Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh nam định trong kháng chiến chống pháp từ năm 1945 đến ...

Tài liệu Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh nam định trong kháng chiến chống pháp từ năm 1945 đến năm 1954

.PDF
88
933
90

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN DUY SÂM HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH NAM ĐỊNH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954 Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60.22.03.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC NHUỆ Hà Nội, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ, Phó Viện trưởng Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Hà Nội, tháng 7 năm 2016 Tác giả Trần Duy Sâm LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc học viện Khoa học xã hội, Ban Chủ nhiệm khoa Sử học, các thầy, cô giáo cán bộ giảng viên Khoa Sử học, Viện Sử học thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ - người thầy đã tận tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này trong suốt thời gian qua. Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng bộ tỉnh Nam Định, UBND tỉnh Nam Định, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Nam Định, Trung tâm Lưu trữ tỉnh, Thư viện tỉnh, Cục Thống kê tỉnh Nam Định, Báo Nam Định, Ban Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên dệt Nam Định, Thư viện Quốc gia, Trung tâm lưu trữ quốc gia III đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này. Do thời gian có hạn cũng như sự hạn chế về tư liệu nên luận văn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn đọc đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 7 năm 2016 Học viên Trần Duy Sâm MỤC LỤC trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 6 7. Cơ cấu của luận văn ...................................................................................... 6 NỘI DUNG....................................................................................................... 7 Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỰ NHIÊN, DÂN CƯ VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA PHỤ NỮ TỈNH NAM ĐỊNH TRƯỚC NĂM 1945 ............................................................................... 7 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .................................................................. 7 1.1.1. Vị trí địa lý............................................................................................... 7 1.1.2. Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 7 1.2. Truyền thống lịch sử và dân cư .................................................................. 9 1.2.1. Truyền thống lịch sử................................................................................ 9 1.2.2. Dân cư, xã hội ....................................................................................... 11 1.3. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của phụ nữ Nam Định trước năm 1945 ......................................................................................................... 12 1.4. Một số đánh giá nhận xét ......................................................................... 18 Chương 2. HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH NAM ĐỊNH VỚI NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN, THAM GIA KHÁNG CHIẾN ... 21 TỪ NĂM 1946 ĐẾN NĂM 1949 ................................................................... 21 2.1. Bối cảnh lịch sử ........................................................................................ 21 2.1.1. Bối cảnh chung ...................................................................................... 21 2.1.2. Tình hình ở Nam Định........................................................................... 22 2.2.Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định với nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền ..................................................................................................... 23 2.2.1. Chỉ đạo của Đảng ................................................................................. 23 2.2.2. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định tham gia kháng chiến kiến quốc 26 2.3. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu ................................................................................................................... 32 2.3.1. Củng cố và phát triển lực lượng ........................................................... 32 2.3.2. Tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu ............................................ 35 2.3.3. Một số nhận xét, đánh giá ..................................................................... 42 Chương 3. HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH NAM ĐỊNH TRONG VIỆC ĐỘNG VIÊN, TỔ CHỨC HỘI VIÊN TÍCH CỰC THAM GIA CHIẾN ĐẤU VÀ PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1954 ................... 47 3.1. Bối cảnh lịch sử ........................................................................................ 47 3.1.1. Bối cảnh chung ...................................................................................... 47 3.1.2. Tình hình ở Nam Định........................................................................... 48 3.2. Hội liên phụ nữ tỉnh Nam Định trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu giải phóng quê hương ..................................................................... 50 3.2.1. Đấu tranh trong lòng địch .................................................................... 50 3.2.2. Tích cực xây dựng hậu phương tại chỗ ................................................. 56 3.3. Một số đánh giá, nhận xét ........................................................................ 63 3.3.1.Ưu điểm .................................................................................................. 63 3.3.2. Hạn chế ................................................................................................. 65 3.3.3. Bài học kinh nghiệm .............................................................................. 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 77 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của phụ nữ Việt Nam có từ rất sớm, được khởi nguồn từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu - những người phụ nữ đầu tiên không cam chịu cảnh nước mất, nhà tan đã vùng lên lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược trả thù nhà, nợ nước. Ngọn lửa truyền thống yêu nước đó của phụ nữ Việt Nam tiếp tục được duy trì trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, có lúc âm ỉ cháy lúc lại bùng lên mạnh mẽ nhiều phen làm cho quân xâm lược phải khiếp sợ. Sức mạnh của phụ nữ Việt Nam một lần nữa được khẳng định khi toàn dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp (19451954). Ở khắp nơi, phụ nữ lại tích cực tham gia vào những công việc ở hậu phương cũng như trên tiền tuyến, trực tiếp hoặc gián tiếp đánh giặc. Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ đã có hàng triệu phụ nữ tham gia dân quân du kích đánh giặc bằng mọi phương diện có trong tay như: “Đòn gánh đánh càn” của phụ nữ miền Bắc hay “Gậy tầm vông diệt giặc” của phụ nữ miền Nam. Chính cũng từ trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu làm nên một hình mẫu mới của phụ nữ Việt Nam thế kỷ XX “Giỏi việc nước, đảm việc nhà ”. Cùng với phụ nữ cả nước, phụ nữ tỉnh Nam Định cũng đã có những hoạt động tích cực và đóng góp không nhỏ vào công cuộc đánh giặc, chống càn, bảo vệ quê hương. Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Định là tỉnh thường xuyên nằm trong vùng chiếm đóng và kiểm soát của thực dân Pháp. Quân Pháp đã liên tục càn quét và phá hoại các cơ sở của chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong tỉnh, gây ra không ít những khó khăn tổn thất. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định đã vận dụng những phương pháp đấu tranh từ hợp pháp, nửa hợp pháp đến công khai bất hợp pháp, xây dựng cơ sở ngay trong 1 lòng địch, bám đất, bám dân, phối hợp với bộ đội sẵn sàng chiến đấu. Mặt khác tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ đã lãnh đạo chị em làm nhiệm vụ hậu phương tại chỗ, phối hợp với tiền tuyến tiến công địch giành những thắng lợi quan trọng tại khu vực đồng bằng Bắc Bộ làm nên thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Về vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong thế kỷ XX, nhất là trong kháng chiến chống ngoại xâm đã được đặt ra nghiên cứu một cách nghiêm túc. Những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến đã có một vài công trình nghiên cứu nhưng trên bình diện nghiên cứu tổng quan, còn nghiên cứu cụ thể phụ nữ ở một tỉnh còn thiếu vắng. Đặc biệt là hoạt động và những đóng góp của phụ nữ những địa phương thì chưa được nghiên cứu một cách cụ thể. Nghiên cứu về hoạt động và những đóng góp của phụ nữ tỉnh Nam Định trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954 sẽ giúp chúng ta tìm hiểu một cách cụ thể sâu sắc một số vấn đề về: Hoàn cảnh lịch sử, quá trình hoạt động và những đóng góp cụ thể cũng như đánh giá vai trò của phụ nữ nói chung và phụ nữ Nam Định nói riêng trong kháng chiến. Từ lý do trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1945 đến năm 1954” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Liên quan đến nội dung của luận văn, cho đến nay đã có một số cuốn sách, tài liệu, công trình, bài báo, tạp chí đã đề cập đến ở mức độ khác nhau có thể chia thành các nhóm cơ bản sau: Thứ nhất: các cuốn sách, công trình nghiên cứu về kháng chiến chống Pháp nói chung như: 2 Võ Nguyên Giáp (1972), Vị trí chiến lược của chiến tranh nhân dân ở địa phương và các lực lượng vũ trang địa phương, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1974), Dân quân tự vệ một lực lượng chiến lược, Nxb Sự Thật, Hà Nội. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Ban Tổng kết chiến tranh (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Vũ Quang Hiển (2001), Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là một trong số những cuốn sách và công trình nghiên cứu tiêu biểu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên phương diện tổng quan từ đó sẽ giúp định hướng nghiên cứu đề tài. Thứ hai: Những công trình, tài liệu nghiên cứu, sách viết về tỉnh Nam Định tiêu biểu như: Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Nam Ninh (1986), Hà Nam Ninh - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954), Xí nghiệp in tỉnh Hà Nam. BCH Đảng bộ Nam Định (1995), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Hà, tập 1 (1930-1954), Xí nghiệp in Nam Hà. Hội Liên hiệp Phụ nữ Nam Hà (1995), Mẹ quê hương, Xí nghiệp in Nam Hà. Sở Văn hóa Thông tin Nam Hà (1995), Lịch sử - truyền thống phụ nữ tỉnh Nam Hà (1930 - 1995), Xí nghiệp in Trẻ, 62 Bà Triệu, Hà Nội. 3 Ban Thường vụ tỉnh Nam Định (2000), Sơ thảo lịch sử Cách mạng tháng Tám tỉnh Nam Định, Xí nghiệp in Nam Định. BCH Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định (2000), Lịch sử - truyền thống phụ nữ tỉnh Nam Định (1930 - 2000), Nam Định. BCH Đảng bộ Nam Định (2005), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định (1930 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngoài ra là hàng loạt cuốn Lịch sử đảng bộ các huyện, xã trong tỉnh đã xuất bản góp phần nghiên cứu khá toàn diện nhất về tỉnh Nam Định từ trước đến nay. Tuy các cuốn sách này có đề cập đến về hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh nhưng lại đặt trong bối cảnh chung nên dung lượng còn rất hạn chế. Thứ ba: Bài viết về những tấm gương tiêu biểu của phụ nữ Nam Định trong kháng chiến. Đặc biệt, đã có một cuốn sách viết về lịch sử Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định phản ánh về vai trò của phụ nữ Nam Định trong kháng chiến chống Pháp, tuy nhiên đây mới là công trình mang tính chất liệt kê sự kiện mà chưa đi vào phân tích cụ thể, đặc biệt chưa có những nhận xét, đánh giá về vai trò của phụ nữ Nam Định trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích chung: Trình bày, phân tích, đánh giá để làm rõ quá trình hoạt động và những đóng góp của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến năm 1954. Mục đích cụ thể: Trình bày một cách chi tiết về những hoạt động cụ thể, đồng thời đi vào phân tích để làm rõ những đóng góp của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân cũng như trong việc tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn làm rõ những yếu tố về đất nước, con người Nam Định, các hoạt động tham gia kháng chiến của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1945 đến năm 1954. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định trong kháng chiến chống thực dân Pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Nam Định trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến năm 1954. Phạm vi về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động và những đóng góp của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định trong thời gian của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến năm 1954. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối chiến tranh cách mạng, lý luận xây dựng hậu phương và chiến tranh du kích. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để đảm bảo tính khách quan và khoa học, luận văn đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. 5 Ngoài ra tác giả luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, sưu tầm và xử lý tài liệu khai thác tối đa thông tin có độ tin cậy cao. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: Qua những nghiên cứu, đánh giá, nhận xét và tổng kết của luận văn sẽ góp phần làm dày thêm lý luận khoa học lịch sử, khẳng định vai trò quan trọng của khoa học lịch sử trong nghiên cứu và thực tiễn. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chính quyền ở tỉnh Nam Định trong việc giáo dục truyển thống yêu nước của tỉnh. Nguồn tư liệu phong phú và đã được hệ thống hóa trong luận văn có thể giúp các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương làm tài liệu tham khảo. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1: Khái quát về tự nhiên, dân cư và phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của phụ nữ Nam Định trước năm 1945. Chương 2: Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chính quyền, tham gia kháng chiến từ năm 1946 đến năm 1949. Chương 3: Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Nam Định trong việc động viên, tổ chức hội viên tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu từ năm 1950 đến 1954. 6 NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ TỰ NHIÊN, DÂN CƯ VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA PHỤ NỮ TỈNH NAM ĐỊNH TRƯỚC NĂM 1945 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 1.1.1. Vị trí địa lý Nam Định là tỉnh duyên hải phía nam đồng bằng Bắc bộ, phía bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía nam giáp biển Đông, phía đông giáp tỉnh Thái Bình, phía tây giáp tỉnh Ninh Bình. Toạ độ địa lý: 19o53'-20o vĩ độ Bắc, 105o55'-106o37' kinh độ Đông [3, tr.11]. Diện tích: 1652,29 km2 (bằng khoảng 0,5% diện tích toàn quốc), chia thành 10 đơn vị hành chính, bao gồm thành phố Nam Định và 9 huyện, tính từ bắc xuống nam là Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng với 230 xã, phường, thị trấn [3, tr.11]. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Địa hình Nam Định được chia làm hai vùng tự nhiên, phía Bắc là vùng bị bào mòn bồi tụ phù sa cổ, đất thấp vẫn còn những ô trũng do biển lùi nhanh, bao gồm phần đất Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và ngoại thành Nam Định. Đất đai ở đây bị ngập nước lâu ngày nên độ phì nhiêu kém và độ PH cao không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Phía nam tỉnh do tiếp cận được phù sa sông Hồng, sông Ninh Cơ, sông Đáy hằng năm thường lấn ra biển vài chục mét và ở ngoài xa bờ, có những cồn đất càng lan rộng ra (cồn Lu, cồn Nganh ở Giao Thủy, cồn Mờ ở Nghĩa Hưng) nên đất ở vùng này rất thuận lợi cho việc trồng lúa, cói, trồng dâu nuôi tằm, trồng đay, dệt chiếu và các cây hoa màu khác. 7 Khí hậu: Nam Định mang đầy đủ đặc điểm khí hậu của khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình: 23o-24oC. Độ ẩm trung bình: 80-85%. Tổng số ngày nắng: 250 ngày. Tổng số giờ nắng: 1650-1700 giờ. Lượng mưa trung bình: 1750-1800 mm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa ít mưa từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Tốc độ gió trung bình: 2-2,3 m/s. Mặt khác, do nằm trong vùng vịnh Bắc Bộ nên hàng năm Nam Định thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân từ 4 đến 6 cơn bão/ năm (khoảng từ tháng 7 đến tháng 10) [3, tr.12 ]. Thuỷ văn: Nam Định là vùng đất nằm giữa hạ lưu hai con sông lớn của đồng bằng Bắc Bộ là sông Hồng và sông Đáy. Sông Hồng chảy vào Nam Định từ xã Mỹ Trung, huyện Mỹ Lộc qua thành phố Nam Định và các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thuỷ rồi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt, tạo thành địa giới tự nhiên phía đông bắc giữa Nam Định với tỉnh Thái Bình. Sông Đáy chảy vào địa phận Nam Định từ xã Yên Phương, huyện Ý Yên qua huyện Nghĩa Hưng rồi đổ ra biển ở cửa Đáy, trở thành địa giới tự nhiên giữa Nam Định với Ninh Bình. Dòng chảy của sông Hồng và sông Đáy kết hợp với chế độ nhật triều đã bồi tụ tại vùng cửa hai sông tạo nên 2 bãi bồi lớn ven biển là Cồn Lu, Cồn Ngạn (Giao Thuỷ) và vùng Cồn Trời, Cồn Mờ (Nghĩa Hưng). Ngoài hai con sông lớn, trong tỉnh còn có những chi lưu của sông Hồng chảy sang sông Đáy hoặc đổ ra biển. Từ bắc xuống nam có sông Đào làm địa giới quy ước cho hai vùng nam bắc tỉnh, sông Ninh Cơ đổ ra cửa Lác (thường gọi là Gót Chàng), sông Sò (còn gọi là sông Ngô Đồng) đổ ra cửa Hà Lạn. Bờ biền Nam Định dài 72km từ cửa sông Hồng đến cửa sông Đáy là một ngư trường đánh bắt hải sản góp phần bảo đảm đời sống nhân dân, đồng thời cũng tạo ra vùng đồng muối nổi tiếng như Văn Lý, Hải Xuân (Hải Hậu), Quất Lâm, Bạch Long (Giao Thủy). Động thực vật: Tính đến năm 2000, toàn tỉnh có 4.723 hecta rừng các loại, chủ yếu là rừng phòng hộ, cây trồng chính là sú, vẹt, phi lao, bần. Hệ 8 thực vật chiếm khoảng 50%, hệ động vật chiếm khoảng 40% loài thực vật, động vật trên cả nước [3, tr.14 ]. 1.2. Truyền thống lịch sử và dân cư 1.2.1. Truyền thống lịch sử Lịch sử Nam Định gắn liền với công cuộc lấn biển, mở mang khu vực vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Thời Văn Lang, Nam Định thuộc quận Giao Chỉ, thời Bắc thuộc nước ta bị thành quận, huyện (Nam Định thuộc huyện Chu Diên). Thời Tam Quốc thuộc huyện Vũ Bình. Đến khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân lập ra nước Đại Cồ Việt, nhà Đinh chia nước ta thành nhiều đạo, dưới đạo là lộ. Thời Lý, Nam Định thuộc lộ Hải Thanh, đến thời Trần lại đổi tên thành Thiên Thanh. Năm 1262, nhà Trần đổi tên thành phủ Thiên Trường. Thiên Trường được xây dựng như là kinh đô thứ 2 để tạo thế “ỷ dốc” (nương tựa nhau) cho kinh thành Thăng Long. Khi quân Minh xâm lược nước ta đổi phủ Thiên Trường thành phủ Phụng Hóa. Đến khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh lại lấy tên địa danh cũ thời nhà Trần. Năm 1469, thời vua Lê Thánh Tông, Nam Định thuộc thừa tuyên (xứ) Sơn Nam. Năm 1741 Lê Hiển Tông tách xứ Sơn Nam thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ, Nam Định thuộc xứ Sơn Nam Hạ. Đầu triều Nguyễn, Nam Định vẫn thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1831, Minh Mệnh tiến hành cải cách hành chính đổi dinh, trấn thành tỉnh, tỉnh Nam Định được thiết lập gồm 4 phủ: Thiên Trường, Nghĩa Hưng, Kiến Xương và Thái Bình. Khi thực dân Pháp đặt ách cai trị nước ta đã thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn. Năm 1890, chính quyền Pháp tách phần đất của Nam Định thuộc tả ngạn sông Hồng gồm hai phủ Kiến Xương, Thái Bình và cắt phần đất của Hưng Yên lập ra tỉnh Thái Bình. Phần đất Nam Định còn lại là Thiên Trường và Nghĩa Hưng. 9 Sự hình thành vùng đất Nam Định là kết quả tất yếu của những cuộc thiên di, tiến dần xuống khai phá xây dựng nơi cư trú khai phá đồng bằng của người Việt cổ. Ở vùng núi Lê (Vụ Bản) vẫn còn những dấu vết của con người thuộc thời kỳ đồ đá mới đến sơ kỳ đồ đồng. Hành trình chuyển cư của người Việt cổ là bằng chứng lịch sử cho sự hiện diện của con người từ rất sớm, đồng thời lý giải truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên”. Cuộc đấu tranh sống còn trong việc trị thủy khẩn hoang để giành lấy những vùng đất màu mỡ ven sông. Việc trị thủy, khẩn hoang cứ tiếp tục mãi mãi. Vùng đất này càng ngày càng lấn ra biển, rộng thêm ra theo thời gian lại có sức lôi cuốn con người từ nhiều vùng miền đến khẩn hoang sinh cơ lập nghiệp. Người dân tại nơi đây đã biết “hỏa canh - thủy nậu” dùng lửa để đốt cây cỏ, dùng nước để trồng trọt cùng với sự tiến bộ về công cụ kim khí, nghề trồng lúa ngày càng đạt tới trình độ cao hơn, cho phép tăng thêm sản phẩm nông nghiệp, đủ lương thực nuôi sống con người. Vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, sản vật phong phú đã thu hút người dân khắp nơi đổ về đây. Trải qua quá trình lịch sử người dân Nam Định không chỉ có truyền thống tốt đẹp về lao động sản xuất mà qua các thời đại đã tạo ra một nền văn hóa rực rỡ gắn liền với tên tuổi của những nhân tài trên nhiều lĩnh vực. Dựng nước gắn liền với đấu tranh giữ nước là một quy luật sinh tồn, phát triển của dân tộc. Đó cũng chính là truyển thống quý báu của nhân dân Nam Định. Truyền thống đó đã thấm sâu vào tinh thần mọi người dân. Dưới thời kỳ phong kiến tuy cuộc sống lam lũ, hà khắc, nhưng người dân Nam Định vẫn dũng cảm vươn lên, đấu tranh sinh tồn và phát triển. Không chỉ cần cù trong lao động; tình nghĩa thủy chung trong cuộc sống đời thường, bảo tồn nề nếp gia phong cùng những truyền thống văn hóa tốt đẹp nơi làng xóm, mà người dân Nam Định còn anh dũng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, góp phần bảo vệ quê hương, đất nước. 10 Đứng ở thế giao hòa giữa đất liền và biển cả, cư dân lại gồm những người đi khai hoang, mở cõi, đã tạo ra phí phách riêng của người Nam Định rất quả cảm, thông minh và hiếu học; Cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, giầu nghị lực, giỏi nghề sông nước, thạo thủy chiến. Không phải ngẫu nhiên mà phủ Thiên Trường là nơi phát tích của vương triểu Trần tồn tại 175 năm, oanh liệt về võ công và văn trị, nơi sinh thành, nuôi dưỡng, tôi luyện Quốc công tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, những danh nhân lớn những trạng nguyên xuất chúng như Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Khiếu Năng Tĩnh, nhà thơ Tú Xương…đây cũng là vùng đất sinh ra những chiến sĩ cộng sản kiên trung như Trường Chinh, Lê Đức Thọ và biết bao những người con ưu tú khác. Đặc biệt từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, phong trào yêu nước của nhân dân Nam Định đã phát triển mạnh mẽ cùng nhân dân cả nước làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và chiến thắng hai đế quốc hùng mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. 1.2.2. Dân cư, xã hội Dân cư: Dân số: 2000160 người (năm 2008). Mật độ dân số trung bình: 1211 người/km² [3, tr.11]. Dân tộc sinh sống tại Nam Định chủ yếu là dân tộc Kinh, theo hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Kinh tế: Nam Định nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm của đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời có nền sản xuất công nghiệp phát triển tương đối sớm với nhiều ngành nghề truyền thống, là một trong những trung tâm dệt may hàng đầu của cả nước. Tổng sản phẩm trong tỉnh ước đạt 9458 tỷ đồng, tăng 7,1% so với năm 2008 (kế hoạch tăng 7%). GDP bình quân đầu người đạt 12,2 triệu đồng (kế hoạch 10,5 triệu đồng). Năm 2008, cơ cấu kinh tế là: Nông lâm thuỷ sản: 30,5 %; Công nghiệp, xây dựng: 35,1%; Dịch vụ: 34,4%. Năm 2009 Cơ cấu kinh tế kế hoạch là: Nông lâm thuỷ sản: 29,8% (Ước thực hiện: 30,1%); Công nghiệp, xây dựng: 11 35,8%(Ước TH:35,6%); Dịchvụ:34,4% (Ước thực hiện:34,3%). Tổng giá trị hàng xuất khẩu trên địa bàn đạt 210 triệu USD. Tổng nguồn đầu tư xã hội trên đại bàn tỉnh đạt 210 triệu USD [3, tr.15]. Hệ thống giao thông đa dạng và thuận lợi: Đường bộ: Quốc lộ 21 từ Hoà Bình qua Phủ Lý tới thành phố Nam Định rồi đi cảng Hải Thịnh (đoạn qua Nam Định dài 75 km). Quốc lộ 10 từ Quảng Yên đi Hải Phòng, Thái Bình qua Nam Định rồi đi Ninh Bình (đoạn qua Nam Định dài 34 km). Tỉnh lộ 12 từ thành phố Nam Định đi Ý Yên dài 20 km. Tỉnh lộ 57 từ Cát Đằng đi Yên Thọ (Ý Yên) dài 17 km. Tỉnh lộ 55 từ Nam Định đi nông trường Rạng Đông dài 51 km. Đường 56 liên tỉnh từ Bình Lục (Hà Nam) đi Gôi (Vụ Bản), qua Liễu Đề (Nghĩa Hưng), Yên Định (Hải Hậu) đến Ngô Đồng (Giao Thuỷ) dài 70 km [3, tr.16]. Đường sắt: Tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua Nam Định dài 42km, với các ga: ga Nam Định là điểm dừng chân của các đoàn tàu tốc hành chạy suốt Bắc Nam, ga Cầu Họ, ga Đặng Xá, ga Trình Xuyên, ga Gôi, ga Cát Đằng. Các ga này có nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa là chính. Đường thuỷ: Hệ thống sông Hồng, sông Đáy, sông Ninh Cơ chảy qua địa phận tỉnh với chiều dài 251km cùng với hệ thống cảng sông Nam Định, cảng biển Thịnh Long thuận lợi trong việc phát triển vận tải thuỷ. 1.3. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của phụ nữ Nam Định trước năm 1945 Do ở vào vị trí xung yếu, nên Nam Định sớm trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa ở phía nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngay từ khi mới đặt chân xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã coi Nam Định là một trong hai vùng then chốt ở ở đồng bằng Bắc Bộ. Hai lần đem quân xâm lược Bắc Bộ (1873, 1882) thì cả hai lần đều đem quân đánh chiếm thành Nam. Dưới thời Pháp, Nhật thống trị, thành phố Nam Định đã là nơi đặt sở chỉ huy và các cơ quan 12 đầu não của địch, chỉ huy mạng lưới do thám, gián điệp của quân xâm lược ở phía nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhân dân Nam Định có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Ngay từ khi thực dân Phán đến xâm lược, đông đảo nhân dân đã nổi dậy theo các sĩ phu yêu nước đấu tranh vũ trang chống Pháp. Từ sau năm 1858 toàn bộ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, nhưng cuộc nổi dậy chống Pháp vẫn diễn ra liên tiếp. Ở Nam Định có thể kể đến những cuộc khởi nghĩa của Vũ Đức Huy (ở Vụ Bản), Phạm Trung Thứ (ở Ý Yên), Hoàng Văn Tuấn (ở Phú Khê - Ý Yên), Đội Võ (ở Giao Thủy), những cuộc nổi dậy này có đóng góp không nhỏ của những người phụ nữ, họ trực tiếp tham gia chiến đấu, bảo vệ chiến đấu. Những cuộc đấu tranh yêu nước tuy cuối cùng thất bại, song công sức vận động, chăm sóc của các bà, các mẹ, các chị đối với nghĩa sĩ cũng như tinh thần dũng cảm, mưu trí của các nghĩa dũng đã ươm mầm cho những hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp về sau. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Sự kiện trên đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Ngay sau khi Đảng ra đời, một trong những nhiệm vụ mà Luận cương cách mạng tháng 10 1930 đã đề ra là: “Thực hiện nam nữ bình đẳng, phải chú ý lấy phụ nữ, thợ thuyền vào Đảng và đưa phụ nữ vào các ban của cán bộ, phải chú ý huấn luyện các đồng chí phụ nữ ở trong các cơ quan”. Và Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng: “Phụ nữ là lực lượng rất trọng yếu, nếu quảng đại quần chúng không tham gia vào các cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể giành thắng lợi được” [16, tr.17]. Dưới sự lãnh đạo, tuyên truyền, giác ngộ, dìu dắt của các tổ chức đảng ở địa phương, phụ nữ Nam Định đã hăng hái tham gia nhiều cuộc đấu tranh chống địa chủ, cường hào đòi quyền lợi kinh tế trước mắt. Các tổ chức quần chúng có nhiều phụ nữ tham gia đã hình thành và phát triển ở vùng nông thôn như An Cử (Ý Yên), Liên Minh (Vụ Bản), Lạc Nghiệp, Hội Khê (Xuân 13 Trường), Quất Lâm, Hoành Nha, Hà Cát (Giao Thủy), Hội cấy, Hội gặt, Hội cày bừa… đã hình thành ở khắp nơi và hoạt động sôi nổi. Các tổ chức hội sơ khai này ra đời đã có nhiều phụ nữ tham gia đánh dấu bước chuyển biến mới của phong trào phụ nữ tỉnh. Trong những năm 1932 - 1935, mặc dù bị địch khủng bố ác liệt, nhiều đảng viên và cán bộ nòng cốt bị bắt, một số cơ sở nuôi giấu cán bộ bị lộ, phong trào cách mạng ở một số nơi có lắng xuống nhưng một số đảng viên cốt cán vẫn chủ động liên hệ với phong trào quần chúng, cơ sở cách mạng, trao đổi tình hình, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng ở các địa phương. Mở đầu phong trào đấu tranh giai đoạn này là cuộc đấu tranh đòi thay đốc công người Pháp của chị em công nhân Nhà máy Sợi Nam Định. Tên đốc công Cô-xta (Costa) ở xưởng dệt rất tàn ác và thường có hành động bỉ ổi đối với phụ nữ. Thợ xưởng dệt đã nhiều lần làm giấy tố cáo với chủ nhà máy. Trước dư luận phản đối mạnh mẽ của phụ nữ, chủ nhà máy phải thay đổi đốc công mới. Phong trào đấu tranh của thợ thuyền Nam Định đã diễn ra rất sôi nổi dưới sự chỉ đạo của các đảng viên địa phương. Chỉ tính từ ngày 31-10-1936 đến ngày 6 -10-1937, đã có 33 cuộc đấu tranh lớn nhỏ của thợ thuyền. Trong đó, có sự tham gia tích cực của chị em phụ nữ. Từ năm 1937 đến năm 1938, hàng loạt các tổ chức quần chúng được thành lập. Ở địa bàn thành phố Nam Định, các tổ chức ái hữu ở các xí nghiệp đã ra đời trong đó nhiều phụ nữ công nhân tham gia như Hội ái hữu nhà máy Sợi (tháng 9-1937); tháng 2-1938, ái hữu công nhân lục lộ của bồi bếp, thợ mộc, thợ chạm, thợ thủy tinh, thợ may…đã lần lượt được thành lập. Hầu hết các buổi sinh hoạt của các hội ái hữu đều có cán bộ cách mạng đến nói chuyện thời sự, chính trị, hướng công nhân đấu tranh bảo vệ quyền lợi người lao động. 14 Ở nông thôn nhiều hội quần chúng cũng được thành lập, nhiều phụ nữ nông dân và các tầng lớp phụ nữ tham gia như: Hội nông dân tương tế, hiếu hỷ, tú văn, học sinh, phe giáp, cầu phúc… Với chủ trương đúng đắn và sách lược mềm dẻo của Trung ương Đảng, các tổ chức quần chúng cách mạng của Đảng đã tập hợp đông đảo chị em công nhân, phụ nữ ở nông thôn vảo tổ chức của mình ở hầu hết các địa bàn trong tỉnh. Có thể nói rằng cuộc đấu tranh của phụ nữ Nam Định thời kỳ này cùng với phong trào cách mạng trong tỉnh là cuộc tổng diễn tập nhằm rèn luyện bản lĩnh và khả năng cách mạng để cùng với nhân dân toàn tỉnh tạo ra sức mạnh tổng hợp, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tháng 9 -1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Tình thế đã thay đổi nhưng các cơ quan và cán bộ hoạt động công khai chưa kịp rút vào hoạt động bí mật nên đã chịu nhiều tổn thất. Ngày 29 - 9 -1939, thực dân Pháp và tay sai ở Nam Định đã thực hiện 122 vụ bắt bớ, khám xét, truy quét nhiều cán bộ đảng viên và quần chúng cách mạng hoạt động công khai, trong đó có 46 người bị xét xử. Năm 1940, phát xít Nhật vào Đông Dương, nhân dân ta phải chịu một cổ hai tròng, đời sống các tầng lớp trong xã hội từ thành thị đến nông thôn đều vô cùng cơ cực. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, ngày 16-6-1941, Đoàn Phụ nữ cứu quốc ra đời tiếp tục sự nghiệp của phụ nữ giải phóng, Hội Liên hiệp phụ nữ dân chủ, phụ nữ phản đế, có nhiệm vụ tuyên truyền động viên phụ nữ phản đế, có nhiệm vụ tuyên truyền động viên phụ nữ gia nhập các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, cùng nhân dân cả nước đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan