Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu kinh giáng bút của thiện đàn cuối thế kỷ xix đầu thế kỷ xx...

Tài liệu Nghiên cứu kinh giáng bút của thiện đàn cuối thế kỷ xix đầu thế kỷ xx

.PDF
284
799
57

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN QUANG HUY NGHIÊN CỨU KINH GIÁNG BÚT CỦA THIỆN ĐÀN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX Chuyên ngành: Hán Nôm Mã số: 62 22 01 04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Khoái HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Các nguồn tư liệu, thông tin có liên quan đến đề tài do các nhà khoa học trước đây nghiên cứu, thực hiện, khi trích dẫn, tôi đều trích nguồn một cách trung thực, rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của luận án. Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2016 Tác giả luận án Trần Quang Huy DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT - HV: Hán văn. - QA: quốc âm. - TVQGVN: Thư viện Quốc gia Việt Nam. - VNCHN: Viện Nghiên cứu Hán Nôm. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG TRIỂN KHAI CỦA LUẬN ÁN ............................... 6 1.1. Giới thuyết một số từ ngữ và khái niệm được sử dụng trong luận án ................. 6 1.2. Các bình diện có liên quan đến đề tài đã được nghiên cứu .............................. 17 1.3. Hướng nghiên cứu của đề tài .......................................................................... 24 Tiểu kết chương 1 .................................................................................................. 25 CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT VĂN BẢN KINH GIÁNG BÚT CỦA THIỆN ĐÀN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX ............................................................ 27 2.1. Danh mục kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ....... 27 2.2. Các bộ phận cấu thành kinh giáng bút............................................................. 40 2.3. Phân loại kinh theo cấu trúc sắp đặt ................................................................ 54 Tiểu kết chương 2 .................................................................................................. 68 CHƯƠNG 3: CHỦ THỂ, CHỦ ĐỀ VÀ THỂ LOẠI TRONG KINH GIÁNG BÚT CỦA THIỆN ĐÀN ...................................................................................... 70 3.1. Chủ thể của kinh giáng bút ............................................................................. 70 3.2. Tính chủ đề và các chủ điểm nội dung của kinh giáng bút .............................. 83 3.3. Thể loại có trong kinh giáng bút ..................................................................... 90 3.4. Tương ứng Quần Chân với thể loại, chủ đề và ngôn ngữ giáng bút ....................... 98 Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 102 CHƯƠNG 4: GIÁ TRỊ CƠ BẢN TRONG KINH GIÁNG BÚT CỦA THIỆN ĐÀN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX ................................................. 104 4.1. Giá trị tư liệu kinh giáng bút của Thiện đàn .................................................. 104 4.2. Giá trị nội dung trong kinh giáng bút của Thiện đàn ..................................... 107 4.3. Quốc văn Nôm trong kinh giáng bút của Thiện đàn ...................................... 136 Tiểu kết chương 4 ................................................................................................ 144 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ..................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 152 PHỤ LỤC Phụ lục 1: Các bảng thống kê .................................................................................. 1 Phụ lục 1.1: Bảng thống kê 117 Thiện đàn............................................................... 2 Phụ lục 1.2: Danh mục 158 văn bản kinh giáng bút lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam (có niên đại từ năm 1884 đến năm 1945)...... 6 Phụ lục 1.3: Danh sách 162 Quần Chân thuộc Đạo giáo ........................................ 65 Phụ lục 1.4: Danh sách 55 Quần Chân thuộc Phật giáo .......................................... 69 Phụ lục 1.5: Danh sách 16 Quần Chân thuộc Nho giáo .......................................... 71 Phụ lục 1.6: Danh sách 99 Quần Chân thuộc đạo Mẫu........................................... 72 Phụ lục 1.7: Danh sách 22 Quần Chân có tính huyền thoại và truyền thuyết. ......... 76 Phụ lục 1.8: Danh sách 45 Quần Chân thuộc Thành hoàng .................................... 77 Phụ lục 1.9: Danh sách 212 Quần Chân là các nhân vật lịch sử, văn hóa................ 79 Phụ lục 2: Phụ lục chữ Nôm (ảnh chụp)................................................................. 84 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn là một trong những minh chứng cho các hoạt động của Thiện đàn, một hiện tượng xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng cuốn hút nhiều tầng lớp xã hội cũng như đông đảo dân chúng vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hoạt động của Thiện đàn bao gồm trong mình nhiều phương diện như hướng mọi thiện nam tín nữ nói chung đến với điều thiện; hướng họ đến những vấn đề cấp bách của xã hội đương thời; thầm kín và bằng cách của mình thể hiện những vấn đề về số phận và hoàn cảnh quốc gia dân tộc… Những điều đó được phản ánh khá rõ trong các tài liệu có tính minh chứng là kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn. Với số lượng 158 văn bản, tác phẩm kinh giáng bút của Thiện đàn trong giai đoạn những thập niên nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hiện còn được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam, đó thực sự là một trong những chứng tích có tính minh chứng cao. Tìm hiểu chúng không chỉ nhằm làm rõ các đặc điểm chủ yếu của nhóm văn bản, tác phẩm này mà còn cung cấp một nguồn tư liệu thư tịch cho các công trình nghiên cứu về xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, giai đoạn giao thời Âu - Á, giai đoạn có nhiều hiện tượng xã hội mang tính chuyển đổi từ xã hội phong kiến sang xã hội cận hiện đại dưới ách của chế độ thực dân phong kiến. Do vậy, chúng tôi chọn vấn đề Nghiên cứu kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ Hán Nôm của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Lập danh mục kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia 1 Việt Nam. Đồng thời, phân tích các thành tố có trong danh mục đó theo một số chỉ số có tính cấu trúc như: cấu trúc tên gọi, cấu trúc sắp đặt các bộ phận của kinh. Qua đó, làm cơ sở cho việc tìm hiểu những đặc điểm của loại hình văn bản, tác phẩm kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như: chủ thể, chủ đề, thể loại của loại hình văn bản, tác phẩm kinh giáng bút; từ đó đề cập đến một số giá trị của nhóm văn bản, tác phẩm này. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thống kê, hệ thống hóa và lập danh mục các kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam theo các chỉ số thông tin phục vụ cho việc nắm bắt văn bản, tác phẩm; - Khảo sát, giám định và xử lý văn bản kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam; - Phân tích danh mục, phân tích cấu trúc tên, cấu trúc có tính sắp đặt trên các phương diện như cách thức trình bày, cấu trúc mục lục để tạo nên một sự hình dung tổng quát về các bộ phận cấu thành một kinh giáng bút; - Phân tích các đặc điểm của kinh giáng bút trên các phương diện: chủ thể văn bản, đối tượng mà văn bản hướng vào, các vấn đề được văn bản hóa hay các chủ đề nội dung của kinh giáng bút, các thể loại được sử dụng trong kinh giáng bút; - Khai thác giá trị kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam trên một số phương diện chủ yếu như: giá trị tư liệu, giá trị nội dung và giá trị tư liệu cho sự tìm hiểu về quốc văn Nôm trong kinh giáng bút của Thiện đàn; - Biên dịch một số văn bản, tác phẩm kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các văn bản, tác phẩm kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở hai phương diện sau đây: - Phạm vi về thời gian: cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mà theo đó, luận án chỉ đề cập đến những văn bản và tác phẩm kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn có niên đại từ năm 1884 đến năm 1945. - Phạm vi về tư liệu: kinh giáng bút của Thiện đàn từ hai nguồn: Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án quán triệt các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc sưu tầm, bảo tồn, nghiên cứu khai thác và phát huy vốn thư tịch cổ, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, luận án vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp văn bản học Hán Nôm nhằm sưu tập kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn, giám định văn bản và công bố tư liệu. - Phương pháp nghiên cứu ngữ văn Hán Nôm nhằm phiên âm và dịch nghĩa, phiên Nôm, cũng như các nguyên tắc phân tích văn bản, tác phẩm từ góc nhìn của soạn thảo văn bản. 3 - Phương pháp nghiên cứu trường hợp có tính đại diện. - Cách tiếp cận liên ngành nhằm khai thác và phát huy giá trị nội dung nguồn tư liệu Hán Nôm về kinh giáng bút. 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án có những đóng góp mới sau đây: - Lập danh mục văn bản, tác phẩm kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam có ghi niên đại in ấn từ sau năm 1884 đến năm 1945 theo các chỉ số mang tính thông tin, phục vụ cho việc nắm bắt nguồn tư liệu trên cơ sở đã làm rõ các khái niệm có liên quan đến đối tượng của đề tài. - Phân tích danh mục theo các chỉ số, làm nổi bật kết cấu tên kinh, cấu trúc sắp xếp và các bộ phận cấu thành của kinh qua phân tích kết cấu mục lục. - Nêu lên một số đặc điểm cơ bản của văn bản kinh giáng bút trên các phương diện như: xác định chủ thể của giáng bút; xác lập các vấn đề được văn bản hóa trong kinh giáng bút trong mối quan hệ: chủ thể văn bản, đối tượng văn bản hướng vào cũng như các vấn đề về phương diện thể loại của kinh giáng bút. - Nghiên cứu giá trị kinh giáng bút trên một số bình diện chủ yếu như: giá trị tư liệu, giá trị nội dung, quốc văn Nôm trong kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần làm nâng cao nhận thức về giá trị kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn trong vai trò như là một nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu các vấn đề về lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của người Việt Nam trong việc vận dụng các nhân tố vốn có trong các điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể cho 4 các hoạt động phát triển giáo dục, văn hóa và nâng cao lòng yêu nước cho người dân. Đề tài đã cung cấp một trải nghiệm lịch sử, thực tiễn giáo dục khuyến thiện, vận động xã hội và tuyên truyền yêu nước mà người Việt đã làm vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua văn bản kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung của luận án được chia làm 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và hướng triển khai của luận án Chương 2: Khảo sát văn bản kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Chương 3: Chủ thể, chủ đề và thể loại trong kinh giáng bút của Thiện đàn Chương 4: Giá trị cơ bản trong kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG TRIỂN KHAI CỦA LUẬN ÁN Chương này nhằm giới thuyết một số từ ngữ và khái niệm mà luận án sử dụng, cũng như tổng quan những thành tựu mà các giới nghiên cứu đã đạt được trong nghiên cứu về kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX để từ đó đưa ra hướng triển khai của luận án. 1.1. Giới thuyết một số từ ngữ và khái niệm được sử dụng trong luận án Để tiến hành tổng quan những nghiên cứu có liên quan đến đề tài, cần phải giới thuyết một số từ ngữ và khái niệm có tính then chốt của đề tài mà trọng tâm là Thiện đàn, kinh giáng bút của Thiện đàn cũng như giới hạn thời gian kinh giáng bút của Thiện đàn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho đề tài luận án. 1.1.1. Thiện đàn Thiện đàn 善壇 là khái niệm hay cách gọi được dùng để trỏ các đàn được lập ra nhằm hướng con người đến với điều thiện, làm điều thiện theo cách tự trách, cảnh báo, giới trừng con người về đường họa phúc. “積善之家必有餘慶. 積不善之家必有餘殃. Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Nhà tích thiện ắt thừa phúc lớn. Nhà tích điều chẳng thiện ắt có thừa tai họa”. Đền Ngọc Sơn là trụ sở của Hội Hướng Thiện, hội của những người thờ Văn Xương Đế Quân có thể được xem là một trong những đàn khuyến thiện có quy mô tổ chức sớm nhất. Nhiều câu đối ở đền Ngọc Sơn thể hiện tinh thần này: “天上主司有眼單看心田. 人間文字無權全憑陰德. Thiên thượng chủ tư hữu nhãn đan khán tâm điền. Nhân gian văn tự vô quyền toàn bằng âm đức. Chuyện chữ nghĩa ở chốn nhân gian chẳng có sức mạnh quyền hành gì 6 mà chỉ toàn dựa vào âm đức. Quan chủ tư trên trời có mắt, chỉ nhìn xét cõi lòng mà thôi”. Quan chủ tư ở đây là Văn Xương Đế Quân, chủ quản sĩ nhân lộc mệnh. Lúc đầu, hoạt động cầu phúc ở các đàn có phần mê tín, chỉ gắn liền với các hoạt động của Đạo giáo. Tại các cung quán của Đạo giáo thường diễn ra các cuộc cầu phúc trừ tai, mong muốn mọi điều may mắn mang sắc thái thần linh, ảo diệu và có những bản kinh của Đạo giáo (Kinh Âm chất, Kinh Văn Xương Đế Quân, Kinh Quan Thánh Đế Quân…) đọc giảng cho mọi thiện nam, tín nữ. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các cuộc giáng bút, giảng thiện không còn giới hạn ở các đền của Đạo giáo nữa mà nó được tổ chức ở các Thiện đàn. Thiện đàn xuất hiện ở nhiều tỉnh thành khác nhau như: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình v.v.. với nhiều tên gọi cụ thể như: Chính Tâm đàn 正心壇, Lạc Đạo đàn 樂道壇, Hội Thiện đồng 會善仝, Phổ Thiện đường 普善堂, Khuyến Thiện đàn 勸善壇, Thất Diệu đàn 七妙壇, Vi Thiện đàn 爲善壇, Lạc Thiện đường 樂善堂, Công Thiện đường 公善堂… Theo thống kê bước đầu của chúng tôi qua các tập kinh giáng bút hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) và Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN), vào thời điểm bấy giờ có 117 Thiện đàn có ấn loát kinh giáng bút (xin xem phụ lục 1.1). Theo Thiên thu kim giám chân kinh 千秋金鑑真經, AB.250 của đường Hướng Lạc Hợp Thiện đường, phố Phù Liên, tỉnh Thái Nguyên thì Văn Xương Đế Quân có chỉ thị về cách tổ chức đàn này như sau: “Nay ta đưa ra quy thức truyền lại, các ngươi hãy kính cẩn mà làm theo. Phía trên điện, kính cẩn mà bố trí tôn vị Ngọc Hoàng rồi đến tôn vị đức Thánh. Lư hương có thắp hai ngọn nến. Hương, hoa quả, vật phẩm mọi đồ cúng lễ phải thật tinh khiết, thanh tịnh. Lấy sự thành kính để mong được hồng ân. Ngoài Cấm môn, đặt một hương án để thờ các vị thần ở điện Thống Minh và các bộ Tam cung phối 7 theo. Bên tả, ở ban trên thờ Trần vương (Trần Hưng Đạo đại vương), Đổng vương (Phù Đổng Thiên Vương); Ban giữa thờ Tản Viên thần, Lý Tôn thần (Lý Phục Man); Ban dưới thờ Nhị thập bát tú (dùng 28 ngọn đèn). Bên hữu, ở ban trên thờ Dao Trì Vương Mẫu; Ban giữa thờ Quán Âm Bồ Tát và Vân Hương Thánh Mẫu; Ban dưới thờ các công chúa nước Nam (các nữ thần phối theo Thánh Mẫu trời Nam). Ngoài sân có bày một hương án thờ các thần trung nghĩa âm dương (cả nam lẫn nữ). Kê bút, dùng một cành đào mọc ở phương Đông dài 3 thước, chu vi 3 tấc, đầu lấy 3 vuông vải sô màu vàng bọc lại. Phía trên có xuyên một lỗ, lấy tơ ngũ sắc bện dây, xâu qua đầu ra 2 bên. Mỗi bên tả hữu cho một tiểu đồng cầm đầu dây. Ở dưới kê bút đặt cái long kỷ cao 3 thước. Trên kỷ đặt bàn gỗ bọc vải đỏ, duy trước mặt chừa một lỗ nhỏ. Bên kê bút, có Quan Thánh đế cầm thanh long đao đứng hầu để nhận chữ (chữ được viết trên gạo hoặc trên cát đặt trên mâm). Văn, Lã nhị vị đứng hầu hai bên tả và hữu. Bên hữu cấm môn có sự xuất hiện của Đổng vương cầm gươm dài đứng hầu. Ngoài đàn, có thiên khu giám sát. Ngoài đàn, Trấn quan giám sát. Phàm từ Ngọc giá đến các liệt thần đều dùng trang phục khăn mũ mang dải chỉnh tề. Mọi người không được tùy tiện qua lại, to nhỏ. Lời nói của các tả hầu giá liệt thần, tất cả đều phải nghe1”. Từ sự trình bày ở trên, có thể mô hình hóa cách tổ chức Thiện đàn này như sau:  Phía trên hết chính giữa (chính giữa cao trên hết) đặt tôn vị Ngọc Hoàng 1 文昌帝君示:“….玆將规式傳示生等敬而.咱之一臺之上殿敬設玉皇尊位至聖尊位.爐香二黄臘 ,二香花菓,品務潯清潔.以彰敬意以沐鸿恩.通明殿列神,三宮列部從配之.一左院上班奉陳王董王.中 班奉,傘大王李尊神.下班奉二十八宿.(灯用二十八板).一右院上班奉瑤宮王母.中班奉觀音佛祖,雲 鄕聖母.下班奉南邦諸公主配之.一庭外設一香案,一爐香以奉陰陽(忠義列神).一乩筆用東方桃枝長 三尺,周圍三寸,管首以黄縐三方色之上穿一孔以五色絲結懸屋上去一寸下穿一孔.亦用五色絲貫之穿 出園外左右一小童捧絲頭筆下置.關聖帝,認字刀用黄縐三方包之.文呂二帝侍立左右,皆用新捐红絹 長袖衣帯各一.一禁門之左陳王推長劍侍立.一禁門之右董王樞長劍侍立.一外壇天樞檢察.外壇鎮官 檢察.凡代玊駕臨辰各司其聴不潯往来嘈雜右侯駕列神一一欽此. 8  Ngoài cấm môn đặt hương án thờ các vị thần ở điện Thống Minh và các bộ Tam cung phối theo.  Bên tả: Ở ban trên thờ Trần Hưng Đạo đại vương (Trần Vương), Phù Đổng Thiên Vương (Đổng Vương); Ban giữa thờ Tản Viên thần, Lý Tôn thần (hay còn gọi là Lý Phục Man); Ban dưới thờ Nhị thập bát tú.  Bên hữu: Ở ban trên thờ Dao Trì Vương Mẫu; Ban giữa thờ Quán Âm Bồ Tát và Vân Hương Thánh Mẫu; Ban dưới thờ các công chúa nước Nam (các nữ thần phối theo Thánh Mẫu trời Nam).  Ngoài sân có bày một hương án thờ các thần trung nghĩa âm dương (cả nam lẫn nữ).  Kê bút: dùng một cành đào mọc ở phương Đông dài 3 thước, chu vi 3 tấc, đầu lấy 3 vuông vải sô màu vàng bọc lại. Phía trên có xuyên một lỗ, lấy tơ ngũ sắc bện dây, xâu qua đầu ra 2 bên. Mỗi bên tả hữu cho một tiểu đồng cầm đầu dây. Ở dưới kê bút, đặt cái long kỷ cao 3 thước. Trên kỷ đặt bàn gỗ bọc vải đỏ, duy trước mặt chừa một lỗ nhỏ. Bên kê bút, có Quan Thánh đế cầm thanh long đao đứng hầu để nhận chữ (chữ được viết trên gạo hoặc trên cát đặt trên mâm). Văn, Lã nhị vị đứng hầu hai bên tả và hữu. Bên hữu cấm môn có sự xuất hiện của Đổng vương cầm gươm dài đứng hầu. Sự bài trí như thế đã tạo nên vẻ thành kính, trang nghiêm, thần bí của Thiện đàn. Đấy là ở một Thiện đàn có tầm cỡ quy mô. Còn ở các nơi khác, có thể có cách bài trí khác, nhưng tất cả đều có những sự trần thiết cần để tạo nên sự linh thiêng huyền bí. Đến với đàn là những thiện nam, tín nữ được gọi chung là chư sinh 諸生. Chư sinh là thiện nam thì được gọi là đàn sinh 壇生. Chư sinh là tín nữ thì được gọi là viên sinh 媛生. Họ như là những tín đồ của đạo Thiện. Các đấng quyền linh giáng bút thì được gọi là: Quần Chân 群真, Chư Tôn 諸尊, Liệt Thánh 列聖, Quần Tiên 群仙 v.v... 9 Bên cạnh thuật ngữ Thiện đàn, là Thiện thư là khái niệm nhằm trỏ các sách mà nội dung của nó hướng vào việc khuyến thiện, trừng ác, cảnh báo con người về họa phúc. Các sách thuộc phạm trù Thiện thư, chẳng hạn như: Âm chất văn chú chứng2 陰騭文註證; Âm chất thi văn tiên3 陰騭詩文箋 mà nội dung chủ yếu đề cập đến các vấn đề thần hóa và nhân hóa dưới màu sắc quả báo. Có thể nói, Thiện đàn và Thiện thư là hai nhân tố chủ chốt làm phương tiện quảng bá cho đạo Thiện. Các tín đồ Thiện thư, các đàn sinh, viên sinh và mọi thiện nam, tín nữ nói chung đến Thiện đàn, nghe giảng Thiện thư để mà làm các điều thiện. Vì vậy, Bảo xích tục biên chân kinh 保赤续编真經, AB.503 có lời kêu gọi hướng đến chư sinh của mình hãy đến Thiện đàn, đọc Thiện thư như sau: “Thiện đàn chiếu mát, Thiện thư võng đào”. Cũng với tinh thần đó, điều này đã được diễn tả trong một câu của Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經, AB.237 như sau: “Nay vui tới chốn Thiện đài, Bút đào4 tay viết một vài câu chơi”. 1.1.2. Kinh giáng bút Kinh giáng bút là khái niệm nhằm trỏ hệ thống các văn bản, tác phẩm có tính ngôn từ được hình thành theo quy trình cầu cơ giáng bút mang tính tâm linh, siêu việt do các Quần Chân ban giáng ở các Thiện đàn. Giáng bút 降筆 vốn khởi nguồn là một hoạt động có tính chất thần bí gắn liền với Đạo giáo, được gọi là phù cơ 扶箕, phù loan 扶鸞, phù tiên 扶仙, phù kê 扶乩... Theo như Trung Hoa Đạo giáo đại từ điển 中華道教大辭典 [98] thì 2 Sách do Cần Tư Đường biên tập, Tây Hà Đôn Mục Đường hiệu chú, in năm Thanh Đạo Quang (Trung Quốc) thứ 10 (1863). 3 Sách do Trình Quốc Nhân, đốc học Quảng Đông biên chú, in năm Thanh Quang Tự (Trung Quốc) thứ 11 (1885). 4 Bút đào: là một loại bút làm từ cành đào dùng để chép kinh giáng bút trong những buổi xin các thánh, thần giáng bút. 10 phù kê được nói đến như sau: “Phù kê 扶乩 là một loại hình chiêm bốc thời cổ đại, còn gọi là phù loan 扶鸞. Đến thời nhà Đường, giáng bút xuất hiện ngày một rộng rãi hơn. Đến triều Minh Thanh, thì rất được thịnh hành trong giới sĩ đại phu”. Như vậy, ta thấy rằng hiện tượng giáng bút xuất hiện từ khá lâu, còn niên đại của nó thì hiện vẫn chưa ai xác định được cả. Cầu cơ 求箕 xuất phát từ một truyền thuyết vào thời Nam Triều ở Trung Quốc, có một cô gái tên là Tử Cô làm thiếp trong một gia đình, bị bà vợ cả đố kỵ ghen ghét thường bắt cô phải làm những việc nặng nhọc liên quan đến thứ nhơ nhớp, bẩn thỉu. Vì quá uất ức, ngày rằm tháng giêng, Tử Cô quyết định tìm đến cái chết để tự giải phóng mình. Cho nên về sau cứ vào ngày này (tức 15 tháng giêng), người trong dân gian thường nặn tượng có dáng dấp của cô đặt ở bên cạnh chuồng lợn, nhà vệ sinh để mong muốn cô nhập vào tượng đó rồi cho hay những điều dữ lành. Lúc chuẩn bị thỉnh cô về nhập vào tượng, hoa quả rượu ngon được những người cầu cơ sắp xếp bày biện một cách chỉnh tề. Khi cô giáng trần nhập vào tượng thì cũng là lúc tượng nặn đó sẽ lung lay không ngừng. Và theo ghi chép của học giả Lưu Kính Uyển 劉敬宛 trong quyển thứ 5 của bộ sách Uyển dị 宛异 thì vào thời đại trước đời Đường, dân gian không dùng đến cầu cơ mà chỉ dùng đến tượng nặn để khấn xin nữ thần Tử Cô giáng nhập mà thôi. Sau khi bị ảnh hưởng bởi trào lưu cầu cơ giáng bút của thời nhà Đường, chuyện cầu cơ dưới thời đại nhà Tống trị vì cũng được lưu hành rộng khắp trong dân gian. Thần được người dân thỉnh về bao gồm tất cả các vị thần tiên, quỷ thần như: Ngọc Hư chân nhân 玉虚真人, Quan Vũ 關羽, Văn Xương Đế Quân 文昌帝君 v.v… Rồi từ đó, những lời giảng dụ của các thần tiên thông qua phù kê sẽ được tập hợp lại thành Đạo thư 道書 truyền thụ cho Đạo giáo. Nội dung các tác phẩm phù kê trong Đạo giáo thường là những vấn đề xoay quanh thuốc men, sự nghi hoặc, vấn đề cát hung v.v… 11 Công cụ của phép bốc tức giáng bút này chủ yếu gồm có kê giá5 乩架 được làm bằng gỗ, kê bút6 乩笔 được làm từ cây gỗ thẳng dùng để treo lên kê giá nhằm viết chữ, kê bàn7 乩盘 là một mâm cát để kê bút viết chữ lên trên. Đồng nhân 僮人: Đồng nhân là người ngồi đồng trùm khăn che kín mặt, trực tiếp cầm kê để thánh thần nhập vào giáng bút. Vị đồng nhân không phân biệt nam hay nữ, trẻ hay già. Tuy nhiên trong các buổi giáng bút, vị đồng nhân này thường là người có trình độ học vấn không phải cao, song không phải là người không biết chữ. Thông thường tại các Thiện đàn, kê bàn thường được bày ngay chính giữa, kê bút hoặc được treo lên kê giá, hoặc được người cầm kê hay còn gọi là đồng nhân trực tiếp cầm để viết. Trong các cuộc giáng bút thường có sự xuất hiện của án hương đốt hương trầm nghi ngút khói cùng điệu văn cầu du dương. Đáng chú ý, một mâm ngũ quả được bày biện chỉnh chu là việc không thể không có trong các cuộc giáng bút. Sau khi kê bút, kê bàn, kê giá vào các vị trí cố định của mình, chọn hai loan sinh đứng hầu giữ hai đầu dây kê giá. Việc đứng giữ hai đầu kê giá này 5 Kê giá 乩架: là một dụng cụ có hình chữ Y được làm từ thân cây liễu dùng để treo kê bút, giúp cho người cầm kê được thoải mái viết chữ hơn. Song chỉ có một số nơi là dùng đến kê giá, còn đâu những buổi cầu cơ giáng bút ở Việt Nam kê giá thường được thay bằng 2 đồng tử giữ hai đầu dây, hoặc đầu dây buộc kê bút sẽ treo trực tiếp lên xà nhà. 6 Kê bút 乩笔: là dụng cụ để các đồng nhân cầm viết chữ lên trên mâm gạo (mâm cát) sau khi đã được nhập thần. Kê bút thường được làm từ cành đào mọc ở phía đông. Việc những buổi giáng bút thường dùng cành đào mọc ở phía Đông làm kê bút là vì người dân trong dân gian quan niệm rằng cây đào là loại cây được trồng trong các vườn tiên. Cho nên người ta coi việc sử dụng cành đào làm kê bút để giúp cho việc cầu tiên diễn ra thuận tiện và linh ứng hơn. Kê bút đa phần dài 3 thước, chu vi 3 tấc, đầu được vót nhọn tựa như đầu ngòi bút chì bây giờ. Có kê bút thì được sơn son thếp vàng ở thân. Phía cuối kê được đục một lỗ để luồn đầu dây qua để cho 2 đồng tử mỗi người cầm một đầu. Cũng có kê bút ở đầu đẽo hình giống như mỏ con hạc, biểu tượng của sự trường sinh cho nên cũng có lúc người ta gọi kê bút là hạc bút. Phía cuối của kê bút cũng có lỗ nhưng là để luồn dây treo lên cột xà của nhà hoặc treo lên kê giá. Cũng có buổi giáng bút, kê bút được dùng một cành đào mọc ở phương đông, ở dưới bút đặt cái long kỳ cao 3 thước, trên kỳ đặt bàn gỗ đào được bọc vải có màu đỏ đồng thời có khoét một lỗ nhỏ. 7 Kê bàn 乩盤: hay còn gọi là mâm kê, một dụng cụ để đựng cát hoặc gạo giúp cho chữ mà người cầm kê viết ra sẽ được hình thành, để từ đó người thị độc đọc cho người thị tả chép lại. Trước khi cho gạo (cát) vào, mâm kê này thường được phủ một lớp vải đỏ ở dưới đáy, và khi bắt đầu cầu cơ, mâm kê này luôn đặt trước một án thờ có khói hương trầm nghi ngút. 12 nhằm góp phần giúp người cầm kê viết được chữ lên mâm không bị rung, bị hỏng nét chữ. Người được chọn làm người cầm kê sẽ tiến lại gần chỗ treo kê bút, đồng thời ngồi trước kê bàn. Người cầm kê này sẽ được phủ một lớp khăn (thường có màu đỏ) lên đầu. Hương trầm được đốt, thần chú được niệm để mời thần về giáng bút. Thần nhập vào người cầm kê để giáng bút rồi thì kê bút bắt đầu chuyển động viết thành chữ trên mâm cát. Lúc này, hai người ngồi hai bên người cầm kê, hay còn gọi là người hầu bút sẽ bắt đầu làm công việc của mình. Người thị độc – tức người nhìn vào nét chữ in trên mâm gạo (mâm cát) do người cầm kê vạch ra sẽ đọc to chữ đó cho người hầu bút còn lại hay còn gọi là thị tả nghe và ghi lại từng câu, từng chữ đó lên trên nền giấy dó. Sau công đoạn này là việc của người chính tả chuẩn lại cho đúng. Khi đã thấy đúng chữ, đúng ngữ nghĩa rồi thì sẽ hoàn tất khâu viết rõ chữ đồng thời chuyển sang cho đám thợ khắc in ngay. Tuy nhiên, trong trường hợp, nếu người chính tả thấy chữ, câu do thị tả đọc chưa đúng, chưa phù hợp, người cầm kê sẽ gõ nhẹ vào mâm gạo (mâm cát) nhằm mục đích xin thần giáng lại câu, chữ đó rồi mới cho khắc in. Sau khi thần lui, điệu văn du dương hết, lúc này kê bút trên tay người cầm kê sẽ ngừng chuyển động. Mọi người tham gia cuộc giáng bút thu dọn dụng cụ, chờ các bản kinh hoàn tất công đoạn khắc in sau đó phân phát ngay. Các buổi giáng bút này còn được tổ chức đúng vào các ngày sóc, vọng (tức ngày mùng một, ngày rằm của tháng). Theo như những người tiến hành giáng bút cho biết thì nguyên nhân của việc chọn thời điểm trên để tổ chức giáng bút, in ấn các bản kinh là do lúc này tiên thánh sẽ dễ hiển linh, theo tiếng nhạc, hương trầm nghi ngút khói mà nhập vào đồng nhân cầm kê để giáng bút. Nhưng nói thế không phải các bản kinh giáng bút lúc nào cũng được các vị nữ thần tiên thánh giáng trong một đêm, vào đúng thời điểm ngày sóc, 13 vọng, vì trong kho tàng kinh giáng bút hiện còn cho thấy vẫn có những bản kinh hoàn thiện sau nhiều ngày, nhiều giờ khác nhau. Do đặc thù muốn mời chư vị tiên nữ, thánh thần hiển linh để nhập thần vào đồng nhân cầm kê, nên ngoài thời gian là các ngày sóc, vọng, giờ đẹp trong ngày ra, các buổi giáng bút luôn được tổ chức, tiến hành tại các chốn Thiện đàn đã được lập nên. Từ những trình bày ở trên cho thấy, kinh giáng bút Thiện đàn là hệ thống các văn bản và tác phẩm được các vị trong giới Quần Chân vâng mệnh Ngọc Hoàng Thượng đế ban cho người cầu kinh qua người đồng nhân, sau đó người đồng nhân viết ra; được những người thị độc đọc; được những người thị tả ghi lại; được những người chính tả hiệu chỉnh; được tổ chức khắc in và lưu hành ngay. Ngôn từ đó có thể là Hán văn (HV), có thể là quốc âm (QA)/Nam âm. Nếu là HV thì được ghi bằng chữ Hán. Nếu là QA thì được ghi bằng chữ Nôm. Với một chu trình tạo văn bản và tác phẩm như thế, có thể xác lập các nhân tố cho sự tạo thành văn bản kinh giáng bút như sau: chủ thể theo nghĩa hẹp của các văn bản là các vị trong giới Quần Chân. Chủ thể văn bản theo nghĩa rộng nhất của các văn bản kinh được giáng xuống là Ngọc Hoàng Thượng đế vì các vị trong giới Quần Chân phụng mệnh và nhân danh Ngọc Hoàng Thượng đế mà giáng bút. Chính điều này làm nên tính linh thiêng tín ngưỡng của kinh giáng bút. Đối tượng mà văn bản hướng vào là các đàn sinh, viên sinh, họ là các thiện nam, tín nữ nói chung. Những vấn đề được văn bản hóa trong kinh giáng bút là những cái mà chủ thể muốn truyền cho người xin kinh và chúng làm nên bình diện nội dung của kinh giáng bút. Bình diện nội dung của kinh giáng bút lại có thể phân tách thành các chủ đề hay nhóm chủ đề, chúng phản ánh một phần nào đó có tính lịch sử của cuộc sống xã hội lúc bấy giờ. Thể thức văn bản của kinh giáng bút chính là các thể loại văn học được Quần Chân sử dụng như: thi, ca, tán, dụ, ngâm, tự v.v.. 14 Theo quy chế đó, sau mỗi một cuộc giáng bút có thể có một bộ kinh được ấn tống. Chúng ta không thể hình dung nổi con số kinh được ấn tống vì số lượng Thiện đàn lên tới hàng trăm và mỗi một Thiện đàn cũng đã có không biết bao nhiêu lần tổ chức cầu cơ giáng bút. Số lượng kinh còn được lưu trữ ở VNCHN và TVQGVN chỉ là một phần trong số hàng trăm ngàn phần kinh giáng bút của Thiện đàn nói chung. Từ sự hình dung trên về cơ chế giáng bút và in tống kinh giáng bút của Thiện đàn như thế, dưới đây chúng tôi sẽ đề cập đến giới hạn thời gian của kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn. 1.1.3. Giới hạn thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Việc xác định đối tượng nghiên cứu là kinh giáng bút Hán Nôm của Thiện đàn trong luận án này vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng đòi hỏi một sự giới thuyết cần thiết. Theo đó, giới hạn những năm cuối thế kỷ XIX được tính từ năm 1884. Ngày 6-6-1884, thực dân Pháp đã ép triều đình Huế ký hòa ước Pa tơ nốt (Patenôtre), đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam, chia Việt Nam thành ba miền với ba chế độ khác nhau. Với việc ký điều ước này, nhà nước phong kiến Việt Nam với tư cách là một nhà nước độc lập có chủ quyền đã hoàn toàn sụp đổ [56]. Sau cuộc biến kinh thành năm 1885, vua Hàm Nghi rút lui khỏi Huế, phong trào “Cần Vương - lo cho việc của nhà vua” rộng khắp trên các miền của đất nước đã nổ ra từ 4-7-1885. Lực lượng lãnh đạo Cần Vương là các văn thân yêu nước. Cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ Cần Vương quy mô nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895), chủ soái là Phan Đình Phùng. Nhưng sau cái chết của Phan Đình Phùng vào năm 1897, thực dân Pháp đã cơ bản ổn định được tình hình và bước vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914). Cái cũ dần bị phá, cái mới chưa hình thành. Giá trị cương thường truyền thống ít nhiều đã bị đảo lộn. Đó là lúc mà nói theo thi sĩ Tản Đà: “Văn minh 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan