Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học tật khúc xạ và đánh giá hiệu quả một số biện phá...

Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học tật khúc xạ và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp ở học sinh 6 15 tuổi tại thành phố hà nội (2007 2009)

.DOC
130
799
149

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Mù lòa là một trong những vấn đề y tế công cộng lớn hiện nay ở trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Tổ chức Y tế thế giới và Tổ chức Quốc tế về Phòng chống mù loà (IAPB) đã đưa ra sáng kiến “Thị giác 2020: Quyền được nhìn thấy” nhằm khuyến cáo và huy động tất cả các nguồn lực, sự cố gắng của Quốc tế và Chính phủ các nước để đạt mục tiêu thanh toán các bệnh gây mù có thể phòng tránh được vào năm 2020 [41]. Theo nhiều nghiên cứu, tật khúc xạ nói chung và cận thị học đường nói riêng đang ngày càng có xu hướng gia tăng, là mối quan tâm của từng gia đình và toàn xã hội. Ngoài ra, điều kiện vệ sinh học đường không đạt yêu cầu và gánh nặng học tập là những yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỷ lệ cận thị [2], [16]. Cận thị học đường không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe và khả năng học tập, sinh hoạt của học sinh mà chi phí điều trị cận thị đã trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới đã xác định cận thị học đường là một trong 5 vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chương trình phòng chống mù loà toàn cầu [87], [103]. Ở Việt Nam, tật khúc xạ là một vấn đề thời sự được cả xã hội quan tâm, đặc biệt cận thị học đường đã được chú ý từ những năm 1960, nhưng đến nay vẫn chiếm tỷ lệ khá cao và có xu hướng tăng nhanh, không chỉ ở khu vực thành thị mà ở cả khu vực nông thôn. Nghiên cứu của Ngô Duy Hòa và cs. (1966) trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm 1960 cho thấy tỷ lệ cận thị của học sinh là 4,2%. Nguyễn Thị Nhung (1980) thấy tỷ lệ cận thị ở học sinh Hà Nội chiếm tỷ lệ rất cao, có lớp học tới 50% học sinh phải đeo kính (tiểu học là 11,9%, trung học cơ sở là 17,6% và trung học phổ thông là 21,6% [18]. Theo kế hoạch quốc gia phòng chống mù loà và chăm sóc mắt ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2013 tật khúc xạ đang ngày càng phổ biến, với tỷ lệ mắc khoảng 10-15% học sinh nông thôn, 20-35% học sinh thành phố. Nếu chỉ tính riêng nhóm trẻ từ 6 đến 15 tuổi (lứa tuổi cần ưu tiên được chỉnh kính) cả nước có khoảng 14.207.000 em, với tỷ lệ mắc tật khúc xạ ước tính là 15-20% thì ở nước ta đã có tới 2.131.000- 2.841.400 em bị tật khúc xạ cần đeo kính, Đó thực sự là một số lượng khổng lồ, một thách thức lớn đối với ngành y tế và toàn xã hội [25]. Đã có một số nghiên cứu dịch tễ học về cận thị học đường ở các khía cạnh khác nhau để tìm ra các yếu tố dịch tễ, các yếu tố ảnh hưởng và đề xuất 2 một số giải pháp can thiệp. Tuy nhiên, việc đánh giá tổng thể tình hình tật khúc xạ cùng các yếu tố liên quan trong giai đoạn hiện nay, cũng như tiếp tục tìm kiếm áp dụng các giải pháp can thiệp khác để làm giảm tỷ lệ tật khúc xạ nói chung và cận thị học đường nói riêng vẫn là vấn đề cần thiết [18], [22], [23], [30]. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài với các mục tiêu nghiên cứu sau: 1- Mô tả dặc điểm dịch tễ học tật khúc xạ ở học sinh 6 - 15 tuổi tại một số trường tiểu học và trung học cơ sở của Hà Nội năm 2007 - 2008. 2- Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp hạn chế cận thị học đường ở học sinh tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội (2008 2009). 3 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. HỆ THỐNG QUANG HỌC CỦA MẮT Mắt là một hệ thống quang học phức tạp mà công suất hội tụ và trục nhãn cầu tạo cho ảnh của vật ở vô cực được hội tụ trên võng mạc. Quang hệ mắt bao gồm nhiều thành phần khúc xạ như giác mạc, thể thủy tinh, thuỷ dịch, dịch kính với các chỉ số khúc xạ khác nhau, bán kính độ cong của các bề mặt khúc xạ và khoảng cách giữa các bề mặt khúc xạ khác nhau, tạo nên công suất hội tụ khác nhau. Quang tâm của các bề mặt khúc xạ không cùng nằm trên một trục chung. Đồng thời các bề mặt khúc xạ của quang hệ mắt, không phải thực sự là những mặt cầu. Như vậy, quang hệ mắt không hoàn toàn là một quang hệ trực tâm. Tuy nhiên, để có thể khảo sát hệ quang học của mắt, người ta giản lược, coi mắt là một quang hệ trực tâm và các bề mặt khúc xạ của mắt là những mặt cầu. Giác mạc được xem như một thể trong suốt có chỉ số khúc xạ là 1,37 và công suất hội tụ từ 40 – 45D. Mặt trước và mặt sau của giác mạc được xem như những mặt cầu song song với nhau, chỉ số khúc xạ của thuỷ dịch và dịch kính bằng nhau và bằng 1,33 [8], [12], [13]. 1.1.1. Một số chỉ số quang học của nhãn cầu - Trục nhãn cầu trước sau: kích thước 23,5 -24,5 mm. - Giác mạc: chỉ số khúc xạ: 1,37; bán kính độ cong: 7,8 mm và công suất hội tụ trung bình: + 42,0 D. - Thuỷ dịch: chỉ số khúc xạ: 1,33 - Dịch kính: chỉ số khúc xạ: 1,33 - Thể thủy tinh: chỉ số khúc xạ: 1,43; Bán kính độ cong mặt trước: 7,9mm và mặt sau: 5,79 mm. Có sự khác biệt về chỉ số khúc xạ giữa lớp vỏ và nhân, các lớp vỏ không thật sự đồng tâm. Độ cong lớp vỏ ngoài lớn hơn độ cong lớp vỏ trong. Công suất hội tụ: + 20,0 D. - Công suất hội tụ của toàn bộ hệ quang học mắt: 52,69 - 64,27D. 1.1.2. Các yếu tố quyết định tình trạng khúc xạ của mắt Sự phối hợp 4 yếu tố quan trọng nhất quyết định tình trạng khúc xạ của quang hệ mắt là công suất giác mạc, công suất thể thủy tinh, độ sâu tiền phòng và chiều dài trục nhãn cầu. Tất cả 4 yếu tố trên thay đổi liên tục trong quá trình phát triển nhãn cầu. Công suất giác mạc và công suất thể thủy tinh và chiều dầy trục nhãn cầu thay đổi nhiều trong 2 năm đầu đời. Cuối năm thứ 4 2, phần trước của nhãn cầu đạt tỷ lệ của người lớn, tuy nhiên bán kính độ cong của các mặt khúc xạ tiếp tục thay đổi ở mức độ đo được [2]. - Công suất giác mạc: phụ thuộc vào bán kính độ cong của giác mạc. Trong quá trình phát triển, giác mạc thay đổi rất ít, bán kính độ cong mặt trước của giác mạc lúc mới sinh là 6,6 mm, khi 1 tuổi là 7,50 mm, đến 6 tuổi đã ổn định ở mức 7,80 mm. Công suất khúc xạ của giác mạc lúc mới sinh đến tuổi trưởng thành chỉ tăng khoảng 4 D và đạt công suất trung bình là 43,34 ± 1,52D. Như vậy, công suất giác mạc chiếm 2/3 tổng công suất của hệ quang học mắt và ít biến đổi trong quá trình chính thị hoá của nhãn cầu. - Công suất thể thủy tinh: là yếu tố quan trọng chi phối lực khúc xạ của mắt vì 2 lý do: + Thể thủy tinh biến đổi không ngừng kể từ khi đứa trẻ ra đời đến tuổi già. Khi trẻ mới sinh, thể thủy tinh có hình cầu và công suất khúc xạ rất cao tới + 42,7D, sau đó thể thủy tinh dẹt dần và đến 15-16 tuổi công suất khúc xạ chỉ còn 16-24 D. Vì vậy, trẻ em thường viễn thị (sinh lý) sau đó sẽ giảm dần và đến 6-7 tuổi thì sẽ trở thành mắt chính thị. + Thể thủy tinh chịu tác động của lực điều tiết do cơ thể mi chi phối (cơ chế điều tiết). Thông qua điều tiết mà thể thủy tinh có thể co giãn làm tăng hoặc giảm lực khuất triết để điều chỉnh nhìn xa và nhìn gần cho rõ. Khi điều tiết, lực khuất triết cuả thể thủy tinh có thể thay đổi từ 19-24D làm tăng tổng công suất khúc xạ của hệ quang học mắt. Như vậy, cơ chế điều tiết đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi công suất khúc xạ của hệ quang học mắt [1], [23]. - Chiều dài trục nhãn cầu: tính từ cực trước của giác mạc đến cực sau của võng mạc, trục nhãn cầu ở trẻ em nam lúc mới sinh là 17,9 ± 0,10 mm, ở học sinh nữ lúc mới sinh 17,7 ± 0,20 mm. Đến 3 tuổi, trục nhãn cầu đã phát triển 23,22 ± 0,26 mm ở trẻ em nam và 22,50 ± 0,12 mm ở trẻ em nữ. đến 6 tuổi, trục nhãn cầu đã ổn định ở mức gần bằng 24mm. Nghiên cứu hằng số sinh học độ dài trục nhãn cầu ở người Việt Nam trưởng thành, tác giả Hoàng Hồ nêu ra độ dài trục nhãn cầu trung bình là 22,95 ± 1, 06 mm. - Độ sâu tiền phòng: Độ sâu tiền phòng không ảnh hưởng nhiều đến công suất của mắt nhưng cũng góp phần vào sự ổn đinh công suất khúc xạ của nhãn cầu. Độ sâu tiền phòng bình thường là từ 2,80 mm đến 3,50 mm. 1.1.3. Sinh lý thị giác * Vai trò của điều tiết: Điều tiết là một hoạt động quan trọng của quang hệ mắt vì có tác dụng điều chỉnh độ hội tụ của quang hệ mắt để tiêu điểm ảnh rơi đúng trên võng 5 mạc khi nhìn gần hay nhìn xa. Điều tiết là cơ chế mà mắt thay đổi công suất khúc xạ bằng cách thay đổi hình dạng của thể thủy tinh để ảnh của vật luôn hiện lên võng mạc. Trong khi điều tiết, tiêu điểm di chuyển về phía trước võng mạc, do đó viễn điểm lại gần mắt hơn. Lực điều tiết xuất hiện khi cơ thể mi co và các sợi dây Zinn treo thể thủy tinh trùng lại dưới tác dụng của thần kinh đối giao cảm. Những nghiên cứu gần đây của Hội nhãn khoa Hoa Kỳ đã khẳng định đây là cách di chuyển của thể thủy tinh khi mắt điều tiết. Như vậy là có 2 yếu tố chi phối hiệu năng của hoạt động điều tiết: sự đàn hồi, dồn ép của thể thủy tinh và trương lực cơ thể mi. Do vậy, khi thể thủy tinh bị lão hóa, kém đàn hồi ở người trên 40 tuổi (lão thị) thì dù cho cơ thể mi có hoạt động tốt cũng không còn khả năng làm thay đổi công suất của thể thủy tinh. Ngược lại, khi cơ thể mi bị tê liệt (ví dụ: sau khi tra nhỏ thuốc liệt điều tiết) thì thể thủy tinh dẫu chưa bị xơ hóa cũng không thể làm thay đổi công suất khúc xạ. Khi nhìn gần, mắt phải điều tiết mà lực điều tiết ở trẻ em rất mạnh. Nếu sử dụng mắt nhìn gần liên tục, kéo dài khiến mắt phải thường xuyên điều tiết, lâu ngày có thể gây nên co quắp điều tiết dẫn đến cận thị giả. Để loại trừ cận thị giả và co quắp điều tiết, khi xác định tật khúc xạ (TKX) cho trẻ em, cần làm liệt điều tiết bằng cách tra nhỏ các loại thuốc gây liệt điều tiết nhanh như Cyclozil 1- 2% hoặc liệt điều tiết chậm nhưng kéo dài như Atropin 0,5%1% vì lực điều tiết ảnh hưởng đến công suất khúc xạ của thể thủy tinh. Giả cận thị là một rối loạn chức năng điều tiết của mắt khiến cho các tia sáng khi đi qua quang hệ mắt bị hội tụ ở tiêu điểm trước võng mạc giống như trường hợp cận thị thật. Hiện tượng giả cận thị cũng có thể xảy ra khi mắt bị viễn thị không được chỉnh kính, phải cố gắng điều tiết quá độ. Nếu khám xác định tật khúc xạ cho trẻ bị giả cận thị mà không làm liệt điều tiết, có thể dẫn đến cấp nhầm kính cận cho trẻ khiến cho nỗ lực điều tiết càng gia tăng hơn, làm gia tăng độ cận thị giả, khiến trẻ nhức mắt, đau đầu. Các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam cho thấy có một tỷ lệ co quắp điều tiết gây giả tăng công suất khúc xạ của mắt. Tật khúc xạ cũng là nguyên nhân gây nên nhược thị, đứng hàng thứ hai sau lác [9], [26]. 1.2. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI TẬT KHÚC XẠ 1.2.1. Mắt chính thị Khi mắt ở trạng thái không điều tiết thì các tia sáng phản chiếu từ các vật ở xa sẽ hội tụ ở võng mạc. Bình thường, để mắt có thể nhìn thấy rõ vật, các tia sáng phải bị bẻ gãy hay gọi là “bị khuất triết” khi đi qua các môi 6 trường quang học trong suốt của mắt như giác mạc và thể thuỷ tinh để hội tụ đúng trên võng mạc - là lớp màng thần kinh của vỏ nhãn cầu. Mắt như vậy gọi là mắt chính thị (có độ khúc xạ bình thường). Mắt chính thị có chiều dài trục nhãn cầu từ 22,5- 23mm, tương ứng với độ hội tụ của mắt khoảng 62D. Trên mắt chính thị, tiêu điểm sau trùng với võng mạc. Các tia sáng song song xuyên qua mắt sẽ hội tụ trên võng mạc. Viễn điểm xa ở vô cực [2], [9], (hình 1.1). Hình 1.1. Mắt chính thị. 1.2.2. Mắt không chính thị Mắt không chính thị là thuật ngữ chung dùng để chỉ mắt có tật khúc xạ khi mắt đó không điều tiết. Ở những mắt có tật khúc xạ, các tia sáng không hội tụ trên võng mạc mà hội tụ ở trước hoặc sau võng mạc. Tật khúc xạ có nghĩa là các môi trường quang học (giác mạc, thể thuỷ tinh, dịch kính) của mắt khúc xạ ánh sáng không đúng, do đó hình ảnh của vật mà ta nhìn thấy bị mờ. Để phát hiện tật khúc xạ một cách sơ bộ khi thấy mắt nhìn kém, người ta dùng một phương pháp đơn giản là thử thị lực với kính lỗ: nếu qua kính lỗ mà thị lực của mắt tăng lên, thì có nghĩa mắt đó có tật khúc xạ. Thử kính lỗ sẽ làm giảm vòng mờ gây nên bởi tật khúc xạ [2], [9]. Điều quan trọng là khi thử thị lực qua kính lỗ, phải để bệnh nhân có thể nhìn qua lỗ đó lên bảng thị lực. Có một số trường hợp thấy thị lực tăng khi nhìn qua kính lỗ nhưng lại không tăng khi đeo kính. Những trường hợp này là do mắc các bệnh mắt như đục thể thuỷ tinh, đục hoặc sẹo giác mạc, tật giác mạc hình chóp, hội chứng Marfan… Tật khúc xạ bao gồm viễn thị, cận thị, loạn thị và được coi là những rối loạn về khuất triết của mắt mà không phải là bệnh mắt. 7 1.2.2.1. Viễn thị Mắt viễn thị (hypermetropia) là mắt có các tia sáng hội tụ sau võng mạc khi mắt không điều tiết vì nó có trục nhãn cầu trước sau ngắn hơn bình thường hoặc có lực khuất triết quá yếu, vì vậy ảnh hiện trên võng mạc bị mờ không rõ nét [9], [30] (hình 1.2). Hình 1.2. Mắt viễn thị. Mắt viễn thị không thể nhìn rõ các vật ở gần. Để cố gắng nhìn rõ vật, mắt viễn thị luôn phải điều tiết để đưa ảnh rơi trên võng mạc. Do điều tiết liên tục, mắt viễn thị bị mệt mỏi, đau đầu, nhức mắt và hay chảy nước mắt [28]. Giống như cận thị, viễn thị có thể do di truyền. Trẻ mới đẻ và trẻ em nhỏ tuổi thường có xu hướng bị viễn thị nhẹ. Khi lớn lên, mắt cũng phát triển, trở nên dài hơn, độ viễn thị cũng sẽ giảm dần. Để chỉnh tật viễn thị, dùng kính cầu hội tụ. 1.2.2.2. Cận thị Mắt cận thị (myopia) là mắt có trục trước sau dài hơn bình thường hoặc có lực khuất triết quá mạnh, do đó các tia sáng sau khi bị khuất triết sẽ hội tụ ở trước võng mạc, bất kể khi mắt có điều tiết hay không. Mắt cận thị có thể nhìn rõ các vật ở gần nhưng lại không nhìn rõ các vật ở xa [2], [9], [18] (hình 1.3). Hình 1.3. Mắt cận thị. Cận thị có thể là do di truyền hoặc mắc phải do mắt phải làm việc ở khoảng cách gần quá nhiều. Cận thị di truyền thường phát hiện ở trẻ em từ 8 đến 12 tuổi. Từ 10 đến 20 tuổi, khi cơ thể phát triển, thì mắt cũng dài ra và cận thị cũng tiến triển nhanh, từ 20- 40 tuổi, độ cận thị ít thay đổi [93], [107]. 8 Khi nhìn gần, mắt phải điều tiết để nhìn vật cho rõ. Khi đó, thể thuỷ tinh của mắt căng phồng lên để đưa ảnh của vật hội tụ trên võng mạc. Khi nhìn xa, mắt giảm điều tiết, thể thuỷ tinh lại xẹp xuống. Bình thường, khoảng cách thích hợp khi làm việc gần từ mắt đến sách, vở hoặc máy vi tính là 3340 cm. Nếu mắt phải làm việc ở khoảng cách gần liên tục nhiều giờ trong ngày, nhiều ngày liền trong tháng, đặc biệt là trong điều kiện thiếu ánh sáng thì thể thuỷ tinh của mẳt luôn luôn ở trong tình trạng phải điều tiết, bị căng phồng gây nên tình trạng mệt mỏi, căng cứng điều tiết. Nếu mắt không được nghỉ ngơi, đến một lúc nào đó thể thuỷ tinh bị căng cứng không thể xẹp xuống được nữa, lực điều tiết của con mắt luôn duy trì ở mức quá mạnh, lúc đó mắt đã trở thành cận thị. Đó chính là tật cận thị mắc phải hay ta thường gọi là cận thị học đường (CTHĐ) [8]. Cận thị không chỉ gây khó khăn cho việc học tập, làm việc mà khi bị cận thị nặng sẽ có nguy cơ mắc nhiều biến chứng như vẩn đục dịch kính (mắt nhìn thấy nhiều vật lơ lửng như ruồi bay trước mắt) hoặc bong võng mạc gây mù. Do vậy, người bị cận thị cần đi khám bác sỹ mắt định kỳ để theo dõi các thay đổi ở võng mạc mắt cận thị. Nếu đã bị bong võng mạc, cần điều trị càng sớm càng tốt bằng phẫu thuật ở các trung tâm nhãn khoa. Để chỉnh tật cận thị, dùng kính cầu phân kỳ. 1.2.2.3. Loạn thị Mắt loạn thị là mắt có công suất khúc xạ không đều nhau ở các kinh tuyến do sự thay đổi độ cong của giác mạc hoặc thể thủy tinh ở các kinh tuyến khác nhau làm cho các tia sáng song song từ vô cực không hội tụ ở một điểm duy nhất mà hội tụ theo hai tiêu tuyến. Giác mạc bình thường hình cầu đều đặn, nhẵn bóng, giống như mặt quả bóng tròn. Khi bị loạn thị, một trục nào đó của giác mạc sẽ cong hơn các trục khác, trông giống như quả bóng bầu dục và các tia sáng đi qua trục đó sẽ hội tụ ở trước võng mạc, trong khi các tia sáng khác đi qua một trục ít cong hơn lại hội tụ ở sau võng mạc. Loạn thị cũng có thể do thủy tinh thể bị nghiêng trong nhãn cầu. Do vậy, ảnh của vật mà mắt nhìn thấy sẽ bị méo hình hoặc bị mờ cả khi nhìn xa và nhìn gần. Khi có loạn thị, mắt có lực khúc xạ khác nhau ở các kinh tuyến khác nhau. 1.2.3. Một số quy ước của WHO về tật khúc xạ 9 - Mắt chính thị: là mắt có độ khúc xạ cầu tương đương (KXCTĐ) (SE: spherical equivalent) lớn hơn - 0,5D và nhỏ hơn +0,5 D. KXCTĐ (SE) = Chỉ số khúc xạ cầu + 1/2 chỉ số khúc xạ trụ. - Mắt được coi là cận thị: khi SE từ - 0,5D trở lên. Người được coi là cận thị khi có một mắt hoặc cả hai mắt cận thị. - Mắt được coi là viễn thị: khi SE + 0,5D trở lên. Người được coi là viễn thị khi có cả 2 mắt viễn thị, hoặc có một mắt viễn và mắt kia chính thị. - Mắt được coi là loạn thị: khi lực khúc xạ của 2 trục chính của nhãn cầu chênh nhau từ 0,75D trở lên. 1.3. DỊCH TỄ HỌC TẬT KHÚC XẠ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 1.3.1. Trên thế giới Trong khoảng 20- 30 năm gần đây, tỷ lệ cận thị học đường đang có xu hướng tăng lên chẳng những ở những nước có nền kinh tế phát triển mà ngay ở những nước đang phát triển và nước nghèo. Trước đây, cận thị học đường chỉ xuất hiện và gia tăng ở các thành phố và các đô thị thì ngày nay cận thị đã xuất hiện với một tỷ lệ báo động ở những vùng nông thôn và những vùng sâu, vùng xa như ở các nước Châu Á (Đài Loan, Hồng Kông, Singapore...) [88], [89], [95]. * Tại Châu Mỹ: Maul E. và cs (2000) nghiên cứu trên 5.303 học sinh (5- 15 tuổi) ở Chi Lê thấy tỷ lệ cận thị học đường ở học sinh 5 tuổi là 3,4% và ở học sinh nam 15 tuổi là 19,4%; ở học sinh nữ 15 tuổi là 14,7% [90]. Villarreal G. M. và cs. (2003) điều tra 1.305 học sinh từ 12 đến 13 tuổi ở Monterrey (Mexico) thấy tỷ lệ cận thị là 44% [124]. Carter M. J. và cs. (2013) điều tra tật khúc xạ ở 190 học sinh người Mennonite, 118 học sinh người bản địa và 168 học sinh mang cả hai dòng máu thấy có 2 trường hợp cận thị ở nhóm người Mennonite (1,2%) và 2 trường hợp ở nhóm mang hai dòng máu (1,4%) (SE ≤ -0,5 D). Tỷ lệ viễn thị (SE ≥ 0,5 D) là 40,6%, 34,2% và 46,3% đối với chủng tộc người Mennonite, bản địa và học sinh mang hai dòng máu. Tỷ lệ loạn thị tương ứng là 3,2%, 9,5% và 12,7%. Tỷ lệ viễn thị ở nữ cao hơn nam giới và nhóm tuổi thường gặp là 9 - 11 tuổi [43]. Sperduto R. D. và cs. (1983) phân tích các số liệu từ Chương trình Dinh dưỡng và Sức khỏe quốc gia (1971- 1972) thấy tỷ lệ mắc cận thị ở người Mỹ trong độ tuổi từ 12 tuổi đến 54 tuổi là 25% [117]. Điều tra của Kleinstein R. 10 N. và cs. (2003) trên 2.523 học sinh từ lớp 1 đến lớp 8 (5- 17 tuổi) thấy tỷ lệ cận thị là 9,2%; viễn thị là 12,8% và loạn thị là 28,4%. Morgan A. và cs. (2006) [92] điều tra ở 14.075 học sinh tuổi từ nhà trẻ đến lớp 4 của 70 trường trong 5 bang phía Tây Nam nước Mỹ thấy tỷ lệ cận thị là 5,8%. * Tại Châu Âu: Villarreal M. G. và cs. (2000) cho thấy tỷ lệ cận thị ở học sinh ở Thụy Điển từ 12- 13 tuổi là 49,7% [123]. Czepita D. và cs. (2007) nghiên cứu trên 5.724 học sinh ở các trường Tiểu học, THCS và THPT tại tỉnh Szczecin Ba Lan thấy 13% số học sinh ở độ tuổi từ 6 đến 18 tuổi bị cận thị [47]. - Jobke S. (2008) điều tra tình hình cận thị ở học sinh từ 7- 35 tuổi ở CHLB Đức thấy tỷ lệ cận thị ở nhóm 7- 11 tuổi là 5,5%; từ 12 - 17 tuổi là 21% và từ 18 đến 35 là 41,35%. Tỷ lệ viễn thị là 9,8% ở học sinh từ 2- 6 tuổi; 6,4% học sinh từ 7- 11 tuổi; 3,7% ở thanh thiếu niên và 2,9% ở người trưởng thành (p= 0,380). Các tác giả cho rằng tỷ lệ cận thị ở CHLB Đức là thấp hơn so với các nước khác ở châu Á và châu Âu [73]. * Tại Châu Phi: Tunisia: Ayed T. và cs. (2002) điều tra trên 700 học sinh (6- 20 tuổi) ở một số vùng của Tunisia thấy tỷ lệ cận thị là 9,1% [35]. Opubiri I. và cs. (2012, 2013) nghiên cứu cắt ngang trên 1.242 học sinh (658 nữ và 584 nam; 5-15 tuổi) ở bang Bayelsa thấy 97,7% số mắt có thị lực bình thường (6/6); 49/56 mắt có thị lực ≤6/9; 27 học sinh bị tật khúc xạ (2,2%); Tật khúc xạ ở cả hai mắt là 22 học sinh (81,5%), cao nhất ở lứa tuối 8- 10 tuổi (40,7%), tiếp đến là ở lứa tuổi 11- 13 tuổi (37,0%) [101], [102]. Wedner S. H. và cs. (2002) nghiên cứu ở 2.511 học sinh trung học (1127 tuổi) ở Mwanza thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 6,1%, cận thị chiếm tỷ lệ cao nhất (5,6%), giảm thị lực (0,4%), lác (0,2%), các bệnh mắt khác chiếm tỷ lệ thấp. Các tác giả cho rằng còn có học sinh chưa được điều chỉnh tật khúc xạ, vì vậy cần có chương trình kiểm tra mắt thường xuyên cho các trường trung học [126]. Nghiên cứu của Naidoo và cs. (2003) trên 4.890 học sinh từ 5 đến 15 tuổi tại Durban thấy tỷ lệ bị cận thị là 4% ở mức độ cận dưới 0,5D và có xu hướng tăng lên ở tuổi 14 và 15 (9,6%) [97]. Năm 2012, Assefa W. Y. và cs. [34] khám ở 8 trường tiểu học tại thị trấn Gondar, Tây Bắc Ethiopia thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 9,4%. Trong số này, cận thị là 31,6%, viễn thị là 26,4%. Yared A. W. và cs. (2012) nghiên cứu cắt ngang ở 1.852 học sinh của 8 trường tiểu 11 học tại thành phố Gondar (Ethiopia) (45,8% nam và 54,2% nữ) với tỷ lệ tham gia nghiên cứu là 93%. Tỷ lệ tật khúc xạ ở cả hai mắt là 174 học sinh (9,4%). Cận thị thấp là tật khúc xạ phổ biến nhất: 61 học sinh (49,2%) ở mắt phải và 68 học sinh (50%) ở mắt trái [134]. Mehari Z. A. và cs. (2013) nghiên cứu cắt ngang ở 4.238 học sinh (7-18 tuổi) thấy 405 học sinh (9,5%) giảm thị lực, trong đó có 267 học sinh (6,3%) có tật khúc xạ (6,1% ở nam và 6,6% ở nữ). Cận thị là tật khúc xạ phổ biến nhất (6,0%). Nguyên nhân gây giảm thị lực ≤ 6/12 chủ yếu là tật khúc xạ (65,9%) và tổn thương giác mạc (12,8%). Các tác giả cho rằng tật khúc xạ chưa được điều chỉnh là nguyên nhân chủ yếu gây giảm thị lực ở học sinh nông thôn của Ethiopia [91]. Rushood A. A. và cs. (2013) sàng lọc các bệnh mắt 671.119 học sinh ở Sudan (56,7% nam; 6 - 15 tuổi) thấy có 20.321 học sinh mắc bệnh mắt (3,03%). Ba địa phương có tỷ lệ bệnh mắt cao nhất là Karary (26,2%), Ummbada (21,0%) và Jabal Awlia (15,7%). Tỷ lệ tật khúc xạ là 2,19%. Cận thị gặp ở 10.064 học sinh (1,50%) và viễn thị gặp ở 4.661 học sinh (0,70%). * Tại Châu Á: Kalikivayi V. và cs. (1997) điều tra 4.029 học sinh (2.348 nam và 1.681 nữ; 3 - 18 tuổi) ở 9 trường vùng Hyderabad Ấn Độ thấy tỷ lệ viễn thị là 22,6%, cận thị và loạn thị là 8,6% và 10,3%. Tỷ lệ cận thị tăng cao hơn ở những học sinh trên tuổi (p<0,001). Ở mắt tốt hơn, giá trị khúc xạ cầu tương đương đối với cận thị trung bình là 1,35 D (từ 0,75 D đến 10,00 D); đối với viễn thị, trung bình là 0,65D (từ 0,50D đến 8,50D) [75]. Murthy G. V. và cs. (2002) đánh giá tỷ lệ mắc tật khúc xạ và giảm thị lực ở 6.447 học sinh (5 - 15 tuổi) ở New Delhi thấy nguyên nhân giảm thị lực chủ yếu là tật khúc xạ (81,7%), loạn thị (4,4%), rối loạn chức năng võng mạc (4,7%), nguyên nhân khác (3,3%) và không tìm được nguyên nhân: 5,9%. Tỷ lệ viễn thị giảm từ 15,6% (nhóm 5 tuổi) xuống 10,8% ở nhóm 15 tuổi. Tỷ lệ viễn thị chung là 7,7% và cận thị là 7,4%. Tỷ lệ viễn thị có liên quan với giới tính nữ [95]. Titiyal J. S. và cs. (2003) cho rằng 13% số người mù và 56% số người có tổn thương chức năng thị giác ở Ấn Độ là do cận thị. Năm 2008, Ishfaq A. S. và cs. (2008) nghiên cứu 4.360 học sinh ở Srinagar vùng Kashmir (Ấn Độ) với độ tuổi trung bình là 12,11 thấy tỷ lệ cận thị là 4,74% [70], [121]. Saw S. M. và cs. (2002) nghiên cứu tật khúc xạ và kích thước nhãn cầu của 957 học sinh từ 7 đến 9 tuổi ở Trung Quốc thấy tỷ lệ cận thị là 18,5% (CI 95%: 14,0% - 23,1%) [112]. He M. và cs. (2004) kiểm tra thị lực ở 4.364 học 12 sinh thấy ở nhóm 15 tuổi, tỷ lệ cận thị (KXCTĐ ≤ -0,50D) đo bằng phương pháp soi bóng đồng tử là 73,1%; bằng khúc xạ kế tự động là 78,4%. Ở nhóm 5 tuổi, tỷ lệ cận thị là 3,3% với phương pháp soi bóng đồng tử và 5,7% với khúc xạ kế tự động. Tỷ lệ cận thị ở nữ cao hơn so với nam. Tỷ lệ viễn thị (KXCTĐ≥+2,00 D) ở nhóm 5 tuổi là 16,7% với phương pháp soi bóng đồng tử và 17,0% với khúc xạ kế tự động. Tỷ lệ viễn thị <1% ở nhóm 15 tuổi, với cả hai phương pháp. Tỷ lệ loạn thị là 33,6% với soi bóng đồng tử và 42,7% với khúc xạ kế tự động [66]. Guo Y. và cs. (2013) nghiên cứu 382 học sinh lớp 1 (6,3 ± 0,5 tuổi) và 299 học sinh lớp 4 (9,4 ± 0,7 tuổi) ở Bắc Kinh thấy tỷ lệ cận thị là 33% [63]. Niroula D. R. và cs. (2009) nghiên cứu 964 học sinh (474 nam, 490 nữ; 10 - 19 tuổi) ở Nepan tại 6 trường đại diện cho các khu vực khác nhau của thành phố Pokhara thấy 62/964 học sinh (6,43%) có tật khúc xạ, trong đó cận thị là phổ biến nhất (4,05%) [99]. Tỷ lệ viễn thị là 1,24% và loạn thị là 1,14%. Sherpa D. và cs. (2011) điều tra 466 học sinh tiểu học ở Dhulikhel thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 11 học sinh (2,36%). Viễn thị là loại phổ biến nhất (0,84%) so với cận thị (0,64%) [114]. Rai S. và cs. (2012) nghiên cứu 133 học sinh bị tật khúc xạ (5- 15 tuổi) ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn của Nepal và vùng lân cận của Ấn Độ điều trị tại Viện Mắt Lumbini, Bhairahawa, Nepal (tháng 9- 11/2010) thấy các tật khúc xạ ở học sinh thường gặp: loạn thị (47%), cận thị (34%) và viễn thị (15%) [104]. Hashemi H. và cs. (2004) ở Iran nghiên cứu tật khúc xạ trên 4.354 người (>5 tuổi) ở Tehran thấy tỷ lệ cận thị là 21,8% (CI 95%: 20,1- 23,5) và viễn thị là 26,0% (CI 95%: 24,5- 27,6). Tỷ lệ cận thị và viễn thị sau khi làm liệt điều tiết là 17,2% (CI 95%: 15,6- 18,8) và 56,6% (CI 95%: 54,7-58,6). Tỷ lệ cận thị và viễn thị khác biệt đáng kể giữa các nhóm tuổi và giới tính (p<0.001). Tỷ lệ loạn thị là 29,6% (CI 95%: 28,0- 31,3) ở mắt phải và 30,3% (CI 95%: 28,5- 32,1) sau khi làm liệt điều tiết [65]. Morgan A. và cs. (2006) điều tra trên 1.057 học sinh (7 - 17 tuổi) ở 2 vùng nông thôn của Mông Cổ thấy tỷ lệ cận thị là 5,8% [92]. Khader Y. S. và cs. (2006) điều tra 1.777 học sinh (1.081 nam và 696 nữ) từ 12- 17 tuổi ở 8 trường tại 8 vùng địa lý khác nhau ở Amman (Jordan) thấy tỷ lệ cận thị là 17,6%, không có khác biệt đáng kể giữa nam và nữ sau khi điều chỉnh đối với các biến số [77]. 13 Bataineh H.A. (2008) điều tra tật khúc xạ của học sinh tại thành phố Tafila thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 25,32%, trong đó cận thị học đường chiếm 63,5% [38]. Rezvan F. và cs. (2012) điều tra trên 1.551 học sinh tiểu học và THCS (41,5% nam và 58,5% nữ) ở Đông Bắc của Iran (6-17 tuổi) thấy tỷ lệ cận thị, viễn thị, loạn thị là 4,3% (CI 95%: 3,3- 5,3); 5,4% (CI 95%: 4,3- 6,5) và 11,5 % (CI 95%: 9,9- 13,1) và không liên quan đến giới tính. Các tác giả cho rằng tỷ lệ cận thị ở học sinh vùng Đông Bắc Iran thấp hơn so với các nước Đông Á, nhưng tương tự các nước Nam Phi, Chile và Trung Đông [106]. Al Wadaani F. A. và cs. (2012) nghiên cứu 2.246 học sinh (6- 14 tuổi) tại Ả Rập Xê út ở 30 trường tiểu học ở vùng Al Hassa thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 13,7%. Tỷ lệ mắc tật khúc xạ tăng cao hơn ở nhóm học sinh có độ tuổi từ 1214 tuổi (OR= 9,02; p<0,001). Trong đó chỉ có 9,4% số học sinh giảm thị lực được đeo kính để điều chỉnh. Cận thị là tật khúc xạ thường gặp nhất (65,7%). Các tác giả cho rằng tỷ lệ tật khúc xạ cao, chưa được điều chỉnh đã ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe và khả năng sinh hoạt của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh nữ và ở vùng nông thôn [32]. Lim H. T. và cs. (2012) phân tích dữ liệu của 8.633 học sinh trong chương trình khảo sát về dinh dưỡng và sức khỏe của Hàn Quốc lần thứ 3 thấy tỷ lệ cận thị là 22,6%. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ cận thị là lứa tuổi, mức thu nhập và sinh sống ở vùng đô thị [86]. Fan D. S. và cs. (2004) nghiên cứu trên 7.560 học sinh (5- 15 tuổi) ở Hồng Kông thấy khúc xạ cầu tương đương là -0,33 ± 11,56D (từ -13,13 đến 14,25 D) và tỷ lệ cận thị là 36,71% (học sinh nam là 36% và ở nữ là 37,4%). Tỷ lệ mắc cận thị là 144,1 ± 2,31/1.000 học sinh tiểu học [54]. Lin L. L. và cs. (2004) thấy tỷ lệ cận thị trung bình ở trẻ 7 tuổi ở Đài Loan đã tăng từ 5,8% vào năm 1983 lên 21% vào năm 2000; nhóm 12 tuổi: tăng từ 36,7% vào năm 1983 lên 61% vào năm 2000; nhóm 16- 18 tuổi: tăng từ 74% năm 1983 lên 84% vào năm 2000 [88]. Wu P. C. và cs. (2010) nghiên cứu cắt ngang ở 145 học sinh (7 đến 12 tuổi) ở hai trường tiểu học trên đảo Chimei (Đài Loan) thấy tỷ lệ cận thị là 31%. Guo Y. H. và cs. (2012) [61] phân tích các dữ liệu điều tra phỏng vấn của Chương trình Y tế Quốc gia 2005 với 20.609 người trên 12 tuổi thấy tỷ lệ cận thị ở Đài Loan là 46,7% (KTC 95%: 45,9- 47,5%). * Tại Đông Nam Á: 14 Goh P. P. và cs. (2005) đánh giá tỷ lệ mắc tật khúc xạ và suy giảm thị lực ở học sinh 4.634 (từ 7- 15 tuổi) ở 3.004 hộ gia đình tại quận Gombak, ngoại ô Kuala Lumpur ở Malaysia thấy tỷ lệ cận thị (KXCTĐ ≤-0,50D ở cả hai mắt) đo bằng phương pháp soi bóng đồng tử và khúc xạ kế tự động là 9,8% và 10,0% ở học sinh 7 tuổi, tăng lên 34,4% và 32,5% ở học sinh 15 tuổi. Tỷ lệ viễn thị (KXCTĐ ≥2.00 D) dao động từ 3,8% đến 5,0% ở nhóm 7 tuổi và ít hơn 1% ở nhóm 15 tuổi. Tỷ lệ loạn thị (≥0,75D) là 15,7% và 21,3% [59]. Saw S. M. và cs. (2002) điều tra tỷ lệ mắc tật khúc xạ ở 1.043 người lớn (trên 21 tuổi) tại tỉnh Riau (Sumatra) ở Indonesia thấy tỷ lệ cận thị điều chỉnh theo tuổi là 26,1% (CI 95%: 23,4- 28,8); viễn thị là 9,2% (CI 95%: 7,411,0%). Tỷ lệ cận thị, viễn thị và loạn thị tăng theo độ tuổi [111]. Yingyong P. (2010) nghiên cứu cắt ngang trên 2.340 hoc sinh (1.100 học sinh ở Bangkok và 1.240 ở Nakhonpathom Thái Lan) thấy tỷ lệ TKX lần lượt là 12,7% và 5,7%. TKX là nguyên nhân làm giảm thị lực ở 97,6% số mắt bị giảm thị lực; nguyên nhân giảm thị lực còn do loạn thị: 0,5%, nguyên nhân khác: 0,8% và có 1,1% trường hợp không rõ nguyên nhân [137]. Casson R. J. và cs. (2012) nghiên cứu tỷ lệ tật khúc xạ và giảm thị lực ở 2.899 học sinh tiểu học ở Viêng Chăn (6- 11 tuổi) ở CHDCND Lào thấy KXCTĐ ở mắt phải trung bình là 0,60D (CI 95%: 0,49- 0,72) và ở mắt trái là 0,59D (CI 95%: 0.50 - 0,68). Tỷ lệ viễn thị là 2,8% (CI 95%: 1,9- 3,7%; 88 HS) và tỷ lệ cận thị là 0,8% (CI 95%: 0,3-1,4; 24 HS) [44]. Gao Z. và cs. (2012) đánh giá tỷ lệ tật khúc xạ học sinh (12- 14 tuổi) ở 10 trường tại Phnom Penh và 26 trường ở Kandal (5.527 học sinh) ở Campuchia thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 6,57% (CI 95%: 5,91- 7,22%). Tỷ lệ tật khúc xạ chiếm 91,2% số mắt giảm thị lực, nguyên nhân do đục thủy tinh thể là 1,7% và các nguyên nhân khác là 7,1%. Tỷ lệ cận thị (KXCTĐ≤ -0,50D) có liên quan với sự tăng độ tuổi, giới tính nữ và trường học ở thành thị. Tỷ lệ tật khúc xạ, đặc biệt là cận thị tương đối thấp so với các báo cáo trước đây ở châu Á. Nhưng đa số học sinh không được điều chỉnh kính, do vậy cần phải can thiệp bằng đeo kính [57]. 15 1.3.2. Tình hình tật khúc xạ ở Việt Nam 1.3.2.1. Trước năm 1990 Trước những năm 60 của thiên niên kỷ trước, Việt Nam chưa có các nghiên cứu hoặc điều tra về tình hình tật khúc xạ nói chung và cận thị học đường nói riêng. Năm 1966, Ngô Như Hòa điều tra trên 10.823 học sinh miền Bắc Việt Nam thấy tỷ lệ mắc cận thị là 4,2%. Tỷ lệ cận thị ở học sinh thành phố là 5,1% và ở nông thôn là 1%. Cận thị được phân bố theo các cấp học như sau: Tiểu học (cấp I) có tỷ lệ mắc là 2,1%; trung học cơ sở (THCS) (cấp II) có tỷ lệ mắc là 4,2% và trung học phổ thông (THPT) (cấp III) có tỷ lệ mắc là 9,6% [8]. Năm 1980, Hà Huy Tiến nghiên cứu trên 3.929 học sinh ở thành phố và nông thôn thấy tỷ lệ cận thị là 5%, tỷ lệ này tăng dần từ lớp mẫu giáo (1,7%) lên theo cấp học và ở lớp 12 tỷ lệ cận thị là 12%. 1.3.2.2. Từ năm 1991 đến nay Từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về cận thị học đường, các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ cận thị ở học sinh có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt là ở vùng đô thị. * Hà Nội: Kết quả điều tra tình hình mù lòa trong nhân dân Hà Nội của Nguyễn Thị Nhung năm 1993 -1994 cho thấy tỷ lệ cận thị ở học sinh tiểu học là 1,57%, ở THCS là 4,57% và ở THPT là 10,34%. Riêng học sinh trường chuyên Amsterdam có tỷ lệ cận thị là 28,5%. Trần Văn Dần và cs. (1998) thấy tỷ lệ cận thị học đường ở học sinh Hà Nội đã tăng lên rõ rệt: ở tiểu học là 9,6%, ở THCS là 36,5% và ở THPT là 24% [14]. Nghiên cứu của Trung tâm Mắt Hà Nội năm 1998 trên 3.038 học sinh cho thấy học sinh tiểu học có tỷ lệ mắc cận thị là 10,3%; học sinh THCS là 15,9% và THPT là 20,2%. Năm 2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng tiến hành nghiên cứu cận thị ở học sinh phổ thông Hà Nội khối tiểu học tỷ lệ là 11,3%; THCS là 23,3%; PTTH là 29,8% [1]. Hoàng Văn Tiến ( 2003) nghiên cứu cận thị học đường ở 3 trường tiểu học Hà Nội thấy tỷ lệ cận thị 32,3%, trong đó 84,5% là cận thị nhẹ, 15,2% là cận thị nặng. Vũ Thị Hoàng Lan và cs. (2012) điều tra 332 HS tại trường THCS Phan Chu Trinh, quận Ba Đình thấy tỷ lệ cận thị là 50,3% [10]. Nguyễn Thị Mai Lý và cs. (2012) nghiên cứu trên 250 học sinh (5- 18 tuổi) đến khám tại bệnh 16 viện Mắt Trung ương được chẩn đoán cận thị thấy tỷ lệ cận thị cao nhất ở học sinh tiểu học (55,2%), khúc xạ cầu tương đương là -2,8D ± 1,53 [13]. * Thành phố Hồ Chí Minh: Nghiên cứu của Hoàng Thị Lũy và cs. (1998) cho thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 30,5% (cận thị là 20% và loạn thị là 8%). Năm 1999, Hoàng Thị Lũy và cs. thấy tỷ lệ CTHĐ ở học sinh THCS và THPT) là 28%, tăng gấp 3 lần so với năm 1994 và đang có chiều hướng tăng lên [12]. Trần Hải Yến và cs (2006) nghiên cứu trên 3.444 học sinh ở 29 trường trong 4 quận thấy tỷ lệ cận thị là 17,2% [31]. Võ Thị Ngọc Thúy và cs. (2008) khảo sát 1.158 trẻ tại các trường mẫu giáo Quận 4, thấy tỷ lệ tật khúc xạ là 4,1%; trong đó cận thị là 3,4% . Trần Minh Tâm và cs. (2007nghiên cứu trên 1.163 HS cấp 2 ở Quận 9, thấy tỷ lệ cận thị là 16,11% và có mối liên quan giữa cận thị và giới tính với OR: 0,45 (CI 95%: 0,32-0,64) [19]. Lê Thị Thanh Xuyên và cs. (2009) khảo sát 2.747 HS ở 20 trường (715 tuổi) thấy tỷ lệ tật khúc xạ chung là 39,35%. Trong đó cận thị là 38,88%, viễn thị là 0,47%, loạn thị là 30,4%. Tỷ lệ bất đồng khúc xạ (khúc xạ cầu tương đương 2 mắt chênh nhau >1D) là 6%; khúc xạ cầu tương đương 2 mắt chênh >3D là 3,64%. Tỷ lệ viễn thị giảm theo cấp lớp: 0,74% (cấp 1), 0,27% (cấp 2), 0,18% (cấp 3) [30]. * Các khu vực khác: Hải Phòng: Nguyễn Thị Minh Hằng và cs. (2004) khám mắt cho 1.450 học sinh các cấp bằng máy đo khúc xạ tự động có liệt điều tiết cho thấy tỷ lệ cận thị là 23,4%; tỷ lệ mắc cận thị học đường cao nhất ở cấp THCS. Nghiên cứu của Đặng Anh Ngọc (2009) cho thấy tỷ lệ mắc cận thị của học sinh tiểu học, THCS ở Hải Phòng khá cao (tỷ lệ có xu hướng tăng, tỷ lệ thuận theo khối lớp ở cả nội thành và ngoại thành; Nội thành: tỷ lệ cận thị từ 9,32 – 37,42%; Ngoại thành: tỷ lệ cận thị: 0- 5,66%) [14]. Bắc Ninh: Phạm Hồng Quang và cs. (2011) nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 757 học sinh lớp 6 đến lớp 8 thấy tỷ lệ cận thị là 20,3% [17]. Thái Nguyên: Vũ Quang Dũng (2001) thấy tỷ lệ cận thị nói chung là 7,16%. Gần đây, Vũ Quang Dũng (2013) tiếp tục nghiên cứu tại 4 trường ở Thái Nguyên thấy tỷ lệ cận thị là 16,8% [5]. Bắc Kạn: Mai Quốc Tùng và cs. (2011) điều tra tật khúc xạ bằng máy đo khúc xạ tự động sau khi tra thuốc liệt điều tiết 30 phút cho 3.580 học sinh từ lớp 1 đến lớp 12 thấy tật khúc xạ chiếm 82,86% tổng số nguyên nhân gây giảm thị lực, trong đó chủ yếu là cận thị [28]. 17 Huế: Nguyễn Hữu Nghị và cs. (2007) thấy tỷ lệ cận thị học đường ở nam giới là 17,09% và ở nữ là 23,30%. Đà Nẵng: Hoàng Ngọc Chương và cs. (2010) nghiên cứu 1.100 sinh viên học tại Trường Cao đẳng Kỹ thuật Y tế II thấy tỷ lệ giảm thị lực là 21,6%, trong đó do tật khúc xạ chiếm 99,6% và 0,4% do đục thể thuỷ tinh. 1.3.3. Một số yếu tó liên quan đén tật khúc xạ Các yếu tố liên quan đến cận thị cho đến hiện nay vẫn đang còn có nhiều tranh luận. Tuy nhiên, các tác giả cũng đã thống nhất rằng sự phát sinh cận thị là sự kết hợp của nhiều yếu tố nguy cơ, trong đó các yếu tố quan trọng đó là di truyền và môi trường, lối sống [36], [40], [84]. 1.3.3.1. Yếu tố di truyền và gia đình Các nghiên cứu về di truyền liên quan đến cận thị thường được tiến hành trên những trẻ sinh đôi, nghiên cứu phả hệ và các mối liên quan trong quan hệ gia đình [33], [85], [140]. Theo các nghiên cứu thì có tới 60% các trường hợp bị tật khúc xạ là do yếu tố di truyền. Những trường hợp bị cận thị nhẹ hoặc trung bình có thể di truyền nhiều gen còn cận thị nặng có thể di truyền một gen trong một số trường hợp cận thị nặng kiểu di truyền là gen trội, lặn. Trong các nghiên cứu ở học sinh sinh đôi 1 hợp tử cho thấy có sự phù hợp ở những trường hợp có độ cận thị nhẹ: 74% cặp sinh đôi có sự khác biệt ít hơn 0,5D [127], [135]. Krause U. H. và cs. (1993), Hui J. và cs. (1995) và nhiều tác giả khác cho rằng tỷ lệ mắc cận thị ở trẻ có cả bố và mẹ bị cận thị nặng cao hơn so với những trẻ có bố mẹ không mắc cận thị [67], [80]. Wu M. (1999) nghiên cứu ở 3.131 học sinh Trung Quốc (7- 17 tuổi) thấy nếu ít nhất một trong các ông bà bị cận thị, tỷ lệ bị cận thị ở con và cháu họ là 6,71% (CI 95%: 5,58- 8,06%) và 1,85% (CI 95%: 1,57- 2,19). Nếu cả hai ông bà bị cận thị, tỷ lệ bị cận thị ở con/cháu tăng lên 12,85% (CI (95%: 8,77- 18,81) và 2,96% (CI 95%: 2,26-3,87) [128]. Nhiều nghiên cứu cho thấy từ 33% - 60% tỷ lệ cận thị ở trẻ có cả bố và mẹ đều mắc cận thị. Ở những trẻ có một người (cha hoặc mẹ) thì bị cận thị từ 23% - 40%. Trong khi đó ở những trẻ không có cả cha và mẹ bị cận thị thì tỷ lệ các em mắc cận thị chỉ có 6% - 15%. Sự khác nhau này có mối liên quan đến tiền sử cận thị của cha/mẹ trong những năm đầu đi học. Czepita D. và cs. (2011) nghiên cứu trên 5.533 học sinh (2659 nam và 2874 nữ; từ 6- 18 tuổi: 11,9 ± 3,2 tuổi) thấy tỷ lệ cận thị (KXCTĐ ≤-0,5D) 18 cao hơn ở những học sinh có cha (p<0,001), mẹ (p<0,001) hoặc anh/chị/em ruột (p<0,0001) mắc cận thị. Không thấy có mối liên quan giữa sự xuất hiện cận thị ở ông bà với các cháu (p>0,05) [49]. 1.3.3.2. Yếu tố chủng tộc Kleinstein R. N. và cs. (2003) nghiên cứu trên 2.523 học sinh từ 5 đến 17 tuổi ở 4 nhóm dân tộc (người Mỹ gốc Phi, người gốc châu Á, người gốc Tây Ban Nha và người da trắng), kết quả cho thấy có sự khác biệt đáng kể về cận thị giữa các nhóm dân tộc: người gốc Châu Á có tỷ lệ cận thị cao nhất (18,5%), tiếp đến là người gốc Tây Ban Nha: 13,2%; người da trắng và người Mỹ gốc Phi có tỷ lệ cận thị gần như nhau (4,4% và 6,6%) [78]. Học sinh da trắng Châu Âu có độ viễn thị cao nhất, (KXCTĐ: 0,82D) và trục nhãn cầu ngắn nhất (23,23 mm). Học sinh gốc Đông Nam Á có mức độ cận thị cao nhất: khúc xạ cầu tương đương (-0,6 D) và chiều dài trục nhãn cầu lớn nhất (23,86 mm) [78]. Điều tra của nhóm Nghiên cứu các bệnh mắt học sinh đa chủng tộc (Multi-Ethnic Pediatric Eye Disease Study Group, 2010) trên 2.994 học sinh Mỹ gốc Phi và 3.030 trẻ em gốc Tây Ban Nha (6 đến 72 tháng tuổi) ở Los Angeles, California bằng máy đo khúc xạ tự động cho thấy tỷ lệ cận thị (KXCTĐ ≤ -1,0D) ở học sinh Mỹ gốc Phi (6,6%) cao hơn so với gốc Tây Ban Nha (3,7%, p<0,001). Tỷ lệ viễn thị (KXCTĐ ≥ + 2,0D) ở học sinh gốc Tây Ban Nha lại cao hơn học sinh Mỹ gốc Phi (26,9% so với 20,8%, p<0,001). Tỷ lệ cận thị có xu hướng giảm theo tuổi (p<0,001). Tỷ lệ viễn thị đạt mức thấp ở 24 tháng tuổi và tăng cao sau đó. Tỷ lệ tật khúc xạ cả hai giới có sự khác biệt đáng kể ở cả hai chủng tộc [94]. Trong khuôn khổ của chương trình CLEERE (Collaborative Longitudinal Evaluation of Ethnicity and Refractive Error Study), Mutti D. O. và cs. (2011) theo dõi dọc 2.043 học sinh lớp 3 chưa bị cận thị (8,8 ± 0,52 tuổi) từ năm 1995 đến năm 2007. Trong đó có 324 học sinh khi lên đến lớp 8 đã bị cận thị. Kết quả nghiên cứu cho thấy có liên quan giữa viễn thị tương đối với sự khởi phát của cận thị ở học sinh lớp 8 theo nhóm dân tộc (học sinh gốc châu Á: OR= 1,56; CI 95%: 1,06- 2,30; học sinh Mỹ gốc Phi: OR = 0,75, CI 95%: 0,58- 0,96; học sinh gốc Tây Ban Nha, Mỹ bản địa và da trắng không có liên quan đáng kể). Tiến triển cận thị là -0,024 D/năm [96]. Kleinstein R. N. và cs. (2012) điều tra ở 4.556 học sinh (5- 16 tuổi) không mắc cận thị trong giai đoạn 1989 đến 2009 thấy có 749 học sinh (16,4%) mắc cận thị mới. Tỷ lệ mắc cận thị mới ở các chủng tộc người châu Á 19 (27,3%), người Tây Ban Nha (21,4%) cao hơn so với các chủng tộc người Mỹ bản địa (14,5%), người Mỹ gốc Phi (13,9%) và người da trắng (11%) [79]. Nghiên cứu của Bakar N.F. (2012) ở 293 học sinh bản địa Iban và người Mã Lai ở miền Đông Malaysia thấy tỷ lệ tật khúc xạ và giảm thị lực là 47,7% và 3,5%. Trong số các tật khúc xạ , 97,1% là cận thị. Học sinh người Mã Lai có tỷ lệ cận thị nhiều hơn người bản địa Iban (U= 8240,50, p<0,05, r= 0,14) [37]. French A. N. và cs. (2013) nghiên cứu thuần tập trên 2.760 học sinh ở hai nhóm tuổi (12 tuổi: 870 học sinh và 17 tuổi: 1.202 học sinh) thấy học sinh thuộc chủng tộc người Đông Á có tỷ lệ mắc cận thị hàng năm (nhóm 12 tuổi: 6,9%; nhóm 17 tuổi: 7,3%) cao hơn so với nhóm học sinh châu Âu da trắng (nhóm 12 tuổi: 1,3%; nhóm 17 tuổi: 2,9%; p<0,0001) [56]. 1.3.3.3. Yếu tố giới tính Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ cận thị ở nữ cao hơn so với nam trong những trường hợp bị cận thị bệnh lý, còn trong những trường hợp cận thị đơn thuần thì không có sự chênh lệch đáng kể. Lứa tuổi có tỷ lệ tăng nhiều nhất ở HS nữ là từ 9- 10 tuổi, còn ở nam là từ 11- 12 tuổi. Nghiên cứu Sperduto R. D. và cs. (1983) tại Mỹ cho thấy ở người da trắng thì tỷ lệ cận thị ở nữ cao hơn so với nam và tỷ lệ này ở người da trắng cũng cao hơn so với người da đen [74], [104], [117]. Lin L. L. và cs. (2000) nghiên cứu ở Đài Loan thấy khúc xạ cầu tương đương của nhóm học sinh nữ 18 tuổi là - 4,12 D và ở học sinh nam là -3,15 D. Tỷ lệ cận thị mức độ nặng (> -6,0 D) ở học sinh nữ (24%) và cao hơn học sinh nam (18%) [87]. Villarreal G. M. và cs. (2003) nghiên cứu trên 1.305 học sinh (12- 13 tuổi) thấy tỷ lệ cận thị ở nữ cao hơn so với nam (49% và 38%) [124]. Nghiên cứu của Morgan A. và cs. (2006) cho thấy tỷ lệ cận thị ở học sinh nữ (8,3%; CI 95%: 6,0- 10,6%) cao hơn học sinh nam (3,1%; CI 95%: 1,6- 4,6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ở nhóm cận thị, mức độ cận thị trung bình của cả hai giới là -0,75D; Khúc xạ cầu tương đương ở nhóm học sinh nữ dao động từ -0,50 đến -28,0D và ở nhóm học sinh nam dao động từ -0,50D đến -6,50D [92]. Al Wadaani F. A. và cs. (2012) nghiên cứu trên 2.246 học sinh tiểu học (6- 14 tuổi) thấy tỷ lệ tật khúc xạ ở nữ cao hơn so với nam (OR= 1,39; p<0,05) [32]. 20 Guo Y. H. và cs. (2012) thấy nữ có tỷ lệ mắc cận thị cao hơn so với nam giới ở lứa tuổi dưới 40 tuổi (p<0,001). Kleinstein R. N. và cs. (2012) [79] điều tra ở 4.556 học sinh (5 - 16 tuổi) thấy nữ có tỷ lệ mắc mới (18,5%) cao hơn so với nam giới (14,5%). Nghiên cứu của Bakar N. F. (2012) ở học sinh người Iban (Malaysia) cho thấy tỷ lệ cận thị ở nữ nhiều hơn nam (OR= 2,327; CI 95% = 1,184 - 4,575; p<0,05) [37]. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Trần Hải Yến (2006) trên 3.444 học sinh thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ cận thị là 17,2, trong đó tỷ lệ các em nữ cao hơn so với các em nam (25,3% và 15,3%). Vũ Quang Dũng (2013) nghiên cứu ở học sinh Thái Nguyên cũng thấy nữ có tỷ lệ cận thị (21,6%) cao hơn so với nam (12,5%) (p<0,001) [5], [31]. 1.3.3.4. Yếu tố tuổi và cấp học Ở mắt người chưa trưởng thành và phát triển, muốn giảm tật khúc xạ thì phải thông qua một cơ chế chưa rõ ràng gọi là chính thị hóa (emmetropization), sự bù trừ bằng giảm công suất giác mạc và thể thủy tinh đã ngăn cản sự xuất hiện tật khúc xạ tương ứng ở phần lớn đối tượng [2], [87], [142]. Phần lớn trẻ mới sinh đều viễn thị hoặc chính thị, Hiện nay, chưa xác định được là có phải viễn thị ban đầu tăng, sau đó giảm xuống trong năm đầu tiên (nghiên cứu dọc) hay giảm đều đặn (nghiên cứu ngang). Ở những trẻ mới sinh có viễn thị nhẹ đến khi lớn lên trỏ thành chính thị hoặc cận thị. Còn ở những trẻ bị viễn thị nặng thì vẫn còn viễn thị hoặc trở thành viễn thị nhẹ hơn. Hầu hết những nghiên cứu trên trẻ em cho thấy tỷ lệ cận thị thấp. Một nghiên cứu ở trẻ 6- 8 tuổi cho thấy chỉ có 3% số trẻ bị cận thị, tỷ lệ chính thị cao hơn. Năm 2000, Lin L. L. và cs. (2000) khảo sát trên 10.889 học sinh (7- 18 tuổi) thấy tỷ lệ cận thị tăng theo lứa tuổi: từ 20% (7 tuổi) đến 61% (12 tuổi), 81% (15 tuổi) và 84% (16- 18 tuổi). Nghiên cứu của Murthy G. V. (2002) trên 6.447 học sinh tại New Delhi cho thấy tỷ lệ cận thị thấp nhất ở nhóm 5 tuổi (6,4%) và cao nhất ở lứa tuổi 15 (10,8%). He M. và cs. (2004) thấy tỷ lệ cận thị ở học sinh 5 tuổi là 3,3%; nhưng đến 15 tuổi thì tỷ lệ cận thị đã tăng lên là 73,1%, các tác giả này đều cho rằng tỷ lệ cận thị gia tăng liên quan tới áp lực học tập và tăng chiều dài trục nhãn cầu khi trẻ lớn lên [66], [87], [95]. Fan D. S. và cs. (2004) nghiên cứu cắt ngang và theo dõi dọc trong 12 tháng trên 7.560 học sinh ở Hồng Kông (5- 16 tuổi) thấy tỷ lệ cận thị tương quan với độ tuổi. Nguy cơ cao nhất ở nhóm trẻ 11 tuổi (OR= 2,27; CI 95%: 2,11- 2,44). Sự thay đổi khúc xạ cầu tương đương đối với học sinh bị cận thị
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan