Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Gia đình của người sán dìu vùng chân núi tam đảo...

Tài liệu Gia đình của người sán dìu vùng chân núi tam đảo

.PDF
198
513
122

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG PHƯƠNG MAI GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI SÁN DÌU VÙNG CHÂN NÚI TAM ĐẢO LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI - 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG PHƯƠNG MAI GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI SÁN DÌU VÙNG CHÂN NÚI TAM ĐẢO Chuyên ngành: Nhân học Mã số : 62.31.03.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, bản luận án tiến sĩ: Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trong luận án là trung thực. Các trích dẫn trong công trình đầy đủ và chính xác. Nếu có gì sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Nghiên cứu sinh Hoàng Phương Mai LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án Tiến sĩ với đề tài “Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo”, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ to lớn, quý báu từ tập thể các thầy giáo, cô giáo giảng viên Khoa Dân tộc học thuộc Học viện Khoa học xã hội; lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Viện Dân tộc học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; sự giúp đỡ nhiệt tình của người dân các thôn thuộc xã Ninh Lai và xã Đạo Trù, UBND xã Ninh Lai, UBND huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; UNBD xã Đạo Trù, UBND huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận án này. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn thầy PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học để luận án được hoàn thiện. Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ sự kính trọng và biết ơn của mình đến thầy. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đã hết lòng ủng hộ, động viên giúp tôi thêm nghị lực phấn đấu và tạo những điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành tốt luận án Tiến sĩ của mình. Hà Nội, tháng năm 2016 Tác giả luận án Hoàng Phương Mai MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………….. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án……………………. 2 3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu…………………………. 2 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án……… 3 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án…………………………… 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của của luận án…………….…………. 6 7. Bố cục của luận án………………………………………………….. 6 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu…………………………………. 7 1.2. Cơ sở lý thuyết …………………………..…………………….. 18 1.3. Khái quát về người Sán Dìu và địa bàn nghiên cứu…………..…. 26 Tiểu kết chương 1……………………………………………………... 36 Chương 2: CẤU TRÚC, QUY MÔ VÀ CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH 2.1. Sự hình thành gia đình của người Sán Dìu …………………… 37 2.2. Quan niệm của người Sán Dìu về gia đình……………………. 39 2.3. Cơ sở cho việc phân loại gia đình người Sán Dìu…………….. 39 2.4. Những tiêu chí phân loại gia đình………………………………... 41 2.5. Cấu trúc của gia đình……………………………………………... 42 2.6. Quy mô gia đình………………………………………………….. 46 2.7. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình…………………. 48 2.8. Các chức năng cơ bản của gia đình………………………………. 57 2.9. Một vài so sánh với người Hoa, người Dao…………………… 68 Tiểu kết chương 2……………………………………………………... 71 Chương 3: CÁC NGHI LỄ TRONG GIA ĐÌNH 3.1. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên và thần linh…………………………... 72 3.2. Nghi lễ sinh đẻ và nuôi con……………………………………. 76 3.3. Nghi lễ cưới xin…………………………………………………. 80 3.4. Nghi lễ tang ma......................................................................... 85 3.5. Một vài so sánh với người Hoa, người Dao 94 Tiểu kết chương 3……………………………………………………... 97 Chương 4: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH SÁN DÌU HIỆN NAY 4.1. Biến đổi về cấu trúc, quy mô, mối quan hệ trong gia đình người Sán Dìu hiện nay……………………………………………………… 98 4.2. Biến đổi các chức năng của gia đình người Sán Dìu…………….. 101 4.3. Biến đổi về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình…….. 111 4.4. Biến đổi trong nghi lễ gia đình…………………………………… 114 4.5. Nguyên nhân biến đổi của gia đình Sán Dìu …………………… 120 4.6. Một số khuynh hướng phát triển hiện nay của gia đình người Sán Dìu 127 Tiểu kết chương 4……………………………………………………... 130 Chương 5: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 5.1. Kết quả…………………………………………………………… 131 5.2. Bàn luận………………………………………………………….. 138 Tiểu kết chương 5……………………………………………………... 148 KẾT LUẬN…………………………………………………………... 149 CHÚ THÍCH…………………………………………………………. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 152 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN…………………………………….… TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………... 153 PHỤ LỤC…………………………………………………………….. 162 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Dân số, dân tộc xã Ninh Lai……………………………... 34 Bảng 1.2: Số hộ, số người xã Đạo Trù………………………………… 35 Bảng 3.1. So sánh nghi lễ cưới xin của người Sán Dìu với người Dao và người Hoa……………………………………………………………… 96 Bảng 4.1. Số lượng thành viên trong gia đình ở một số thôn ở Ninh Lai 98 Bảng 4.2. Hình thức thu xếp cuộc sống của cha mẹ khi về già………… 100 Bảng 4.3. Quan niệm về sinh con trai và con gái ở người Sán Dìu……. 101 Bảng 4.4. Cơ cấu ngành nghề của hộ gia đình thôn Đạo Trù Thượng, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo……………………………………………… 104 Bảng 4.5. Người mang lại thu nhập nhiều nhất cho gia đình………… 105 Bảng 4.6. Thu nhập trung bình của hộ gia đình thôn Đạo Trù Thượng, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo…………………………………………… 107 Bảng 4.7. Ai là người quyết định hôn nhân của lớp thanh niên hiện nay 112 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1. Cấu trúc gia đình hạt nhân đầy đủ………………………….. 43 Sơ đồ 2. Cấu trúc gia đình hạt nhân không đầy đủ…………………… 43 Sơ đồ 3. Cấu trúc gia đình hạt nhân mở rộng………………………… 44 Sơ đồ 4. Các thế hệ gia đình ông Lưu Kim Thanh ở thôn Hội Kế, xã Ninh Lai……………………………………………………………… 45 Sơ đồ 5 : Gia đình hạt nhân mở rộng………………………………… 99 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Sán Dìu có dân số 126.565 người - đứng thứ 17 trong bảng thống kê dân số ở Việt Nam [22, tr.46]. Người Sán Dìu cư trú tập trung ở vùng trung du các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Trong nhiều thập kỉ qua, đã có không ít các công trình nghiên cứu về dân tộc này. Tuy nhiên, chưa có một chuyên khảo dân tộc học nào nghiên cứu về truyền thống và biến đổi của gia đình dân tộc Sán Dìu ở một vùng cụ thể. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của gia đình và văn hóa gia đình; Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) đã ban hành Chỉ thị số 49 - CT/TW về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Chính vì vậy, gia đình đóng vai trò quan trọng trong xây dựng phát triển đất nước và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Người Sán Dìu với phong tục tập quán phong phú chứa đựng các giá trị nhân văn sâu sắc được hình thành và phát triển trong tiến trình lịch sử đã trở thành những đặc trưng văn hóa cần được lưu giữ. Gia đình là nơi bảo lưu một phần đáng kể các yếu tố văn hóa truyền thống, là nơi biểu hiện các chân giá trị về chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, tâm lý, mối quan hệ giữa con người với con người và con người với xã hội. Do đó, cần có nghiên cứu về gia đình của dân tộc Sán Dìu để tìm hiểu và luận giải một phần cụ thể về bản sắc, văn hóa của tộc người. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các yếu tố văn hóa nảy sinh trong điều kiện xã hội mới đã tác động nhiều chiều đến đời sống của người Sán Dìu, bao gồm cả những biến đổi tích cực và những biến đổi không mong muốn. Theo quan điểm hệ thống, mỗi thiết chế xã hội biến đổi sẽ dẫn đến những thiết chế xã hội khác như tổ chức làng bản, dòng họ… biến đổi theo. Gia đình và đặc biệt là gia đình các dân tộc thiểu số, phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay. 1 Nghiên cứu về gia đình các tộc người được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc. Bởi gia đình là một trong những thiết chế xã hội quan trọng, liên quan đến hoạt động của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng. Nghiên cứu gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ trong sự nghiên cứu các yếu tố xã hội của gia đình, giữ gìn và chuyển giao các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác mà là sự phát triển bền vững của cả thiết chế xã hội, vì ở thời đại nào văn hóa gia đình cũng là nền tảng cho văn hóa xã hội. Việc chỉ ra các đặc điểm xu hướng, nguyên nhân biến đổi gia đình ở người Sán Dìu là hết sức cần thiết để xây dựng hệ thống chính sách giúp cho gia đình của tộc người có thể thích ứng, tồn tại và phát triển trong giai đoạn xã hội hiện nay. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tôi lựa chọn đề tài: "Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo" làm đề tài luận án tiến sĩ. Qua nghiên cứu này, sẽ góp thêm tư liệu về gia đình người Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu, luận án chỉ ra những yếu tố tích cực và những mặt hạn chế của gia đình truyền thống, góp phần bảo tồn và phát huy những yếu tố tích cực của gia đình người Sán Dìu trong bối cảnh hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Nghiên cứu một cách có hệ thống về gia đình dân tộc Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo. Từ đó chỉ ra những đặc điểm, sự biến đổi của gia đình và khuynh hướng phát triển hiện nay của gia đình dân tộc Sán Dìu. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể - Trình bày có hệ thống về quy mô, cấu trúc, loại hình, chức năng, phong tục, nghi lễ truyền thống và biến đổi trong gia đình người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo. - Chỉ rõ những đặc điểm, khuynh hướng phát triển hiện nay của gia đình người Sán Dìu và lý giải nguyên nhân tác động đến những biến đổi đó. - Chỉ ra những yếu tố tích cực cần được lưu giữ và những mặt hạn chế cần phải khắc phục trong gia đình Sán Dìu hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là gia đình của người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo (được hiểu là cư dân sống dưới chân núi Tam Đảo). 2 Đề tài tập trung nghiên cứu về gia đình người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo truyền thống và những biến đổi cơ bản, nhất là từ sau công cuộc Đổi mới (1986) đồng thời nêu lên xu hướng phát triển của gia đình hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Phạm vi nội dung Luận án đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản về gia đình dân tộc Sán Dìu dưới góc độ nghiên cứu dân tộc học/nhân học như loại hình, cấu trúc, các mối quan hệ và chức năng của gia đình, các phong tục, nghi lễ gia đình truyền thống và những biến đổi. 3.2.2. Phạm vi thời gian Đề tài tập trung nghiên cứu về gia đình người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo truyền thống (trước công cuộc Đổi mới 1986) và những biến đổi cơ bản (sau công cuộc Đổi mới năm 1986 và đặc biệt là sau Nghị quyết Khoán 10 của Bộ Chính trị năm 1988), đồng thời nêu lên xu hướng phát triển của gia đình hiện nay. 3.2.3. Phạm vi không gian Luận án lựa chọn địa điểm nghiên cứu là hai xã thuộc hai tỉnh khác nhau, đó là xã Ninh Lai thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và xã Đạo Trù thuộc huyện Tam Đảo của tỉnh Vĩnh Phúc. Hai xã này đều nằm trong vùng chân núi Tam Đảo mang tính đặc thù của vùng chuyển tiếp giữa trung du và miền núi và cũng là nơi người Sán Dìu cư trú tập trung từ lâu đời, đồng thời còn lưu giữ nhiều yếu tố văn hóa truyền thống nhất là về phương diện gia đình. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án được trình bày và biện giải theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về vấn đề gia đình và hôn nhân, nhất là ý kiến của F.Ăng ghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước”. Trong đó F.Ăng ghen đã đề cập đến nguồn gốc, chức năng của gia đình và các loại hình gia đình trong lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn dựa trên những quan điểm của Đảng và Nhà nước trong các văn kiện có liên quan đến lĩnh vực gia đình ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án còn kế thừa những thành tựu nghiên cứu, lý luận và phương pháp luận của các nhà dân tộc học trên thế giới, đặc biệt các nhà dân tộc học Liên Xô (cũ) và các nhà dân tộc học Việt Nam. 3 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ đạo sử dụng trong luận án là điền dã Dân tộc học, để thu thập được thông tin đầy đủ, đa chiều, có giá trị và mang tính chân thực, chúng tôi đã vận dụng một số kỹ năng như sau: - Quan sát: Với mục đích hình dung được cảnh quan, môi trường cư trú, cách bố trí làng bản, lối sống sinh hoạt của mỗi thành viên trong gia đình người Sán Dìu và sự giao tiếp của họ với cộng đồng, giúp chúng tôi thu thập những thông tin ban đầu về đối tượng nghiên cứu để định hướng chính xác hơn những vấn đề mục tiêu nghiên cứu đề ra. Đồng thời khái quát được cơ bản nội dung nghiên cứu, trên cơ sở đó phần nào nhận biết và chọn lọc được các thông tin khác nhau hoặc đa chiều trong quá trình nghiên cứu thực địa. - Quan sát tham dự: Để trải nghiệm bối cảnh nghiên cứu thông qua các kinh nghiệm cá nhân trực tiếp tại thực địa, như quan sát tham dự tại các đám ma, đám cưới, hay các công việc lao động hàng ngày của các thành viên trong gia đình. Thông qua kĩ năng này chúng tôi có thể chứng kiến được các sự kiện văn hóa đang diễn ra một cách chân thực nhất, đồng thời thiết lập được mối quan hệ thân thiết với cộng đồng đối tượng nghiên cứu của mình, giúp cho những thông tin phục vụ cho nghiên cứu sát thực để có kết quả nghiên cứu gắn với thực tiễn. - Phỏng vấn sâu: Là kỹ năng quan trọng được sử dụng trong luận án để thu thập các thông tin làm nền tảng cơ bản. Với đề tài nghiên cứu gia đình, chúng tôi lựa chọn các đối tượng phỏng vấn sâu có sự đa dạng về nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi như: là những người có uy tín trong cộng đồng (già làng, trưởng bản, trưởng họ, thầy cúng) những người tham gia công tác chính quyền địa phương, tham gia công tác kế hoạch hóa gia đình, người làm công tác văn hóa xã hội, thanh niên, nam giới/phụ nữ lớn tuổi, nam giới/phụ nữ trung tuổi… Nội dung các cuộc phỏng vấn sâu này được chuẩn bị sẵn bằng một bộ câu hỏi phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài. - Điều tra theo bảng hỏi: Tiến hành điều tra theo bảng hỏi tại địa bàn nghiên cứu là hai xã Đạo Trù và Ninh Lai với số lượng 150 phiếu hỏi cho 150 hộ gia đình. Trong đó, điều tra 50 hộ trên tổng số 119 hộ người Sán Dìu của thôn Ninh Lai, xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và điều tra 100 hộ trên tổng số 190 hộ gia đình người Sán Dìu của thôn Đạo Trù thượng, xã Đạo Trù, tỉnh Vĩnh Phúc, nhằm thu thập thông tin định lượng về quy mô, phân công lao động trong gia đình; 4 tuổi kết hôn, người quyết định hôn nhân, tiêu chuẩn chọn bạn đời, cư trú sau hôn nhân, kiêng kị trong gia đình, phân công lao động trong gia đình, các mối quan hệ trong gia đình, kinh tế hộ gia đình, biến đổi của nghi lễ gia đình... Sau đó tiến hành phân tích và xử lý số liệu điều tra bảng hỏi bằng phần mềm SPSS. Việc lựa chọn điều tra phiếu tập trung ở hai thôn Ninh Lai và Đạo Trù Thượng vì ở đây người Sán Dìu đến khai hoang lập làng đầu tiên sau đó mới phát triển sang các thôn khác của các huyện như ngày nay. Hơn nữa, người Sán Dìu ở đây còn lưu giữ nhiều yếu tố văn hóa truyền thống của gia đình. Đồng thời thôn Ninh Lai là trung tâm của xã Ninh Lai, thôn Đạo Trù Thượng cũng là trung tâm phát triển nhất của xã Đạo Trù hiện nay, nên việc lựa chọn mẫu để đánh giá sự biến đổi của gia đình Sán Dìu trước ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa là phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận án. Số lượng mẫu tuy không lớn (chỉ chiếm 50% tổng số hộ của hai thôn Ninh Lai và Đạo Trù Thượng), nhưng luận án lựa chọn mẫu điều tra gồm có cả gia đình nhiều thế hệ, gia đình hạt nhân, gia đình hạt nhân mở rộng, gia đình khuyết thiếu; hộ có trình độ học vấn cao, hộ có trình độ học vấn chưa cao; hộ làm nông nghiệp, hộ làm viên chức nhà nước, hộ kinh doanh và hộ chỉ đi làm thuê. Đối tượng trả lời phiếu điều tra là đại diện của hộ gia đình, có sự am hiểu cơ bản về gia đình mình cũng như đời sống nói chung của người Sán Dìu tại khu vưc họ sinh sống. Việc lựa chọn mẫu là ngẫu nhiên, tuy nhiên cũng đưa ra những tiêu chí như trên để việc điều tra phiếu được mang tính đại diện và phản ánh khách quan nhất về gia đình của người Sán Dìu tại địa bàn nghiên cứu chính nói riêng và vùng chân núi Tam Đảo nói chung. Bên cạnh đó, luận án còn tham khảo ý kiến của các chuyên gia nhằm bổ sung các kiến thức còn thiếu sót trong quá trình thực hiện luận án. Để hoàn thiện, luận án còn tiếp cận nghiên cứu theo hướng liên ngành dân tộc học với xã hội học, tâm lý học,… với mong muốn có cái nhìn đa chiều và toàn diện hơn về chủ đề nghiên cứu. Ngoài ra, luận án còn thu thập, kế thừa và phân tích các tài liệu thống kê, tài liệu thứ cấp liên quan đến đề tài ở trung ương và địa phương. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về gia đình truyền thống và những biến đổi của người Sán Dìu ở một địa phương cụ thể. 5 - Luận án chỉ rõ những biến đổi của gia đình người Sán Dìu, đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến biến đổi đó. - Trên cơ sở nguồn tư liệu điền dã dân tộc học về gia đình người Sán Dìu, luận án góp phần làm rõ vai trò của gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tộc người này tại địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. - Luận án đóng góp thêm cơ sở khoa học giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách, đề xuất chính sách cụ thể bảo tồn văn hóa dân tộc Sán Dìu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án đã xây dựng được hệ thống phân tích trong nghiên cứu về gia đình đối với người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo. Bên cạnh việc xác định các lý thuyết cơ bản trong áp dụng phân tích như lý thuyết biến đổi văn hóa, lý thuyết chức năng, nhằm để làm nổi bật lên những luận điểm nghiên cứu về gia đình và sự biến đổi của gia đình trong giai đoạn hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án góp phần làm rõ vai trò của gia đình đối với sự phát triển kinh tế xã hội tộc người này tại địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. - Cung cấp các luận cứ khoa học về gia đình của người Sán Dìu làm cơ sở cho việc hoạch định những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước góp phần bảo tồn và phát huy những yếu tố tích cực của gia đình người Sán Dìu trong phát triển bền vững kinh tế, văn hóa, xã hội. 7. Cơ cấu của luận án Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội dung chính được trình bày trong 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu Chương 2: Cấu trúc, quy mô và các chức năng cơ bản của gia đình Chương 3: Các nghi lễ trong gia đình Chương 4: Những biến đổi của gia đình Sán Dìu hiện nay Chương 5: Kết quả và bàn luận 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Nghiên cứu gia đình các tộc người trên thế giới Nghiên cứu về gia đình trên thế giới đã có một quá trình lâu dài với sự quan tâm của nhiều học giả nổi tiếng, song nghiên cứu về gia đình dưới góc độ dân tộc học/nhân học chỉ thực sự phát triển từ thế kỉ XIX. Một nghiên cứu mang ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành hệ thống lý thuyết về gia đình là tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước (1884) của F. Engels. Đây là nghiên cứu dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan để phân tích lịch sử nhân loại trong các giai đoạn phát triển, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành xã hội có giai cấp. F. Engels cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội, giải thích sự phát triển các mối quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau; trong đó đề cập đến nguồn gốc, cơ cấu chức năng của gia đình, các thiết chế hôn nhân và sự tiến hoá của gia đình trong lịch sử [5]. Đây là tác phẩm có tính hệ thống và vạch ra những mối quan hệ bên trong gia đình đối với cấu trúc bên ngoài và toàn xã hội. Vào những thập niên 20 và 30 của thế kỷ XX, một số nhà nhân học Mỹ bắt đầu quan tâm tới việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các cá nhân và văn hóa, nghiên cứu mối liên hệ giữa việc nuôi dạy trẻ và sự hình thành tính cách ở các nền văn hóa khác nhau, trong đó có mối liên hệ với vai trò của gia đình trong sự hình thành tâm lý của trẻ em là một khía cạnh nổi bật. Đại diện cho xu hướng này là Margaret Mead (1901-1978), đặt dấu ấn đầu tiên trong lĩnh vực nghiên cứu tính cách và văn hóa. Năm 1928, bà công bố nghiên cứu Tuổi dậy thì ở Samoa (Coming of Age in Samoa), nói lên quan điểm của gia đình và đời sống tình dục tự do là nguyên nhân cho sự khác biệt tâm lý ở độ tuổi dậy thì của giới trẻ ở Mỹ và Samoa. Margaret Mead đi đến kết luận về vai trò từ phía gia đình và mô hình văn hóa của gia đình tác động đến tâm lý trẻ vị thành niên ở Mỹ nhiều hơn là các yếu tố sinh học, quan điểm này còn có giá trị phổ biến đến ngày nay [113]. Margaret Mead với cách tiếp cận liên, đa ngành và vận dụng lý thuyết chức năng để phân tích các hành vi của đối tượng 7 nghiên cứu và giải thích về cơ cấu và chức năng của hành vi này trong hệ thống xã hội. Đây là cách tiếp cận hợp lý cho nghiên cứu dân tộc học/nhân học về gia đình tộc người mà luận án có thể vận dụng, kết quả nghiên cứu không chỉ thể hiện đặc trưng của đối tượng nghiên cứu mà còn nêu lên mối quan hệ giữa cá nhân và nền văn hóa. Đóng góp quan trọng về phương pháp luận nghiên cứu gia đình trên thế giới nói chung và ở Liên Xô cũ nói riêng, có thể kể đến M.O.Koxven với cuốn Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy xuất bản năm 1953 (dịch tiếng Việt năm 1958). Trải qua nhiều thập kỷ tác phẩm vẫn được đón nhận và là đề tài thảo luận sôi nổi của giới khoa học. Đây là nghiên cứu có giá trị về quan điểm phương pháp luận được trình bày một cách khá logic, đề cập đến những vấn đề trọng yếu của văn hóa nguyên thủy như mầm mống của văn hóa; sự phát triển của kỹ thuật - kinh tế - xã hội; văn hóa tinh thần; sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy; sự phát sinh xã hội có giai cấp sớm nhất và mô hình gia đình trong xã hội… Tiếp đó có thể kể đến O.A.Sukhaneva với các nghiên cứu: Phong tục tập quán trong hôn nhân và đám cưới tại làng Tadzhiks ở Shakhristan, Gia đình Hồi giáo Uzbekistane (1960), Gia đình và gia đình các dân tộc Trung Á, Nghi lễ kết hôn truyền thống của các dân tộc Trung Á (1978). Bên cạnh đó là các tác giả Bromley, Ju.V. và Kaszuba, M.S. với cuốn Hôn nhân và gia đình các dân tộc Nam Tư (1982). Những tác phẩm của các nhà khoa học của Liên Xô trước đây vừa có tính khái quát, vừa đưa ra được những trường hợp cụ thể để chứng minh cho các giả thiết khoa học. Bằng cách tiếp cận lấy chủ thể văn hóa là đối tượng nghiên cứu, các công trình trên đây của các nhà khoa học Liên Xô cũng đánh dấu cho xu hướng nghiên cứu so sánh về gia đình giữa các nước, các lục địa, các tộc người và các nền văn hóa khác nhau. Nghiên cứu về Đông Nam Á, Georges Condominas với L’Espace social. À propos de l’Asie du Sud-Est (Không gian xã hội vùng Đông Nam Á) đã thể hiện quan điểm sắc bén cả về lý thuyết và thực địa khi nghiên cứu về các mô hình xã hội vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Từ tư liệu thu thập được ở làng Sar Luk của người Mnông Gar, Condominas không chỉ nêu lên định nghĩa về không gian xã hội theo cách tiếp cận nhân học mà còn làm nổi bật mối quan hệ họ hàng và xóm giềng của cộng đồng tộc người này. Liên quan trực tiếp đến nghiên cứu gia đình là phần viết về Điều cấm kị đối với anh (chị) của chồng (vợ) [18, tr. 369 - 375] và sự giải thích các thuật ngữ dùng trong quan hệ gia đình, họ hàng của người Mnông Gar 8 [18, tr 364 - 368]. Cách tiếp cận chủ thể văn hóa và liên đa ngành của nghiên cứu này đã đem lại kết quả nghiên cứu thể hiện tính hệ thống đặc trưng của không gian xã hội ở một tộc người cụ thể. Vì lẽ đó, công trình đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở thành kinh điển cho giới nghiên cứu nhân học xã hội. Những năm 1990 của thế kỉ XX, các nhà nhân học phương tây có xu hướng nghiên cứu gia đình trong bối cảnh toàn cầu hóa, tiêu biểu là Clark W.Soransen với bài viết trong Asia’s Cultural Mosaic - An Anthropological Introduction, (Bức khảm văn hoá Châu Á - Tiếp cận nhân học) đã đề cập đến gia đình các cư dân châu Á trong đó có Việt Nam, đặc biệt tác giả đã chú ý phân tích mô hình làng xã và cơ cấu của gia đình truyền thống và sự thích ứng của tổ chức xã hội làng xã cũng như gia đình trong xã hội đang biến đổi [30]. Robert Pakin với Kinship: An introduction to basic concepts (Dòng họ: Giới thiệu những khái niệm cơ bản). Mặc dù chủ đề nghiên cứu về gia đình nhưng cuốn sách chưa đi sâu vào lý thuyết nghiên cứu gia đình mà chủ yếu đề cập tới một số khái niệm về dòng họ và giải thích các khía cạnh khác nhau của lý thuyết về dòng họ qua một số dẫn chứng dân tộc học. Sách gồm 2 phần chính. Phần I: Các khái niệm cơ bản (dòng dõi, gia đình, họ tộc...). Phần II: Lý thuyết về dòng họ, trong đó có giải thích những ý nghĩa của dòng họ trong nhân học; lý thuyết dòng họ và một số dẫn chứng dân tộc học [117]. Thông qua hướng tiếp cận liên ngành nhân học - xã hội học và vận dụng chủ yếu lý thuyết biến đổi văn hóa của các nghiên cứu này giúp luận án lựa chọn cách tiếp cận phù hợp khi nghiên cứu gia đình trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời nhận thức được sự khách quan của các nhà nghiên cứu nước ngoài nhìn nhận về mô hình gia đình của Việt Nam nói chung trước khi nghiên cứu sâu sắc hơn về gia đình Sán Dìu là đối tượng nghiên cứu chính của luận án. Một trong những tiếp cận mang tính ứng dụng và hiện đại trong nghiên cứu về gia đình đó là tác phẩm Nhân học - một quan điểm về tình trạng nhân sinh [29], của Emily A. Schultz và Robert H.Lavenda, đã đưa ra những vấn đề cơ bản của nghiên cứu nhân học, trong đó luận án đặc biệt quan tâm đến nghiên cứu gia đình và cách phân loại gia đình, thể hiện ở Chương 18 - Thân tộc và Chương 19 - Hôn nhân và gia đình. Với cách vận dụng lý thuyết cấu trúc, chức năng trong nghiên cứu và phân tích vấn đề gia đình được nhìn nhận sâu sắc từ góc độ thực tế với mô hình cấu trúc có tính đại diện. Hệ thống thân tộc được được đặt tên theo các xã hội đại biểu cho mô hình gốc của từng loại hình: Hawai, Eskimo, Iroquois, Crow, Omaha và 9 Xudang. Bên cạnh đó, Emily A. Schultz và Robert H.Lavenda cũng đưa ra những quan điểm về cấu trúc của gia đình, với cách phân loại thành: gia đình hạt nhân, gia đình hạt nhân mở rộng (cha mẹ sống với con cái đã kết hôn) và gia đình liên hợp những anh em (chị em) cùng gia đình của họ chung sống [29, tr. 323-327]. Đây là những quan điểm nghiên cứu có giá trị giúp luận án tham khảo đưa ra các định nghĩa về gia đình và phân loại gia đình một cách hợp lý khi nghiên cứu gia đình người Sán Dìu. Sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến T. N. Madan với Family and Kinship: A study of the Pandits of rural Kashmir, đề cập đến gia đình và dòng họ Pandits thuộc vùng nông thôn Kasmia dưới góc độ nhân học xã hội. Sách gồm các nội dung như dòng họ Pandits ở Kasmia (Lịch sử và tổ chức xã hội); nông trại và hộ gia đình; các khía cạnh kinh tế hộ gia đình; sự phân chia hộ gia đình; gia đình và chế độ phụ hệ [116]. Cùng theo hướng nghiên cứu này Martine Segalen Historical anthropology of the family (Lịch sử nhân loại học gia đình). Tác giả trình bày hướng nghiên cứu mới trong nghiên cứu gia đình qua các nguồn tư liệu nhân học xã hội và nhân học lịch sử, trong đó phân tích sâu: dòng họ và nhóm dòng họ, quan hệ dòng họ trong xã hội đô thị; hình thành các nhóm gia đình (cưới xin và ly dị trong xã hội đương thời); vai trò của gia đình và các hoạt động trong gia đình (vai trò của vợ chồng trong thế kỷ XIX; nhóm gia đình và vai trò kinh tế; gia đình và xã hội) [114]. Nhìn chung, các nhà khoa học phương Tây và Liên Xô cũ đã đưa ra những luận điểm lý thuyết làm nền tảng cho những nghiên cứu sau này của nhân học gia đình và xã hội học về gia đình nói chung và làm cơ sở nền tảng để luận án nghiên cứu về gia đình Sán Dìu dưới góc độ nhân học, trong đó thể hiện rõ khung lý thuyết về gia đình, quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình, các đặc điểm của gia đình, xu hướng vận động và phát triển của gia đình, biến đổi của gia đình trong điều kiện mới… Hiện nay, những nghiên cứu về gia đình ngày càng được hoàn thiện từ nhiều khía cạnh khác nhau nhờ các phương pháp nghiên cứu thu thập tư liệu hiện đại cả về định lượng và định tính. Song rất cần những nghiên cứu vừa có tính hệ thống lý thuyết, vừa vận dụng thực tế phù hợp để nghiên cứu về nhân học gia đình được toàn diện hơn, minh chứng một cách sâu sắc hơn để khái quát hóa từ lý thuyết đến thực tế. 10 1.1.2. Nghiên cứu gia đình các tộc người ở Việt Nam Nghiên cứu về gia đình các tộc người ở Việt Nam từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều học giả. Trước tiên phải kể đến cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) năm 1978, của Viện Dân tộc học. Đây là công trình tập thể của các nhà dân tộc Việt Nam đề cập đến 36 tộc người cư trú ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong tác phẩm này, những mô tả về gia đình, hôn nhân, các mối quan hệ trong gia đình bước đầu được giới thiệu một cách khái quát. Sách được tái bản năm 2014 và bổ sung, cập nhật thêm các tư liệu mới dự kiến sẽ hoàn thiện trong năm 2016. Cuối những năm 1980 đầu 1990 của thế kỉ XX, nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các nhà dân tộc học đẩy mạnh việc nghiên cứu về các tộc người thiểu số. Rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu về gia đình các dân tộc thiểu số được công bố. Trước tiên, có thể kể đến các bài viết về lý thuyết trong nghiên cứu gia đình của Phạm Quang Hoan: Vài suy nghĩ về phương pháp phân loại gia đình [33];Gia đình, bản chất, cấu trúc, loại hình [34]; Gia đình các dân tộc thiểu số ở nước ta [35]; Vài suy nghĩ về hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta hiện nay [36]; các bài viết này đã chỉ rõ cấu trúc gia đình các tộc người thiểu số ở nước ta, như số cặp vợ chồng và số thế hệ, số lượng người trong gia đình, số con cái, cấp độ và tính chất quan hệ thân tộc hay thích tộc. Thực trạng tuổi kết hôn sớm và sự phổ biến của nội hôn tộc người. Qua phân tích, tác giả cho thấy biểu hiện của từng loại hình gia đình gắn chặt với các yếu tố kinh tế - xã hội là chủ yếu. Chế độ hôn nhân và gia đình của các dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng nặng nề của những quan niệm và thói quen hằn sâu trong nhận thức của tộc người. Đây là các bài viết có giá trị sâu sắc về mặt lý luận và lý thuyết trong nghiên cứu nhân học gia đình. Từ đây luận án đã vận dụng để xác định tiêu chi phân loại gia đình đồng thời làm cơ sở khi phân tích cấu trúc và loại hình gia đình. Tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về gia đình Phạm Quang Hoan và Nguyễn Ngọc Thanh với phần viết về gia đình công bố trong cuốn Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam [32], đã thể hiện những quan điểm khoa học từ thực địa đến khái quát hóa lý thuyết thành những cơ sở có giá trị trong nghiên cứu cơ bản về vấn đề gia đình. Cũng theo hướng nghiên cứu đó, Đặng Nghiêm Vạn có bài viết về Dòng họ, gia đình các dân tộc ít người trước sự phát triển hiện nay [89], tác giả cho thấy yếu tố dòng họ, gia đình chi phối văn hóa tộc người, nhưng cũng là nơi chịu nhiều ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế xã hội đang diễn ra. 11 Bên cạnh đó, Đỗ Thuý Bình với nghiên cứu Gia đình Hmông trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay (qua thực tế huyện Mộc Châu, Sơn La), bài viết nêu lên ba đặc điểm chính của gia đình Hmông; thứ nhất, sự tồn tại hai hình thái gia đình phổ biến: gia đình lớn và gia đình nhỏ; thứ hai, thanh niên Hmông thường xây dựng gia đình sớm làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của lớp trẻ và góp phần làm tăng dân số; thứ ba, phụ nữ Hmông quá vất vả trong công việc sản xuất và chăm lo gia đình, do đó họ không còn thời gian để nâng cao trình độ học thức. Đó là mặt cản trở trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tộc người [13]. Với phương pháp dân tộc học và xã hội tộc người, Đỗ Thúy Bình tiếp tục giới thiệu về lối sống, phong tục, tập quán trong gia đình trong sách: Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam (1994). Cuốn sách đã phản ánh những nét đặc trưng về cấu trúc, loại hình gia đình, những nghi lễ liên quan và tình trạng hôn nhân của các tộc người này [13]. Luận án tiến sĩ Dân tộc học của Vũ Đình Lợi về Gia đình và hôn nhân các dân tộc Malayo - Polynexia Trường Sơn Tây - Tây Nguyên (1996), đã phác họa diện mạo gia đình và hôn nhân của tộc người mẫu hệ và chỉ ra những nguyên nhân ảnh hưởng tới việc duy trì các yếu tố cấu thành gia đình một cách tương đối hệ thống [57]. Những nghiên cứu trên với cách tiếp cận chủ thể văn hóa, liên ngành dân tộc học với xã hội học đã thể hiện được những yếu tố đặc trưng của một số tộc người về hôn nhân, dòng họ và gia đình. Ngoài một số bài viết của Phạm Quang Hoan thì hầu hết các nghiên cứu chưa thể hiện được các khía cạnh lý thuyết về gia đình, có thể nói đó là khoảng trống trong nghiên cứu nhân học gia đình tính đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ XX. Lý thuyết về nhân học gia đình được chú trọng hơn khi tác giả Phan Hữu Dật công bố cuốn Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam (1998), đây là công trình gồm các bài nghiên cứu khoa học, đề cập nhiều lĩnh vực của dân tộc học Việt Nam như đường lối, chính sách, các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà nước ta, quá trình tộc người và quan hệ dân tộc ở nước ta, văn hóa các dân tộc nước ta, một số vấn đề về hôn nhân gia đình và xã hội nguyên thủy ở nước ta... Tác giả đã khái quát hóa lý thuyết về hôn nhân và gia đình, tạo cơ sở nền tảng cho nghiên cứu và giảng dạy bộ môn nhân học ở Việt Nam [23]. Cũng trong giai đoạn này, nghiên cứu chuyên sâu về các dân tộc cụ thể dưới các khía cạnh dân số cũng được các nhà dân tộc học quan tâm, tiêu biểu là công trình Dân số - Kế hoạch hoá gia đình người Hmông ở Hoà Bình [25] do Khổng 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất