí minh

.PDF
85
520
106

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIM THÚY DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT MỒ CÔI THỊ NGHÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Công tác xã hội Mã số : 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh” là đề tài nghiên cứu độc lập của riêng tôi, được đưa ra dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích và đánh giá công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè. Các số liệu là trung thực và chưa được công bố tại các công trình nghiên cứu có nội dung tương đồng nào khác. TP Hồ Chí Minh, ngày tháng Tác giả Nguyễn Thị Kim Thúy năm 2016 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT MỒ CÔI THỊ NGHÈ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...........................................................8 1.1 1.2 1.3 1.4 1.5 Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ............................................... 8 Một số khái niệm cơ bản ................................................................. 15 Công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật ............................................. 20 Chức năng của dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật ........ 23 Cơ sở pháp lý ................................................................................... 27 Chương 2: THỰC TRẠNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT MÔ CÔI THỊ NGHÈ, THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH................................................38 2.1 Giới thiệu chung về trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị nghè. 38 2.2 Thực trạng trẻ em khuyết tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh ............................................................ 42 2.3 Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phồ hồ Chí Minh.............. 45 2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 59 Chương 3: BIỆN PHÁP CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT VÀ MỒ CÔI THỊ NGHÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................65 3.1 Định hướng bảo đảm thực hiện công tác xã hội với trẻ khuyết tật . 65 3.2 Các biện pháp nâng cao dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................... 68 3.3 Khuyến nghị .................................................................................... 74 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................78 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Thống kê số nhân viên và phụ huynh trả lời phỏng vấn....................43 Bảng 2.2: Mức độ đáp ứng nhu cầu về chăm sóc, nuôi dưỡng .........................45 Bảng 2.3: Mức độ đáp ứng nhu cầu ăn, uống, dinh dưỡng ................................47 Biểu đồ 2.1 : So sánh mức độ đáp ứng nhu cầu của trẻ ............................................60 Biểu đồ: 2.2: So sánh mức độ đáp ứng nhu cầu của trẻ ............................................48 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” – Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và cộng đồng quốc tế hướng tới nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ và phát triển trong tương lai của mỗi quốc gia và nhân loại. Thế nhưng, nhiều trẻ em khi sinh ra đã phải chịu những thiệt thòi khi mang trong mình những dị tật bẩm sinh vĩnh viễn không nghe được âm thanh của cuộc sống, không được ríu rít trò chuyện với những đứa bạn cùng trang lứa, hay không thấy ánh sáng của cuộc đời, v.v… Trẻ khuyết tật là trẻ bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Do đó, việc đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ bình đẳng, đúng pháp luật cho trẻ khuyết tật trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, vui chơi giải trí, v.v… là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng xã hội và Nhà nước. Trong thời gian qua, có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ trẻ khuyết tật, đó là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho những số phận kém may mắn, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Với việc phê duyệt Đề án hỗ trợ người tàn tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng giai đoạn 20062010 tại Quyết định số 239/2006/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt với sự ra đời và có hiệu lực của Luật người khuyết tật năm 2011 thì nhiều chính sách hỗ trợ người khuyết tật đã được triển khai thực hiện. Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, gia đình, xã hội đối với người khuyết tật; quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật đã được quy định tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trợ giúp người khuyết tật, góp phần cải thiện, 1 nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đa số người khuyết tật. Một số Bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ người khuyết tật trong các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm, khám chữa bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật tiếp cận các công trình công cộng,… Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung trẻ tàn tật mồ côi. Tại đây đã thực thi công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật. Tuy nhiên trong thời gian qua, quá trình thực hiện công tác xã hội cho trẻ em khuyết tật còn nhiều bất cập. Các quy định của pháp luật liên quan đến công tác xã hội với trẻ em khuyết tật còn thiếu và chưa đồng bộ, không cụ thể và chưa chú trọng nghiên cứu đề ra các biện pháp cụ thể trong việc tổ chức thực hiện công tác xã hội. Vì vậy, hiện nay tỉ lệ trẻ em khuyết tật được học tại các trường, lớp theo mô hình hòa nhập còn thấp; việc tiếp cận các công trình công cộng của một bộ phận người khuyết tật còn nhiều khó khăn, trở ngại; còn tồn tại không ít trường hợp người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn chưa được hưởng chính sách trợ cấp, trợ giúp mặc dù có đủ điều kiện theo quy định; v.v… Để tất cả trẻ em khuyết tật trên địa bàn được thụ hưởng những ưu đãi, hỗ trợ mà Đảng, Nhà nước đã cam kết thì việc đánh giá lại công tác xã hội cho trẻ em khuyết tật để phát hiện những sai sót, bất hợp lí cũng như những khó khăn trong việc triển khai nhằm đưa ra biện pháp điều chỉnh, xử lí là một đòi hỏi cấp thiết. Xuất phát từ thực tế nêu trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Tôi mong rằng công trình nghiên cứu của bản thân sẽ góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện hơn nữa công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại 2 trung tâm bảo trợ xã hội trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè nói riêng, trên phạm vi cả nước nói chung trong thời gian tới. 2.Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề thực thi chính sách cho người khuyết tật có liên quan tới nhiều Bộ, ngành, nhiều địa phương, ở các lĩnh vực khác nhau như y tế, giáo dục, lao động việc làm,v.v… vì thế đã có một số công trình nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân liên quan đến vấn đề này. Cụ thể: Tác giả Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học. Luận án trên đã tập trung phân tích, đánh giá sự hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về người khuyết tật; trên cơ sở đó đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ sở hệ thống pháp luật về quyền của người khuyết tật ở nước ta hiện nay.[3] Tác giả Phạm Xuân Trường trong luận văn thạc sĩ hành chính công về đề tài “Quản lý Nhà nước về việc làm cho người khuyết tật ở nước ta hiện nay” (2014) đã nghiên cứu sâu về vấn đề việc làm cho người khuyết tật. Luận văn cũng đã chỉ ra những kết quả và tồn tại trong lĩnh vực lao động việc làm của người khuyết tật hiện nay. Tuy nhiên luận văn mới chỉ dừng lại ở một chính sách cụ thể là lao động, việc làm và tác giả chọn hướng tiếp cận từ góc độ quản lý nhà nước.[4] Một số báo cáo về tình hình hỗ trợ người khuyết tật trong một số dự án ở nước ta cũng đánh giá về những thực trạng trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở nước ta trong thời gian vừa qua. Các báo cáo đó là: Báo cáo năm 2011 về tình hình hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội. Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (2013), Báo cáo năm 2012 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật Việt Nam, Nxb Lao động - xã 3 hội. Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2006 - 2010 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội năm 2008. [6] Những Báo cáo trên đã nêu lên kết quả và hạn chế trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật, đồng thời cũng đã chỉ ra được một số vướng mắc trong quá trình triển khai chính sách. Tuy nhiên, các báo cáo trên chưa tập trung phân tích sâu những tồn tại trong quá trình triển khai chính sách nên chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể, tập trung để giải quyết những tồn tại đó. Mặt khác, các Báo cáo trên là tổng hợp tình hình trợ giúp người khuyết tật trên phạm vi cả nước nên không thể căn cứ vào đó để đánh giá và đề ra giải pháp cho vấn đề chính sách đối với người khuyết tật trên địa bàn một tỉnh cụ thể. Nghiên cứu “Cuộc sống của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thanh Bình được lấy kết quả từ điều tra xã hội học về trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội vào tháng 3/2009. Nghiên cứu này đã tiến hành khảo sát 126 trẻ em lang thang, trong đó có 48 em nữ và 78 em nam với các độ tuổi khác nhau từ 10 đến dưới 18 tuổi. Nghiên cứu đi sâu theo hướng mô tả về thực trạng đời sống của trẻ em lang thang trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỗ ở của trẻ em lang thang rất đa dạng, bao gồm mái ấm, nhà tình thương, nhà ở không mất tiền, nhà trọ, nhiều em phải ngủ tại bến xe, nhà ga, số khác ngủ tại gia đình đang làm thuê. Công việc của trẻ em lang thang thường là lao động chân tay, không yêu cầu trình độ và kiến thức. Thu nhập của các em ở mức thấp và không ổn định. Chi tiêu của trẻ em lang thang chủ yếu cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống ở mức thấp và tiết kiệm. Cuộc sống của các em rất thiếu thốn, khó khăn. Hoàn cảnh gia đình không được bình thường; trình độ học vấn thấp; các em dễ bị ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội. Tác giả đã 4 đặt ra yêu cầu phải có chính sách an sinh xã hội, những biện pháp hỗ trợ cuộc sống cho trẻ em lang thang hiện nay ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật và đánh giá thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh để đề ra các biện pháp cung cấp dịch vụ tác xã hội; giúp cho trẻ khuyết tật tự tin hơn, bình đẳng hơn trong hòa nhập cộng đồng và có cơ hội làm việc, cống hiến cho xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với cho trẻ khuyết tật. - Khảo sát, đánh giá thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH cho trẻ khuyết tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất một số biện pháp cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với cho trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Biện pháp cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho trẻ khuyết tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác xã hội cho trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 2011 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về chính sách cho người khuyết tật và việc thực thi chính sách cho người khuyết tật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để xử lí tài liệu thu thập được, so sánh thông qua các bảng số liệu và tham khảo các nguồn tài liệu để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về trẻ khuyết tật và công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật. Luận văn chỉ ra những thực trạng công tác xã hội cho trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội cho trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với gia đình trẻ khuyết tật: Gia đình trẻ khuyết tật được Đảng và Nhà nước quan tâm bằng việc trợ cấp, trợ giúp đối với Người nuôi dưỡng trẻ khuyết tật. đồng thời cũng đề cao trách nhiệm của gia đình trong việc chăm sóc và trợ giúp trẻ khuyết tật. Gia đình trẻ khuyết tật được biết thêm những thông 6 tin liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của gia đình trong công tác chăm sóc trẻ khuyết tật. Ngoài ra, luận văn còn góp phần bổ sung nguồn học liệu, tài liệu tham khảo cho sinh viên khi học tập, nghiên cứu vấn đề liên quan tới người trẻ khuyết tật và công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục Bảng Biểu, Sơ đồ, Danh mục Chữ viết tắt và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu theo 3 chương, 16 tiết như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật, mồ côi. Chương 2: Thực trạng cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật,mồ côi Thị Nghè. Chương 3: Biện pháp cung cấp dịch vụ công tác xã công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật và mồ côi Thị Nghè. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT MỒ CÔI THỊ NGHÈ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1 Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu 1.1.1 Cách tiếp cận lý thuyết hệ thống Thuyết hệ thống trong công tác xã hội bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống tổng quát của Bertalanffy (Toseland và Rivas, 1998). Thuyết này dựa trên quan điểm của lý thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống, được tạo nên từ các tiểu hệ thống cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Lý thuyết này đưa ra một số quan điểm chính như sau: - Hệ thống: là bất cứ đơn vị, tổ chức nào có những giới hạn xác định được với những bộ phận tương tác, những đơn vị, tổ chức này có thể mang tính vật chất, tính xã hội, mang tính kinh tế hoặc mang tính lí luận. Nói cách khác, hệ thống là tập hợp các thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau để hoạt động thống nhất. Một hệ thống có thể gồm nhiều tiểu hệ thống. Tiểu hệ thống là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ. Các tiểu hệ thống được phân biệt với nhau bởi các ranh giới. Đồng thời hệ thống đó cũng là một bộ phận của hệ thống lớn hơn. - Bản thân mỗi cá nhân cũng là một hệ thống và hệ thống cá nhân này lại bao gồm các tiểu hệ thống như: hệ thống sinh lý, hệ thống nhận thức, hệ thống tình cảm, hành động và các hệ thống phản ứng - Theo Pincus và Minahan (năm 1970) thì hệ thống mà nhân viên CTXH làm việc là những hệ thống rất đa dạng: gia đình, cộng đồng, hệ thống xã hội, môi trường văn hoá mà con người hiện đang tồn tại. Ví dụ: đối với học sinh đang ở độ tuổi vị thành niên, hệ thống được chia thành ba hình thức chính bao 8 gồm: (1) Hệ thống phi chính thức: gia đình, bạn bè (2) Hệ thống chính thức: trường học (3) Hệ thống xã hội: các tổ chức xã hội. Các hệ thống luôn có sự tác động lên các cá nhân. Có thể đó là sự tác động tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên sự phân biệt trên chỉ mang tính tương đối vì với cá nhân này hệ thống trợ giúp có thể là hệ thống chính thức nhưng với cá nhân khác lại là hệ thống xã hội. Vì thế cách phân chia trên chỉ mang tính tương đối. Hoặc có thể đối với cá nhân một là hệ thống chính thức, nhưng đối với cá nhân khác đó lại là hệ thống xã hội. 1.1.2 Lý thuyết hệ thống sinh thái Thuyết hệ thống sinh thái dựa trên quan điểm của Germain & Gitterman và Germain (1980) cho rằng con người ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng tới môi trường. Ngược lại môi trường cũng ảnh hưởng đến con người. Nguyên tắc cơ bản của sinh thái là mỗi cơ thể sống có quan hệ qua lại liên túc với các thành phần khác tạo nên môi trường của chúng (những hệ thống sinh thái là một khoa học khác với khoa học môi trường). Lý thuyết hệ thống sinh thái được coi như là mô hình về cuộc sống. Mô hình này chủ yếu được xây dựng trên lý thuyết sinh thái. Mô hình này còn có tên gọi là “con người trong môi trường” (Person In Environment PIE), trong đó người ta tác động lẫn nhau và tác động vào môi trường sống. Mục tiêu của CTXH là làm thế nào để con người phù hợp với môi trường sống của họ. Vận dụng lý thuyết hệ thống và sinh thái trong nghiên cứu, giúp tác giả đưa ra một số định hướng sau: Thứ nhất, người nghèo ở tại địa bàn nghiên cứu là một hệ thống nằm trong những hệ thống khác lớn hơn như: Hệ thống các làng, xã; các cơ quan đoàn thể, hội; hệ thống các chính sách có liên quan đến người nghèo ... và chịu sự tác động của những hệ thống đó. Vì vậy, khi trợ giúp người nghèo nhân viên công tác xã hội cần tác động và huy động sự trợ giúp từ nhiều hệ thống 9 để tạo sức mạnh cho người nghèo có tiềm lực vươn lên thoát nghèo, chẳng hạn: huy động sự trợ giúp từ hệ thống chính sách liên quan đến vốn tín dụng, chính sách liên quan đến bảo hiểm y tế, sự hỗ trợ từ hội phụ nữ, hội thanh niên. Tuy nhiên, tùy vào khả năng của từng hộ gia đình và năng lực của từng cá nhân mà khả năng tiếp cận của họ đối với các hệ thống trợ giúp là khác nhau. Do đó, khi làm việc với thân chủ, nhân viên công tác xã hội cần có những cách thức tiếp cận và hỗ trợ khác nhau. Thứ hai, người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa nên ít có cơ hội tiếp xúc với các hệ thống khác, có xu hướng giữ vững những gì trong hệ thống sẵn có, ít tiếp thu, chịu ảnh hưởng từ các hệ thống bên ngoài khác. Do đó giữa các hệ thống ít có sự trao đổi với nhau, có cũng là một phần nguyên nhân khiến vấn đề nghèo đói tồn tại dai dẳng ở cộng đồng người dân tộc thiểu số. Thứ ba, môi trường sống cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống và khả năng thích nghi của những hộ nghèo. Môi trường ở đây xét theo góc độ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chính vì vậy, để trợ giúp các hộ nghèo, nhân viên công tác xã hội cần quan tâm đến việc tạo ra sự thay đổi về môi trường sống của các hộ nghèo. Chẳng hạn, giúp người nghèo cải thiện về môi trường không bị ô nhiễm; cải thiện việc thực hiện các chính sách hỗ trợ; tư vấn để hỗ trợ vốn, đất sản xuất cho hộ nghèo.v.v. 1.1.3 Cách tiếp cận dựa trên lý thuyết nhận thức hành vi Đại biểu của trường phái này là A.Ellis (1913-1970), Sheldon, và Beck. Trong Công tác xã hội, nếu như nhận thức là cách nhìn nhậ của một người về một vấn đề nào đó theo hai chiều hướng tích cực hoăc tiêu cực thì trị liệu nhận thức là phương pháp tác động vào thân chủ làm thay đổi nhận thức tiêu cực của họ . Theo các nhà hành vi thì hành vi của con người là một cách trả lời, ứng xử với một tác nhân kích thích tương ứng. Nhưng trên thực tế thì hành vi của con 10 người còn phức tạp hơn nhiều chứ không phải đơn thuần là do những tác nhân kích thích. Những nhà tâm lý học cho rằng con người có suy nghĩ rất phức tạp không thể quan sát và những suy nghĩ này có ảnh hưởng vô cùng lớn đến hành vi của các nhân. Họ cho rằng nhận thức sai lầm là tâm điểm của những hành vi sai lầm. Muốn thay đổi hành vi sai lầm, phải tạo ra một mô hình nhận thức mới hợp lí. Trị liệu nhận thức là một trường phái tư tưởng với chủ đề chính tập trung xung quanh khái niệm tư duy. Sự tư duy của cá nhân được định hình bởi xã hội và hoàn cảnh trực tiếp của người ấy. Trên chiều cạnh này tư duy quyết định cảm xúc lẫn hành vi. Như vậy việc thực hiện chức năng xã hội của một cá nhân bị khiếm khuyết thì có nghĩa là tư duy của người ấy không hoàn hảo. Chính vì vậy, hành vi của con người thay đổi thì phương thức tư duy cũng phải thay đổi theo. Do vậy, muốn biến đổi hành vi bất thường, phải tạo ra mô hình nhận thức mới hợp lí. Như vậy vận dụng lí thuyết này vào hoạt động xóa đói giảm nghèo NVXH phải giúp cho mọi người trong cộng đồng nhận ra những suy nghĩ không phù hợp của họ sau đó đưa ra những liệu pháp nhằm tạo ra những mô hình nhận thức mới tích cực hơn từ đó sẽ tạo những hành vi đúng đắn tương ứng Vận dụng lý thuyết nhận thức hành vi vào trong hoạt động xóa đói giảm nghèo: một trong những yếu tố quyết định đến việc giải quyết vấn đề nghèo đói đó chính là yếu tố con người. Bản thân đối tượng có muốn thoát nghèo hay không, hay là họ an phận ở lại cùng với nghèo đói để nhận được những nguồn lực hỗ trợ từ các chính sách của nhà nước. Có rất nhiều những dự án của nhà nước, các tổ chức phi chính phủ nhằm hướng tới sự thoát nghèo cho người dân như các dự án về hỗ trợ về vốn, tín dụng. Nhưng trên thực tế thì hiều quả mang lại của các dự án này vô cùng hạn chế và cái nghèo vẫn dai dẳng bám theo người dân. Nguyên nhân chính là đối tượng thụ hưởng không biết sử dụng nguồn vốn đã 11 được vay ưu đãi vào trong hoạt động sản xuất, phát triển sinh kế. Hình thức sử dụng vốn phổ biến của họ là vay để ăn dần hoặc cho người khác vay lại để hưởng chênh lệch phần trăm lãi suất, thậm chí vay vốn rồi cất vốn đi đến kì hạn mang đi trả. Xét về mặt lý thuyết hoạt động trợ giúp của công tác xã hội là cho “cần câu” chứ không cho “cá”. Trên thực tế hoạt động trợ giúp như vậy chưa mang lại kết quả cao và triệt để. Bởi vì họ có “cần câu” rồi nhưng họ không biết “câu” như thế nào. Do vậy, ngoài việc cho “cần câu” NVCTXH còn phải dạy cho họ cách “câu”, cùng với sự nỗ lực, lòng kiên nhẫn để chờ đợi thành quả. Đối với người dân tộc thiểu số (tại địa bàn nghiên cứu) việc thay đổi nhận thức cho họ là vô cùng quan trọng và tương đối khó khăn. Vì từ khi họ sinh ra sống trong một cuộc sống khó khăn, nghèo khó, và họ đã quen với cuộc sống như vậy, đó là điều bình sinh đối với họ. Do đó, muốn thoát nghèo hiệu quả, bền vững thì NVXH phải tạo cho họ một ý chí, niềm tin thoát nghèo, vượt qua hoàn cảnh hiện tại. Chỉ khi nào họ nhận thức thực sự sâu sắc về những thiệt thòi của mình do nghèo đói mang lại khi đó họ mới nỗ lực, tự thân, tìm kiếm nguồn lực để thoát nghèo, cộng với sự giúp đỡ từ bên ngoài (NVXH, các chính sách xã hội) hỗ trợ thì khi đó hoạt động xóa đói giảm nghèo cho người dân mới mang lại hiểu quả cao, bền vững. 1.1.4 Lý thuyết nhu cầu Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia). Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow được xem là cha đẻ của lý thuyết nhu cầu. Theo Maslow, nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự 12 bậc thang từ thấp tới cao - từ các nhu cầu thiết yếu nhất tới các nhu cầu thứ yếu, cao hơn. Sự thoả mãn nhu cầu của con người cũng theo các bậc thang đó. Khi con người thoả mãn được nhu cầu cấp thấp rồi thì sẽ tiến tới thoả mãn các nhu cầu cấp cao hơn: Nhu cầu cơ bản:bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người đây là các nhu cầu phục vụ cho mục đích sinh tồn như: ăn, uống, ngủ, không khí để thở, tình dục,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn. Nhu cầu về an toàn: Nhu cầu an toàn này thể hiện ở mặt thể chất và tinh thần. Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gây hấn, đe dọa…. Nhu cầu về xã hội:Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương. Nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. Nhu cầu tôn trọng:Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng vì nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho con người có suy nghĩ tích cực hơn, cảm thấy tự tin hơn. Nhu cầu được phát triển:. Nhu cầu của một cá nhân mong muốn được là chính mình, được làm những cái mà mình muốn. Nói một cách đơn giản hơn, 13 đây chính là nhu cầu được phát huy hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để đạt được các thành quả trong xã hội. Theo A.Maslow ông cho rằng việc thỏa mãn các nhu cầu ở bậc thấp (bậc cơ bản) thì cá nhân mới nảy sinh các nhu cầu ở bậc cao hơn. Do đó, trong hoạt động xóa đói giảm nghèo NVCTXH phải hết sức lưu ý rằng việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản là rất cần thiết, nó tạo tiền đề để phát triển nhu cầu cao hơn. Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu chúng tôi tìm hiểu nhu cầu của những hộ nghèo tại địa bàn nghiên cứu theo năm bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem xét các nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào chưa được đảm bảo, đảm bảo ở mức độ nào, có ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay theo trình tự các bậc nhu cầu của nhà tâm lý học A.Maslow. Trong các hoạt động công tác xã hội với nghèo NVCTXH luôn phải lấy thuyết nhu cầu của A.Maslow làm kim chỉ nam cho các hoạt động của mình. Phải hướng các hoạt động của mình vào các nhu cầu của người nghèo và đáp ứng được các nhu cầu của họ. Chỉ khi nào người nghèo thấy được lợi ích, thấy được các nhu cầu, mong muốn của bản thân được đáp ứng, được đảm bảo thì khi đó họ mới chủ động tham gia vào tiến trình hoạt động thay đổi. Khi nhu cầu cấp thấp được đáp ứng sẽ nảy sinh nhu cầu cấp cao hơn, chủ thể sẽ tiến hành hành động để đáp ứng các nhu cầu của bản thân. Đó là động lực cho phát triển. 1.1.5 Tiếp cận dựa trên quyền trẻ em Tiếp cận dựa trên quyền của trẻ là cách tiếp cận cung cấp các dịch vụ đảm bảo trẻ em được thực hiện đầy đủ các nhóm quyền của trẻ em. Trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì quyền trẻ em bao gồm 10 nhóm quyền cơ bản: Quyền được khai sinh và có quốc tịch; Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; Quyền được sống chung với cha mẹ; Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, than thể, 14 nhân phẩm và danh dự; quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập; quyền được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịc; Quyền được phát triển năng khiếu; Quyền được có tài sản; Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia các hoạt động xã hội. Theo công ước Liên hợp quốc thì quyền trẻ em được chia làm 4 nhóm quyền cơ bản là: Quyền được sinh tồn; quyền được bảo vệ; quyền được phát triển; quyền được tham gia. Việc tiếp cận dựa trên quyền sẽ giúp đảm bảo quyền của trẻ em nhóm yếu thế được quan tâm thực thi nhiều hơn. Như vậy sẻ mang lại sự công bằng trong xã hội. Từ đó sẽ góp phần vào việc tang cường sức mạnh cho các tổ chức địa phương, cộng đồng và các nhóm. Đây là nền tảng cho sự phát triển bền vững.[28, tr.138] 1.2 Một số khái niệm cơ bản * Khái niệm trẻ khuyết tật Theo Công ước về quyền của người khuyết tật được định nghĩa như sau: “ Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác.” Ở một số quốc gia, người khuyết tật được hiểu là người: “mất khả năng về nhìn, nghe, nói hoặc về thể chất, mất khả năng về trí não, rối loạn tâm thần, khuyết tật bị đa tật hoặc các dạng khuyết tật khác”. Ở Mỹ định nghĩa người khuyết tật “là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống”. Ở Việt Nam, theo pháp lệnh về người tàn tật ban hành năm 1998 khái niệm về người tàn tật như sau: “Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện 15 dưới những dạng tàn tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn.”[15, tr.2] Luật người khuyết tật được ban hành năm 2010 thay thế cho Pháp lệnh về người khuyết tật 1998, theo đó Luật chính thức sử dụng khái niệm “người tàn tật” cho phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề khuyết tật. Như vậy, theo quy định của Luật người khuyết tật hiện hành thì “người khuyết tật được hiểu là người người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.”[16] Tóm lại, có thể thấy mỗi quốc gia đều có cách định nghĩa khác nhau về người khuyết tật, nhưng nhìn chung thì cũng có những điểm chung nhất định về cách nhìn nhận đối với các đối tượng này. Người khuyết tật có thể do bẩm sinh hoặc tai nạn, làm cho họ bị khiếm khuyết đi một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hay suy giảm chức năng nào đó và làm cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Do đó, Luật người khuyết tật đã đưa ra khái niệm về người khuyết tật dựa trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh về người tàn tật và thể hiện quan điểm tiếp cận về mặt xã hội theo tinh thần của công ước về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết. Dựa trên khái niệm về người khuyết tật ta có thể khái niệm về trẻ khuyết tật như sau: Trẻ khuyết tật là những đứa trẻ bị tổn thương về cơ thể hoặc rối loạn các chức năng nhất định gây nên những khó khăn đặc thù trong các hoạt động học tập, vui chơi và lao động. Trẻ có thể bị khuyết tật ở những bộ phận và chức năng khác nhau, với mức độ khác nhau rất đa dạng. Tuy nhiên có thể tạm chia ra thành 2 nhóm 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan