Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam...

Tài liệu Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam

.PDF
255
451
71

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH ---------Y Z--------- LÊ MINH HÙNG HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 62.38.50.01 LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN HUY HỒNG PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT TP. HỒ CHÍ MINH - 2010 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án ii MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG........................ 8 1.1. Khái niệm, bản chất của hợp đồng ......................................................................................... 8 1.2. Khái niệm hiệu lực hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng ......................................... 16 1.3. Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng ...................................................................... 29 Chương 2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG .......................................... 39 2.1. Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực.................................................................. 39 2.2. Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có qui định ................................................................................................................................... 49 2.3. Một số bất cập trong các qui định pháp luật hiện hành về hình thức hợp đồng và định hướng hoàn thiện ......................................................................................................................... 66 Chương 3. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG ......................................... 85 3.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: khái niệm và qui định chung .................................... 85 3.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng ......................................................................................................................... 95 3.3. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng........ 116 Chương 4. HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG ............................................ 125 4.1. Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng: khái niệm và các qui định ........................................... 125 4.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng..................................................................................................................... 134 4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng ................................ 142 Chương 5. HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI ...................... 154 5.1. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: khái niệm và nội dung cơ bản...... 155 5.2. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) trong pháp luật các nước và trong tập quán thương mại quốc tế................................................................. 161 5.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp lý Việt Nam về điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi............................................................................................................... 171 5.4. Kiến nghị xây dựng và hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi............................................................................................... 186 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 198 NHỮNG CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC iii DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLDS 1995 Bộ luật Dân sự 1995 BLDS 2005 Bộ luật Dân sự 2005 DLB 1931 Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931 DLSG 1972 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 DLT 1936 - 1939 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939 HĐND Hội đồng nhân dân HĐTP Hội đồng thẩm phán HP 1992 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết 51/2001/QH10 LNO 2005 Luật Nhà ở 2005 LSHTT 2005 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 LTM 1997 Luật Thương mại 1997 LTM 2005 Luật Thương mại 2005 PECL PICC Principles of European Contract Law (Bộ Nguyên tắc Luật Hợp đồng châu Âu) Principles of International Commercial Contract (Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT) TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân tối cao UBND Ủy ban nhân dân 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Hợp đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội. Trong hầu hết các BLDS cổ điển, hợp đồng “chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế định khác” do “vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường…”[336, tr.900]. Xã hội càng phát triển, hợp đồng ngày càng được sử dụng như là một chuẩn mực ứng xử phổ biến giữa tư nhân với nhau, giữa tư nhân với cơ quan nhà nước, thậm chí là giữa xã hội với nhà nước (như quan niệm của Rousseau [229]) trong các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Ngày nay, chế định hợp đồng và hiệu lực hợp đồng trở thành một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam.Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu, phân tích về chế định hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề hiệu lực hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng nói ở đây chính là sự tạo lập ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên giao kết [249, tr.24], là hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối với các bên tham gia [299, tr. 1550]. Một hợp đồng được ký kết, nếu không có hiệu lực thì hợp đồng đó chưa thể tạo ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên, chưa ràng buộc các bên với nhau và pháp luật cũng chưa tác động đến cách xử sự của các bên theo qui định của hợp đồng đó. Vì vậy, trước khi giao kết hợp đồng, thậm chí ngay trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên tham gia hợp đồng phải biết về hợp đồng và những qui định của pháp luật liên quan đến tính hiệu lực của hợp đồng. Có thể nói, pháp luật về hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng càng hoàn thiện thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể ngày càng thuận lợi. Tuy vậy, xét trên nhiều phương diện, vấn đề hiệu lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý rất phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.Về mặt lý luận, các học giả vẫn chưa thống nhất được với nhau trong việc xác định nội dung của hiệu lực hợp đồng. Nhận xét về thực tế này, có luật gia cho rằng: “Dù luật gia nào cũng nói tới hiệu lực của hợp đồng, nhưng khi được hỏi nó là gì và nội dung ra sao thì phần lớn chỉ nói tới điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” [38, tr. 37]. 2 Trong thực tiễn lập pháp, vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được qui định khá cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Tuy nhiên, một số quy định về hiệu lực hợp đồng trong BLDS 2005 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho công tác giải quyết các tranh chấp có liên quan. Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hiện vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi trong giới luật học, đặc biệt là điều kiện hình thức và đường lối xử lý các hợp đồng vi phạm hình thức. Qui định về thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế và không khả thi. Những bất cập trên đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện. So với pháp luật hợp đồng của một quốc gia (Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga…), các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế (PICC, PECL), qui định trong luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế đòi hỏi cần phải có sự cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, theo hướng tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật hợp đồng của các nước và của các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế, làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng hoàn thiện và có sự tương đồng hơn so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm, dưới những góc độ khác nhau. 2.1. Ở nước ngoài: Có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập đến các vấn đề có liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, như: các sách chuyên khảo về Luật hợp đồng The Modern Law of Contract, 5th ed của Richard Stone [341], European Contract Law, Vol 1 – Formation, Validity and Content of Contract… của Hein Kotz & Axel Flessner [321], Elements of the Law of Contract của MacMillan C.A. & R. Stone [324], The Oxford Handbook of Comparative Law của M. Reinmann & R. Zimmermann [336], The German Law of Contract – A Comparative Treaties, 2nd ed. của Basil Markesinis & others [328], Bài báo Competing Approaches to Force Majeure and Hardship của Catherine Kessedjian [318]… 3 Các công trình này không nghiên cứu chuyên biệt về hiệu lực hợp đồng nói chung, và hiệu lực hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam, nói riêng. 2.2. Ở trong nước: Có một số Luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên quan đến hiệu lực hợp đồng, như đề tài “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm Hữu Nghị; “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ [247]; “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” của TS. Nguyễn Văn Cường [44]... Hiện còn có một số sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới một số khía cạnh pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, như quyển “Việt Nam Dân luật - luợc khảo” của GS. Vũ Văn Mẫu, [168], “Pháp luật về hợp đồng” của TS. Nguyễn Mạnh Bách [5], “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh [108], “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử” của GS.TS. Nguyễn Thị Mơ [174], “Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án”, của TS. Đỗ Văn Đại [54]. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí, như “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của PGS.TS. Đinh Văn Thanh [240], “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam” của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa [201], “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của TS. Phạm Công Lạc [115]… Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, nhưng các công trình kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật là không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam, trên cơ sở đối chiếu với qui định về hiệu lực hợp đồng của một số quốc gia trên thế giới và một số Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế nhằm góp phần làm rõ và làm phong 4 phú thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật quốc tế về hợp đồng; đồng thời đưa ra những kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các qui định còn bất cập, thiếu sót trong pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng theo xu hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hiệu lực của hợp đồng, như: làm rõ khái niệm và bản chất của vấn đề hiệu lực của hợp đồng, xây dựng khái niệm cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng; làm rõ cơ sở lý luận và các vấn đề pháp lý liên quan đến hiệu lực của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ảnh hưởng của nó đối với hiệu lực pháp luật của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. - Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam, bao gồm cả việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật liên quan và những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập của pháp luật về hiệu lực của hợp đồng, đánh giá thực trạng của qui định pháp luật về hiệu lực của hợp đồng, để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi, bổ khuyết trong các văn bản pháp luật về hợp đồng hiện hành của Việt Nam. - Trên cơ sở những bất cập đã được xác định để từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp pháp lý cụ thể trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết làm căn cứ cho việc đề xuất những kiến nghị và giải pháp cụ thể đó. 4. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung: Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề rất rộng. Mặt khác, vấn đề hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính nguyên lý chung của hợp đồng và được qui định chủ yếu trong BLDS, nên nội dung của Luận án tập trung phân tích các qui định trong phần chung về hợp đồng trong BLDS 2005. Điều này không có nghĩa Luận án chỉ nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực dân sự. Bởi lẽ, khái niệm hiệu lực hợp đồng được trình bày trong Luận án là khái niệm chung nhất cho mọi hợp đồng, bao gồm cả 5 hợp đồng dân sự, kinh doanh – thương mại và các hợp đồng khác. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn việc phân tích chỉ những vấn đề hiệu lực của hợp đồng theo nghĩa rộng (bao gồm chủ yếu là các hợp đồng kinh doanh – thương mại và hợp đồng dân sự), như qui định tại Điều 1 BLDS 2005,1 mà không phân tích các hợp đồng trong lĩnh vực lao động. Bên cạnh đó, luận án còn phân tích về các qui định có liên quan đến hiệu lực của hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản liên quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này. Ngoài ra, nội hàm của khái niệm hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác của pháp luật hợp đồng, như qui định về việc thực hiện hợp đồng, tạm hoãn thực hiện hợp đồng do có sự vi phạm hoặc dự đoán có sự vi phạm hợp đồng của bên kia, chấm dứt hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, giải thích hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, phân chia rủi ro, thông tin bất cân xứng… Tuy nhiên, đề tài cũng không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề khác có liên quan tới hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ đi sâu tìm hiểu các vấn đề về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, sự hạn chế hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. - Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, đề tài cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng (dân sự, kinh doanh – thương mại) trên thực tế, tại Tòa án và Trọng tài Thương mại Việt Nam, tính từ ngày BLDS 1995 được ban hành, đặc biệt là từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lê nin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến các qui định về hiệu lực của hợp đồng. Trong đó, chú trọng sử dụng phương pháp lô ghích pháp lý, phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa qui định về hiệu lực của hợp đồng trong phần chung BLDS với các qui định về hiệu lực của các hợp đồng dân sự thông dụng 1 Điều 1 BLDS 2005 qui định: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)…” 6 trong BLDS, và với các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong các luật chuyên ngành. Trong một số vấn đề cụ thể (thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi) cũng có so sánh với pháp luật hợp đồng của một số nước như Pháp, Đức, Nga, Nhật, Trung Quốc... Đề tài cũng sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia trong một vài vấn đề cụ thể, và phương pháp khảo sát đánh giá thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của các luật gia làm công tác thực tiễn pháp lý, qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong việc giải quyết tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng tại Việt Nam từ khi BLDS 1995 được ban hành đến nay. Cách nghiên cứu vấn đề theo “chiều dọc” nhằm làm rõ toàn bộ các nội dung pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng trong mối quan hệ biện chứng từ khi giao kết, xác lập, thực hiện hợp đồng đến khi sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, và từ những qui định mang tính nguyên tắc chung cho đến ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực hợp đồng. Mặt khác, trong mỗi vấn đề, tác giả cũng sử dụng cách thức truyền thống là đi từ nghiên cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, và cuối cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 6. Ý nghĩa khoa học Đề tài nghiên cứu có hệ thống về các vấn đề pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng, đưa ra những định hướng và đề xuất các kiến nghị cụ thể mà kết quả của nó sẽ là cơ sở khoa học cho việc xây và hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, góp phần tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống pháp luật nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung, vào trào lưu chung của thế giới. Góp phần làm hoàn thiện pháp luật hợp đồng cũng là góp phần vào việc bảo đảm cho các quan hệ hợp đồng ở Việt Nam được ổn định, an toàn pháp lý và tránh được các rủi ro cho các bên chủ thể, bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng, quyền được pháp luật bảo vệ khi tham gia các quan hệ hợp đồng và các quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng. Kết quả nghiên cứu đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hợp đồng trong các trường đào tạo về luật. 7 7. Những điểm mới của luận án Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận án có một số điểm mới sau đây: - Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề hiệu lực hợp đồng, phân tích và làm rõ nội hàm của các khái niệm hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng (chương 1) kiến nghị thay thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ trong qui định tại Điều 388 BLDS 2005 bằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (chương 1); - Hai là, xây dựng các khái niệm mới hiệu lực của hợp đồng (chương 1), cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng (chương 1), điều khoản điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi theo quan niệm pháp lý Việt Nam (trên cơ sở tiếp thu từ khái niệm hardship trong thực tiễn thương mại quốc tế), và làm rõ nội hàm của các khái niệm này (chương 5). Đây là những khái niệm mới chưa được đề cập trong các công trình khoa học pháp lý trước đây. - Ba là, trong mỗi chương, tác giả đều chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót của pháp luật hiện hành và của thực tiễn áp dụng, đồng thời dựa trên những kết quả đó để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các qui định tương ứng, như các kiến nghị: hoàn thiện các qui định về hình thức hợp đồng và hậu quả pháp lý khi hợp đồng vi phạm qui định bắt buộc về hình thức (chương 2) [Xem Phụ lục 12]; sửa đổi, bổ sung các qui định về thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực hợp đồng (chương 3) [Phụ lục 13]; bổ sung qui định về nguyên tắc và ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực ràng buộc hợp đồng, đồng thời hoàn thiện các giải pháp khắc phục do vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng (chương 4) [Phụ lục 14]. - Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về xu hướng cho phép điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và áp dụng pháp luật về nội dung tương ứng trong pháp luật của nước ngoài và của các bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng, từ đó kiến nghị Việt hóa khái niệm này thành khái niệm ‘sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi’, và đề xuất bổ sung vào trong BLDS 2005 căn cứ cho phép sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi với những tiêu chí, đường lối, giải pháp cụ thể (chương 5) [Phụ lục 15]. 8. Kết cấu của luận án Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội dung của Luận án gồm 5 chương. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG Vấn đề hiệu lực của hợp đồng bao gồm và liên quan tới nhiều nội dung phức tạp của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng… Để làm rõ nội dung và ý nghĩa pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tạo tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu tiếp các phần sau của luận án, chương này trình bày khái quát hiệu lực hợp đồng, gồm ba nội dung sau đây: khái niệm và bản chất của hợp đồng, khái niệm hiệu lực hợp đồng và cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. 1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG 1.1.1. Khái niệm hợp đồng Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội phải tham gia vào các giao dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và nhận lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên, dựa trên các nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tượng đó được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: ‘Hợp đồng’. Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Tuy vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay, là việc không dễ dàng. Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (contractus) được hình thành từ động từ ‘contrahere’ trong tiếng La-tinh, có nghĩa là ‘ràng buộc’, và xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV TCN [108, tr.29; 291, tr.1623]. Ban đầu, người La Mã cũng không có khái niệm chung ‘contractus’ mà sử dụng các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio), vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum)… Mãi đến thời của luật gia La-be-ôn (thế kỷ 1 sau CN), người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ ‘contractus’ trong luật, và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới thời Justinnian [61, tr.81]. Sau này, pháp luật các nước phương Tây đã kế thừa và phát triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ ‘hợp đồng’, mà trong tiếng Anh được viết là ‘contract’, và trong tiếng Pháp là ‘contrat’. 9 Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để chỉ về hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ ưng thuận… Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến ngày nay, thuật ngữ ‘văn tự’ hay ‘văn khế’[289, Điều 363 và 366], hay mua, bán, cho, cầm đã được sử dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật [167, tr.156; 286, tr.57- 8]. Sau này, thuật ngữ ‘khế ước’ mới được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925 (được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần thuộc Pháp, trong Bộ Dân luật Bắc 1931 (sau đây viết là DLB 1931), và trong Bộ Dân luật Trung 1936 – 1939 (DLT 1936 – 1939). Thuật ngữ ‘khế ước’ cũng được sử dụng trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Thuật ngữ “khế ước” cũng được sử dụng trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước 30/4/1975 (DLSG 1972) (Điều 653). Ngoài ra, trong DLB 1931, DLT 1936 - 1939 và DLSG 1972 còn sử dụng thuật ngữ ‘hiệp ước’, trong đó nhà làm luật xem ‘khế ước’ là một ‘hiệp ước’ [13, Điều 664; 91, Điều 680] hoặc đồng nhất giữa ‘khế ước’ với ‘hiệp ước’ [14, Điều 653]. Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ ‘khế ước’ hay ‘hiệp ước’ như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức năng”, “công cụ” [110, tr.40] như hợp đồng dân sự [15, Điều 388], hợp đồng lao động [23, Điều 26-43], hợp đồng thương mại [154, khoản 1 Điều 3]. Trong pháp luật của nhiều nước (như sẽ trình bày ở các trang 3 – 5 dưới đây) chỉ sử dụng thuật ngữ ‘hợp đồng’, chứ không sử dụng các thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động… như luật Việt Nam. Ngoài việc chọn ‘hợp đồng’ làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong các văn bản pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc làm rõ nội hàm của khái niệm ‘hợp đồng’. Về mặt học thuật và pháp lý, các luật gia cũng đã gặp nhiều khó khăn trong việc đưa ra một định nghĩa về hợp đồng. Đúng như một luật gia đã nhận xét, hợp đồng “dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ dàng nhưng thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó” [302, tr.14]. Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp luật cũng khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem hợp đồng như một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc pháp lý cơ bản của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel, 10 Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng được xem là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của người khác [339, tr.278]. Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp đồng như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên” [339, tr.283 - 84]. Có thể nói, thuật ngữ ‘hợp đồng’ là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm ‘hợp đồng’ theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, ‘hợp đồng’ là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội (chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện” [239, tr.19]. Trong phạm vi mục này, tác giả chỉ bàn về khái niệm hợp đồng hiểu theo nghĩa chủ quan (nghĩa hẹp). Theo đó, ngoài việc được ghi nhận chính thức trong các văn bản pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái niệm hợp đồng còn được nhiều học giả đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa sớm nhất về hợp đồng thường được nhiều học giả ngày nay nhắc đến và chấp nhận, là định nghĩa của học giả người Pháp - Pothier trong tác phẩm “Traité des obligations” năm 1761: “Hợp đồng là sự thỏa thuận theo đó hai hoặc chỉ một bên hứa, cam kết với người khác để chuyển giao một vật, để làm một công việc hoặc không làm một công việc” [321, tr.3]. Định nghĩa này không khác gì so với định nghĩa hợp đồng trong các BLDS hiện đại ngày 11 nay. BLDS Pháp cũng có định nghĩa hợp đồng giống gần như hoàn toàn định nghĩa của Pothier: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó” [19, Điều 1101]. Theo qui định tại Điều 1378 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Tuy có tính khái quát hơn, nhưng định nghĩa này cũng không hoàn toàn “thoát ly” khỏi định nghĩa tại Điều 1101 BLDS Pháp. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự “thỏa thuận” hay “thống nhất ý chí” giữa các bên. Tuy nhiên, nội dung định nghĩa chỉ thể hiện chức năng của hợp đồng mà chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc trưng thứ hai của hợp đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Định nghĩa “hợp đồng” cũng được qui định tại Điều 1-201 Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America, viết tắt là UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự ‘thỏa thuận’ của các bên…”. Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai (Restatement 2nd) có nêu một định nghĩa cụ thể hơn: Hợp đồng là “một hay một tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự cưỡng chế cuả pháp luật, hoặc nói cách khác pháp luật công nhận việc thực hiện những cam kết này là một nghĩa vụ”. Trong Bách Khoa toàn thư về Pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định” [306, tr.53]. Định nghĩa này thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái niệm hợp đồng và nội dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý của các quốc gia khác trên thế giới. Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) qui định: “Hợp đồng theo qui định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với qui định của các luật khác”. Tương tự, theo qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994): “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa hợp đồng trong Luật Hợp đồng Trung 12 quốc tương đối dài, vì bao hàm cả các nguyên tắc khái quát trong việc giao kết thực hiện hợp đồng mà người Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc “bình đẳng” giữa các bên tham gia hợp đồng. Định nghĩa “hợp đồng” trong BLDS của Nga cũng có nội dung tương tự nhưng cách diễn đạt khái quát và ngắn gọn hơn cả. A.L Makovsky và S.A. Khoklov đã bình luận về định nghĩa này như sau: “Hợp đồng được định nghĩa ngắn gọn mang tính truyền thống. Đó là sự thoả thuận của hai hay nhiều người về việc thiết lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420). Tuy nhiên, về cơ bản không có điểm gì mới trong định nghĩa này. Quan trọng trên hết, cơ sở của những thoả thuận như thế này không phải là ý chí cuả một bên, mà là ý chí của nhiều bên để ràng buộc các bên trong thực hiện nghĩa vụ…” [325, tr. xciv]. Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Có thể dễ dàng thấy rằng, qui định tại Điều 388 BLDS Việt Nam (2005) cũng gần giống như qui định của Luật hợp đồng Trung quốc (1999) và đặc biệt là hoàn toàn giống với qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994). Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có thể nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên. Đây là định nghĩa được hầu hết các luật gia đồng tình và chấp nhận, trừ ‘cái đuôi’ ‘dân sự’ kèm theo [86, tr.57; 108, tr.38-41]. 13 Tác giả cho rằng, cần bỏ từ ‘dân sự’ kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Bởi lẽ, thuật ngữ ‘dân sự’ vừa có thể được hiểu theo nghĩa rộng, nhưng cũng vừa có thể được hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, khái niệm ‘dân sự’ bao hàm cả các lĩnh vực khác, như lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình [15, Điều 1]. Còn theo nghĩa hẹp, khái niệm ‘dân sự’ chỉ được dùng trong các quan hệ dân sự (để phân biệt với các quan hệ pháp luật khác: hình sự, hành chính…). Trong pháp luật tố tụng, từ ‘dân sự’ cũng được hiểu theo nghĩa hẹp, nhằm phân biệt giữa các ‘Tòa dân sự’, ‘Tòa Kinh tế’, ‘Tòa lao động’… Trở lại khái niệm ‘hợp đồng dân sự’, câu hỏi đặt ra là, từ ‘dân sự’ có ý nghĩa gì khi được đặt kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Về mặt lô ghích, từ ‘dân sự’ được đặt ở vị trí này là nhằm xác định rõ nghĩa của khái niệm ‘hợp đồng’, nhằm để chỉ đây là ‘hợp đồng dân sự’ chứ không phải là hợp đồng khác (thương mại, lao động). Trong khi đó, khái niệm ‘hợp đồng dân sự’ được qui định tại Điều 388 BLDS 2005 với chủ định xem đây khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi hợp đồng, chứ không phải chỉ dành cho riêng ‘hợp đồng dân sự’. Do vậy, không nên đặt từ ‘dân sự’ ngay sau khái niệm ‘hợp đồng’ vì dễ gây hiểu lầm, và không cần thiết. Tóm lại, định nghĩa hợp đồng (dân sự) tại Điều 388 BLDS 2005 là chấp nhận được. Tuy vậy, để đảm bảo tính chuẩn xác của thuật ngữ này, tác giả kiến nghị Quốc hội cần sửa đổi Điều 388 BLDS 2005 theo hướng bỏ hai từ ‘dân sự’ kèm theo sau thuật ngữ ‘hợp đồng’. 1.1.2. Bản chất của hợp đồng Như đã được thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên. 1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung qui lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng. Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng. Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng, “yếu tố thỏa thuận của các chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối” [239, tr.20]. 14 Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc” [217, tr.1578]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thỏa thuận là “sự nhất trí chung được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua quá trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hòa.” [93, tr.238]. Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật qui định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa tích cực hơn, so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm ‘thương lượng’ hay ‘bàn bạc’ dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các bên và khái niệm ‘đồng ý’ dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm ‘thỏa thuận’ ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự ‘thống nhất ý chí’. Đó là quá trình ‘dung hòa’ giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên, đến sự hiệp ý hay gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được ‘sự nhất trí chung’, hay ‘sự đồng thuận’ giữa hai hay nhiều bên đó. Bản chất của sự thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự bày tỏ ý chí’ của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ‘ưng thuận’ tương ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự ‘đồng thuận’ của các bên, nhằm đạt một mục đích xác định. Bởi thế, có ý kiến cho rằng, “thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn của các bên về một điều gì đó mà các bên mong muốn đạt được” [257, tr.10]. Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hoặc làm một việc gì cụ thể. Nếu một bên thể hiện ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không thể có một sự ‘hiệp ý’. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà, nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập. Tuy vậy, những thỏa thuận thiếu vắng các nội dung cụ thể là chuyện phổ biến trong thực tế, vì có thể do các bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy. 15 Trong trường hợp có tranh chấp, những nội dung còn thiếu sẽ được tòa án xem xét và áp dụng các điều khoản dự phòng của pháp luật, hoặc có thể bổ túc thông qua việc giải thích hợp đồng. Hợp đồng được coi là hoàn thành, nếu các bên đã thỏa thuận được những nội dung chủ yếu. Hợp đồng được coi là chưa hoàn thành, nếu thiếu những nội dung chủ yếu mà tòa án không thể bổ túc được. Một thỏa thuận chỉ được coi là có giá trị pháp lý, nếu nội dung và mục đích của nó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Ngoài ra, thỏa thuận chỉ có thể làm phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên nếu tuân thủ các yêu cầu do pháp luật qui định như điều kiện về chủ thể, điều kiện về nội dung và mục đích, điều kiện về sự tự nguyện, và điều kiện về hình thức hợp đồng trong trường hợp pháp luật có qui định. Đây gọi là các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Các nội dung này sẽ được trình bày trong chương hai của Luận án. Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn hợp đồng. 1.1.2.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên Một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy. Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hoặc một lời hứa danh dự, như lời hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hoặc thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa danh dự hoặc các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng. Trong xã hội ngày nay, người ta cũng sử dụng nhiều hình thức cam kết mang tính chất thỏa thuận nội bộ trong một khu vực dân cư, một đơn vị hành chính, một địa phương để cùng làm một việc hay cùng thực hiện một cuộc vận động gì đó của địa phương, đơn vị. Ví dụ như bản cam kết thực hiện cuộc vận động “nói không với tiêu 16 cực” giữa các nhà giáo với lãnh đạo ngành giáo dục, hay cam kết “thực hiện nếp sống văn minh đô thị” của hộ gia đình với chính quyền địa phương. Những cam kết như vậy cũng mang tính thỏa thuận, nhưng không phải là hợp đồng, vì không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Các cam kết này có thể mang tính “ràng buộc”, thậm chí sự “vi phạm” các cam kết ấy có thể bị áp dụng các biện pháp “cưỡng chế” (về mặt đạo đức) hay chế tài nhất định (như các chế tài hành chính), nhưng sự “vi phạm” đó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng. Cũng có những thỏa thuận đặt các bên vào một quan hệ nghĩa vụ luật định, chẳng hạn như các thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận về việc nuôi con nuôi. Theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết đó không phải là hợp đồng. Quan điểm của các luật gia cũng thừa nhận đây chỉ là những thỏa thuận tư nhân nhằm “thừa nhận một qui chế pháp định”, chấp nhận thực hiện các nghĩa vụ “luật định sẵn”, chứ không phải là hợp đồng [168, tr.59]. Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng [26, tr.96]. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng. Nghiên cứu bản chất hợp đồng là tiền đề lý luận để xác định các điều kiện có hiệu lực (hay tính hợp pháp) của hợp đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp đồng, trình tự giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các vấn đề pháp lý quan trọng khác của chế định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực hợp đồng. 1.2. KHÁI NIỆM HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG, HIỆU LỰC TƯƠNG ĐỐI CỦA HỢP ĐỒNG Hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính bản chất của hợp đồng, vì suy cho cùng, các bên thiết lập hợp đồng là để ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Khi thiết lập một hợp đồng, người ta luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp lý” đối với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, nhằm thỏa mãn các lợi ích các bên. Nội dung sau đây làm rõ khái niệm hiệu lực hợp đồng. 1.2.1. Khái niệm hiệu lực hợp đồng Hiệu lực của hợp đồng đối với sự tồn tại của hợp đồng có thể được ví giống như là ‘hơi thở’ hay ‘linh hồn’ đối với sự sống của con người. Một hợp đồng không có hiệu lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. Tuy nhận thức
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan