Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu xử lý khí lò đốt chất thải rắn nguy hại. ...

Tài liệu Nghiên cứu xử lý khí lò đốt chất thải rắn nguy hại.

.PDF
125
580
91

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI -------o0o------- PHẠM THỊ THU HOÀI NGHIÊN CỨU XỬ LÝ KHÍ TỪ LÒ ĐỐT CHẤT THẢI RẮN NGUY HẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT HÓA HỌC Hà Nội - 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI -------o0o------- PHẠM THỊ THU HOÀI NGHIÊN CỨU XỬ LÝ KHÍ TỪ LÒ ĐỐT CHẤT THẢI RẮN NGUY HẠI Chuyên ngành: Kỹ thuật hóa học Mã số: 62520301 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT HÓA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TSKH NGUYỄN BIN 2. TS LÊ THỊ NGỌC THỤY Hà Nội - 2014 MỞ ĐẦU Quản lý chất thải nguy hại (CTNH) là một vấn đề đang khá bức xúc trong công tác bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mạnh mẽ của nước ta, lượng chất thải cũng liên tục gia tăng, tạo sức ép rất lớn đối với công tác bảo vệ môi trường. Theo kết quả nghiên cứu năm 2004 [9], tổng lượng CTNH phát thải của Việt Nam trong năm 2003 vào khoảng 160 ngàn tấn và dự báo tăng lên khoảng 500 ngàn tấn vào năm 2010. Tuy nhiên, theo báo cáo của 35/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2009, số lượng CTNH phát sinh từ các địa phương này đã vào khoảng gần 700 ngàn tấn [2]. Riêng số lượng CTNH được thu gom, vận chuyển, xử lý bởi các đơn vị hành nghề quản lý CTNH liên tỉnh do Tổng cục Môi trường cấp phép trong năm 2009 là hơn 100 tấn (chỉ đáp ứng được một phần nhỏ tổng lượng phát sinh) [3]. Chất thải công nghiệp tại Việt Nam chiếm từ 13% đến 20% tổng lượng chất thải, trong số đó chất thải nguy hại chiếm khoảng 18% chất thải công nghiệp. Lượng phát thải CTNH lớn như vậy, nếu không được quản lý chặt chẽ và xử lý an toàn sẽ là nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hơn nữa, sự phát sinh CTNH ở Việt Nam rất đa dạng về nguồn cũng như chủng loại trong khi công tác phân loại tại nguồn còn kém, càng dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý và xử lý [4]. Thực tế cho thấy nhu cầu phải xử lý các loại chất thải rất lớn, đặc biệt là đối với chất thải nguy hại vì nó phát sinh ở rất nhiều nhà máy, hiện nay tại Việt nam đã hình thành khá nhiều doanh nghiệp xử lý chất thải. Nhưng rất đáng tiếc là số lượng doanh nghiệp muốn hoạt động trong lĩnh vực này nhiều nhưng sự hiểu biết khác nhau rất nhiều, có những doanh nghiệp hiểu biết về quản lý và xử lý chất thải nguy hại rất kém so với yêu cầu do muốn xử lý tất cả các loại chất thải và tin tưởng vào các đơn vị tư vấn về môi trường mà các đơn vị này phần lớn là các cơ sở nghiên cứu, đào tạo hoặc là các đơn vị môi trường sự nghiệp của các tỉnh thiếu kiến thức thực tế không đủ để triển khai công nghiệp. Trước sự gia tăng nhanh chóng của CTNH, công tác quản lý, xử lý hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy, việc quản lý và xử lý chất thải không an toàn, đặc biệt là các loại CTNH, đã để lại những hậu quả nặng nề về môi trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng như các điểm tồn lưu hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, các bãi rác không hợp vệ sinh, các bãi đổ chất thải của các nhà máy sản xuất...Vì vậy, quản lý và xử lý an toàn chất thải, đặc biệt là CTNH nhằm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm môi trường và hạn chế các tác động xấu tới sức khỏe con người là một trong những vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Hiện nay tại Việt Nam đã hình thành khá nhiều doanh nghiệp xử lý chất thải và phương pháp chủ yếu là 1 phương pháp chôn lấp hoặc đốt thiêu hủy. Tuy nhiên với lượng chất thải phát sinh lớn, thời gian phân hủy kéo dài đến hàng chục năm và đặc biệt không loại bỏ được hết thành phần độc hại nên phương pháp chôn lấp không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Phương pháp thiêu hủy hiện nay đã được sử dụng nhiều do có khả năng xử lý triệt để thành phần nguy hại. Trong những năm gần đây một số lò đốt chất thải nguy hại đã được đưa vào Việt nam, các loại lò này dù của các hãng khác nhau nhưng đều là loại lò đốt đứng hai buồng có điều chỉnh không khí. Công suất của các lò đốt dao động từ 50-1000 kg/h, giá thành từ vài trăm triệu đến khoảng chục tỷ đồng tuỳ theo công suất và cấu trúc công nghệ. Loại lò đốt với công nghệ khá phổ biến này đã được nhiều đơn vị trong nước thiết kế chế tạo và chuyển giao xử lý chất thải rắn nguy hại tuy nhiên tại Việt Nam hầu hết các lò đốt chất thải nguy hại này cũng chưa được bố trí hệ thống xử lý khí thải phát sinh một cách đồng bộ dẫn đến hiệu quả xử lý khói lò không cao làm tiềm ẩn nguy cơ phát sinh ô nhiễm không khí. [10,15] Từ những yêu cầu thực tế về xử lý tối ưu các khí thải phát sinh từ lò đốt đảm bảo điều kiện an toàn của môi trường, mục đích của luận án này là:  Lựa chọn được công nghệ tối ưu để xử lý triệt để khí phát sinh từ lò đốt chất thải rắn nguy hại phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam.  Xác lập được các mô hình thực nghiệm – thống kê và mô hình vật lý trong quá trình nghiên cứu, đây chính là cơ sở khoa học cho việc tính toán thiết kế thiết bị xử lý khí ở các qui mô khác nhau. Để đạt được mục đích đó, nội dung của luận án tập trung vào giải quyết các vấn đề sau: 1) Nghiên cứu tổng quan về chất thải nguy hại, nghiên cứu các quy trình công nghệ, thiết bị xử lý chất thải rắn nguy hại, phân tích lựa chọn thiết bị phù hợp với điều kiến thực tế tại Việt Nam. 2) Nghiên cứu các phương pháp xử lý khí, công nghệ và thiết bị xử lý khí. 3) Phân tích khí phát sinh từ lò đố chất thải rắn nguy hại, lựa chọn công nghệ, thiết bị xử lý khí phát sinh. 4) Xây dựng hệ thống thí nghiệm xác định các yếu tố ảnh hưởng quá trình xử lý khí. 5) Thiết lập mô hình thống kê mô tả mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất xử lý khí. 6) Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lưu lượng khí và hiệu suất xử lý 7) Thiết lập mô hình vật lý mô tả sự ảnh hưởng của các yếu tố độc lập tới lượng khí bị hấp thụ 8) Thiết lập mô hình vật lý mô tả sự ảnh hưởng của các yếu tố độc lập tới hiệu suất của quá trình hấp thụ khí 2 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1.1. HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI 1.1.1. Nguồn phát sinh và phân loại chất thải nguy hại 1.1.1.1. Nguồn phát sinh chất thải nguy hại: Do tính đa dạng của các loại hình công nghiệp, các hoạt động thương mại tiêu dùng, các hoạt động trong cuộc sống hay các hoạt động công nghiệp mà chất thải nguy hại có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Việc phát thải có thể do bản chất của công nghệ, hay do trình độ dân trí dẫn đến việc thải chất thải có thể là vô tình hay cố ý. Tuỳ theo cách nhìn nhận mà có thể phân thành các nguồn thải khác nhau, nhìn chung có thể chia các nguồn phát sinh chất thải nguy hại thành 4 nguồn chính như sau: - Từ các hoạt động công nghiệp (ví dụ khi sản xuất thuốc kháng sinh sử dụng dung môi metyl clorua, xi mạ sử dụng xyanua, sản xuất thuốc trừ sâu sử dụng dung môi là toluen hay xylen…). - Từ hoạt động nông nghiệp (như sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật độc hại). - Thương mại (quá trình nhập-xuất các hàng độc hại không đạt yêu cầu cho sản xuất hay hàng quá hạn sử dụng…). - Từ việc tiêu dùng trong dân dụng (ví dụ việc sử dụng pin, hoạt động nghiên cứu khoa học ở các Phòng thí nghiệm, sử dụng dầu nhớt bôi trơn, acqui các loại…). Trong các nguồn thải nêu trên thì hoạt động công nghiệp là nguồn phát sinh chất thải nguy hại lớn nhất và phụ thuộc rất nhiều vào loại ngành công nghiệp (bảng 1.1). So với các nguồn phát thải khác, đây cũng là nguồn phát thải mang tính thường xuyên và ổn định nhất. Các nguồn phát thải từ dân dụng hay từ thương mại chủ yếu không nhiều, lượng chất thải tương đối nhỏ, mang tính sự cố hoặc do trình độ nhận thức và dân trí của người dân. Các nguồn thải từ các hoạt động nông nghiệp mang tính chất phát tán dạng rộng, đây là nguồn rất khó kiểm soát và thu gom, lượng thải này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nhận thức cũng như trình độ dân trí của người dân trong khu vực.[6, 45, 48] 3 Bảng 1.1 Một số ngành công nghiệp và các loại chất thải tương ứng [46,84] Công nghiệp Sản xuất hóa chất Loại chất thải - Dung môi thải và cặn chưng cất: dầu hỏa, benzen, xylen, etyl benzen, toluen, isopropanol, toluen disisocyanate, etanol, axeton, metyl etyl ketone, tetrahydrofuran, metylen chloride, 1,1,1-trichloroethane, trichloroethylene - Chất thải dễ cháy không theo danh nghĩa (otherwise specified) - Chất thải chứa axit/bazơ mạnh: amoni hydroxit, axit hydrobromic, axit clohydric, hydroxit kali, axit nitric, axit sulfuric, axit cromic, axit photphoric - Các chất thải hoạt tính khác: natri tím, peroxit hữu cơ, natri perchlorate, kali perchlorate, thuốc tím, hypoclorit, kali sunfua, natri sulfide. - Phát thải từ xử lý bụi, bùn - Xúc tác qua sử dụng Xây dựng Sơn thải cháy được: etylen diclorit, benzen, toluen, etyl benzen, metyl isobutyl ketone, metyl etyl ketone, chlorobenzene. Các chất thải dễ cháy không theo danh nghĩa (otherwise specified) Dung môi thải: metyl chloride, cacbon tetracloride, triclorotrifluoroethane, toluen, xylen, dầu hỏa, axeton. Chất thải axít/bazơ mạnh: amonium hydroxit, axit hydrobromic, axit clohydric, axit flohydric, axit nitric, phosphoric AIC, potssium hydroxit natri hydroxit, axit sunfuric. Sản xuất gia công - Dung môi thải và cặn chưng: tetrachloroethylene kim loại trichloroethylene, methylenechloride, 1,1,1-trichloroethane, carbontetrachloride, toluen, benzen, trichlorofluroethane, chloroform, richlorofluoromethane, acetone, dichlorobenzene, xylene, dầu hỏa, sprits trắng, rượu butyl. Chất thải axít/bazơ mạnh: amonium hydroxit, axit hydrobromic, axit clohydric, axit flohydric, axit nitric, axit 4 photphoric, nitrat, natri hydroxit, kali hydroxit, axit sulfuric, axit perchloric, axit axetic. - Chất thải xi mạ - Bùn thải chứa kim loại nặng từ hệ thống xử lý nước thải Chất thải chứa cyanide - Chất thải cháy được không theo danh nghĩa (otherwise specified) Chất thải hoạt tính khác: axetyl clorua, axit cromic, sulfide, hypoclorit, peroxit hữu cơ, perchlorate, permanganates - Dầu nhớt qua sử dụng Công nghiệp giấy - Dung môi hữu cơ chứa clo: carbon tetrachloride, methylenechloride, tetrachloroethulene, trichloroethylene, 1,1,1-trichloroethane, các hỗn hợp dung môi thải chứa clo. - Chất thải ăn mòn: chất lỏng ăn mòn, chất rắn ăn mòn, amoni hydroxit, axit hydrobromic, axit clohydric, axit flohydric, axit nitric, axit photphoric, kali hydroxit, sodium hydroxide, axit sufuric - Sơn thải: chất lỏng có thể cháy, chất lỏng dễ cháy, ethylene dichloride, chlorobenzene, methyl ethyl ketone, sơn thải có chứa kim loại nặng - Dung môi: chưng cất dầu mỏ Hiện tại, ở Việt Nam, chưa có điều tra đầy đủ và có qui mô, chi tiết nào liên quan đến thực trạng phát sinh chất thải công nghiệp nguy hại. Tuy nhiên xung quanh chủ đề này cũng đã có nhiều cơ quan thực hiện điều tra sơ bộ trên các phạm vi và đối tượng khác nhau, Các số liệu điều tra cho thấy chúng ta còn đang gặp phải bất cập trong công tác quản lý chất thải nguy hại tại các cơ sở sản xuất công nghiệp, và có thể nói chung là thị trường thu gom, tái chế và tiêu hủy chất thải này vẫn còn khá trôi nổi. Qua các tài liệu gần đây có thể nhận xét rằng trong các lọai hình chất thải công nghiệp nguy hại đang phát sinh thì các chủng loại sau đây được xem là điển hình vì có khối lượng lớn nhất: [12,13] - Dầu thải: là lượng dầu nhớt đã qua sử dụng, được thải ra từ các cơ sở sửa chữa, sản xuất và bảo trì các phương tiện vận chuyển, từ ngành công nghiệp sản 5 xuất và chế biến dầu khí, từ ngành sản xuất các sản phẩm kim loại ngành công nghiệp chuyển tải điện…. Lượng dầu thải này một phần được tái sinh tại chỗ, một phần được các đơn vị thu gom (chủ yếu là tư nhân) để tái sinh, một phần được thu gom là nhiên liệu đốt, và vẫn còn một phần khác được đổ trực tiếp xuống cống rãnh thoát nước… - Chất thải chứa (nhiễm) dầu: bao gồm các loại giẻ lau dính dầu nhớt, các thùng và bao bì dính dầu nhớt, các chất thải từ các ngành sản xuất khác như sản xuất dày dép, da, ngành công nghiệp dầu khí, ngành sản xuất các sản phẩm kim loại,… Có thể nói đây là lượng chất thải nguy hại có khối lượng lớn nhất (vì lí do với tính nguyên tắc là nếu một bao bì có dính chất thải nguy hại thì có thể xem cả khối lượng bao bì đó cũng là chất thải nguy hại). Các loại hình chất thải này nhìn chung cũng được thu gom và tái sử dụng sau khi đã xử lý rất sơ sài (chủ yếu là rửa và sử dụng lại) và một số ít được đem đốt, số khác thì thải thẳng ra môi trường. - Các chất hữu cơ tạp: bao gồm các sản phẩm thải là các chất hữu cơ nguy hại như các lọai thuốc bảo vệ thực vật (chiếm số lượng lớn nhất) và nhiều thành phần hữu cơ phức tạp khác. Nguồn gốc phát sinh chủ yếu từ ngành sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật, các ngành giầy da, dầu khí, kim loại… Hiện trạng lưu trữ và thải bỏ loại hình chất thải này giống như chất thải nhiễm dầu. - Bùn kim loại: chủ yếu phát sinh từ các ngành công nghiệp xi mạ và sản xuất các sản phẩm kim loại, từ các công nghệ sản xuất và từ các công trình xử lý nước thải. Nhìn chung các lọai bùn nguy hại này hầu như không được thải bỏ một cách an toàn mà thường chuyên chở ra khỏi nhà máy và đổ thẳng xuống các bãi chôn lấp của thành phố. - Bùn từ các hệ thống xử lý nước thải: về mặt nguyên tắc thì đây là nguồn tạo ra chất thải nguy hại khá đáng kể đòi hỏi phải có giải pháp thải bỏ an toàn nhất cho môi trường. - Cuối cùng là nhóm các hợp chất được xem là các hóa chất vô cơ tạp có chủng loại khá đa dạng nhưng khối lượng không lớn lắm được phát sinh ra từ các ngành như sản xuất hóa chất cơ bản, thuốc bảo vệ thực vật, xi mạ kim lọai, sản xuất các sản phẩm kim loại, sản xuất và tái chế ắc qui chì... Qui trình quản lý các chất thải này tại các doanh nghiệp hiện nay cũng chưa rõ ràng. - Ngoài ra, tuy không được xem là chất thải nhưng các vùng đất bị ô nhiễm, (nhất là ô nhiễm do dầu nhớt thải, ô nhiễm do chất hữu cơ…) cũng là các đối tượng quan trọng của công tác quản lý chất thải nguy hại, nhất là công tác phục hồi ô nhiễm môi trường. [19, 27] 6 1.1.1.2. Phân loại chất thải nguy hại Có nhiều cách phân loại chất thải nguy hại, nhưng nhìn chung đều theo 2 cách như sau: - Theo đặc tính (dựa vào định nghĩa trên cơ sở 4 đặc tính cơ bản) - Theo danh sách liệt kê được ban hành kèm theo luật o Theo đặc tính 1. Tính cháy (Ignitability) : Một chất thải được xem là chất thải nguy hại thể hiện tính dễ cháy nếu mẫu đại diện của chất thải có những tính chất như sau: - Là chất lỏng hay dung dịch chứa lượng alcohol < 24% (theo thể tích) hay có điểm chớp cháy (plash point) nhỏ hơn 60oC (140oF). - Là chất thải (lỏng hoặc không phải chất lỏng) có thể cháy qua việc ma sát, hấp phụ, hay tự biến đổi hóa học, khi bắt lửa, cháy rất mãnh liệt và liên tục (dai dẳng) tạo ra hay có thể tạo ra chất nguy hại, trong các điều kiện nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn. - Là khí nén - Là chất oxy hóa 2. Tính ăn mòn (Corrosivity) : pH là thông số thông dụng dùng để đánh giá tính ăn mòn của chất thải, tuy nhiên thông số về tính ăn mòn của chất thải còn dựa vào tốc độ ăn mòn thép để xác định chất thải có nguy hại hay không. Nhìn chung một chất thải được coi là chất thải nguy hại có tính ăn mòn khi mẫu đại diện thể hiện một trong các tính chất sau: - Là chất lỏng có pH nhỏ hơn hoặc bằng 2 hay lớn hơn hoặc bằng 12,5. - Là chất lỏng có tốc độ ăn mòn thép lớn hơn 6,35 mm (0.25 inch) một năm ở nhiệt độ thí nghiệm là 55oC (130oF). 3. Tính phản ứng (Reactivity) : Chất thải được coi là nguy hại và có tính phản ứng khi mẫu đại diện chất thải này thể hiện một tính chất bất kỳ trong các tính chất sau: - Thường không ổn định và dễ thay đổi một cách mãnh liệt mà không gây nổ - Phản ứng mãnh liệt với nước - Ở dạng khi trộn với nước có khả năng nổ - Khi trộn với nước, chất thải sinh ra khí độc, bay hơi, hoặc khói với lượng có thể gây nguy hại cho sức khỏe con người hoặc môi trường. - Là chất thải chứa xyanua hay sunphua ở điều kiện pH giữa 2 và 11,5 có thể tạo ra khí độc, hơi, hoặc khói với lượng có thể gây nguy hại cho sức khỏe con người hoặc môi trường. 7 - Chất thải có thể nổ hoặc phản ứng gây nổ nếu tiếp xúc với nguồn kích nổ mạnh hoặc nếu được gia nhiệt trong thùng kín. - Chất thải có thể dễ dàng nổ hoặc phân hủy (phân ly) nổ, hay phản ứng ở nhiệt độ và áp suất chuẩn. 4. Đặc tính độc (Toxicity) : Để xác định đặc tính độc hại của chất thải ngoài biện pháp sử dụng bảng liệt kê danh sách các chất độc hại được ban hành kèm theo luật của mỗi nước, hiện nay còn phổ biến việc sử dụng phương pháp xác định đặc tính độc hại bằng phương thức rò rỉ (Toxicity Charateristic Leaching ProcedureTCLP) để xác định. Một cách phân loại Chất Thải Nguy Hại theo đặc tính khác dựa trên quan điểm những mối nguy hại tiềm tàng và các tính chất chung của chúng, chia ra thành 9 nhóm: a. Nhóm I: Chất gây nổ. Nhóm này bao gồm: Các chất dễ gây nổ, ngoại trừ những chất quá nguy hiểm trong khi vận chuyển hay những chất có nhiều khả năng nguy hại thì được xếp vào loại khác. Chú ý: các chất mà tự nó không dễ nổ nhưng có thể tạo nên một tầng khí, hơi hay bụi dễ nổ thì không thuộc nhóm I này). Vật gây nổ, ngoại trừ những dụng cụ chứa chất gây nổ mà với một khối lượng hay tính chất như thế mà sự vô ý, sự bốc cháy ngẫu nhiên hay bắt đầu cháy sẽ không gây nên biểu hiện nào bên ngoài dụng cụ như văng mảnh, có ngọn lửa, có khói, nóng lên hay gây tiếng nổ ầm ĩ. Chất dễ nổ và vật gây nổ không được đề cập trong 2 mục trên, được sản xuất theo quan điểm là tạo ra hiệu ứng nổ hay sản xuất pháo hoa tùy theo từng mục đích. b. Nhóm II: Các chất khí nén, hóa lỏng hay hòa tan có áp. Nhóm này bao gồm những loại khí nén, khí hóa lỏng, khí trong dung dịch, khí hóa lạnh do lạnh, hỗn hợp một hay nhiều khí với một hay nhiều loại hơi của những chất thuộc nhóm khác, những vật chứa các chất khí như tenluari hexaflrua và bình phun khí có dung tích lớn hơn 1 lít. c. Nhóm III: Các chất lỏng dễ gây cháy Nhóm này bao gồm những chất lỏng có thể bắt lửa và cháy, nghĩa là chất lỏng có điểm chớp cháy nhỏ hơn hoặc bằng 610C. Những chất sau đây không thuộc nhóm III: o Những chất lỏng có điểm chớp cháy cao hơn 230C nhưng thấp hơn 610C, mà có nhiệt độ cháy cao hơn 1040C hay sôi trước khi đạt tới nhiệt độ cháy. Tiêu chuẩn này không bao gồm những chất lỏng có thể gây cháy, hỗn hợp nước và nhiều sản phẩm dầu mỏ mà những chất này không thực sự là đại diện cho chất nguy hại có khả năng gây cháy. o Những chất hòa tan ở dạng lỏng chứa ít hơn 24% etanol theo thể tích. 8 o Bia rượu và những sản phẩm tiêu dùng khác, khi đóng gói thì gói bên trong có dung tích ít hơn 5 lít. d. Nhóm IV: Các chất rắn dễ cháy, chất có khả năng tự bốc cháy và những chất khi gặp nước sẽ sinh ra khí dễ cháy. Nhóm này được phân chia thành 3 phân nhóm như sau: - Phân Nhóm 4.1 bao gồm: o Chất rắn có thể cháy; o Những chất tự phân hủy; o Chất ít nhạy nổ. - Phân Nhóm 4.2: là những chất có khả năng tự bốc cháy bao gồm: o Những chất tự bốc cháy. o Những chất tự tỏa nhiệt. - Phân Nhóm 4.3: Những chất khi tiếp xúc với nước sẽ tạo nên những khí dễ cháy. Những chất khi tiếp xúc với nước sẽ giải phóng những khí dễ cháy có thể tạo thành hỗn hợp nổ với không khí. Những hỗn hợp như thế rất dễ bắt lửa do bất cứ một nguồn gây cháy bình thường nào, ví dụ như nguồn ánh sáng mặt trời, những dụng cụ cầm tay phát ra tia lửa hay những bóng đèn sáng không bọc bảo vệ. Cháy nổ có thể gây nguy hiểm cho con người và môi trường xung quanh, ví dụ như khí đất đèn (canxi cacbua). e. Nhóm V: Những tác nhân ôxy hóa và các peoxit hữu cơ. Nhóm V được chia thành các phân nhóm như sau: - Phân Nhóm 5.1: Tác nhân Ôxy hóa. Đó là những chất, dù không cháy cũng có thể dễ dàng giải phóng Ôxy, hay do quá trình Ôxy hóa có thể tạo nên ngọn lửa đối với bất kỳ chất liệu nào, hoặc kích thích quá trình cháy đối với những vật liệu khác, do đó làm tăng thêm cường độ cháy. - Phân Nhóm 5.2: Các Peoxit hữu cơ. Hầu hết những chất trong mục này là có thể cháy và tất cả đều chứa cấu trúc hóa trị 2 -O-. Chúng hoạt động như là những tác nhân Oxi hóa và có thể có khả năng phân hủy do nổ. Ơ dạng lỏng hoặc dạng rắn, chúng có thể có phản ứng mạnh đối với những chất khác. Hầu hết sẽ cháy nhanh và rất nhạy khi bị nén hay va chạm. f. Nhóm VI: Chất gây độc và chất gây nhiễm bệnh. Nhóm VI được chia thành các phân nhóm sau: - Phân Nhóm 6.1: Chất gây độc. Những chất có thể làm chết người hoặc làm tổn thương nghiêm trọng đến sức khỏe của con người nếu nuốt phải, hít thở hay tiếp xúc với da. 9 - Phân Nhóm 6.2: Chất gây nhiễm bệnh. Gồm những chất chứa vi sinh vật có thể phát triển và tồn tại độc lập, bao gồm vi trùng, ký sinh trùng, nấm hoặc tác nhân tái liên kết, lai giống hay biến đổi gen, mà chúng ta biết rằng sẽ gây bệnh ở người và động vật. g. Nhóm VII: Những chất phóng xạ. Bao gồm những chất hay hỗn hợp tự phát ra tia phóng xạ. Tia phóng xạ có khả năng đâm xuyên qua vật chất và gây hiện tượng ion hóa. h. Nhóm VIII: Những chất ăn mòn. Bao gồm những chất tạo phản ứng hóa học phá hủy khi tiếp xúc với các mô sống, hoặc trong trường hợp rò rỉ sẽ phá hủy hoặc làm hư hỏng những hàng hóa khác hoặc ngay cả phương tiện vận chuyển. i. Nhóm IX: Những chất nguy hại khác. Bao gồm những chất và vật liệu mà trong quá trình vận chuyển có biểu hiện một mối nguy hiểm không được kiểm soát theo tiêu chuẩn của các chất liệu thuộc nhóm khác. o Theo luật định Ở Việt Nam, để xác định chất thải có phải là chất thải nguy hại hay không, có thể tham khảo loại chất thải như được quy định trong quy chế được ban hành theo quyết định 155/1999/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ. [6, 47,49] 1.1.2. Công tác quản lý chất thải nguy hại tại Việt Nam Việc quản lý chất thải rắn nói chung và CTRNH nói riêng ở các đô thị và khu công nghiệp của các bộ, ngành và các địa phương hiện nay chưa đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình thực tế. Vì vậy, nguy cơ ô nhiễm môi trường do chất thải đang là một vấn đề cấp bách đối với hầu hết các đô thị trong cả nước. Việc thu gom CTR công nghiệp và CTNH chủ yếu do các Công ty môi trường đô thị cấp tỉnh thực hiện. Lượng CTNH còn lại do các công ty/doanh nghiệp tư nhân được cấp phép đảm trách việc thu gom, vận chuyển. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, tổng lượng CTR công nghiệp phát sinh tại các KCN khoảng 750 tấn/ngày, nhưng mới chỉ thu gom được khoảng 637-675 tấn/ngày. Trong đó, CTNH khoảng 97-112 tấn/ngày (chiếm 13-15%), thu gom được khoảng 58-78,4 tấn/ngày (chiếm khoảng 60-70%). [4, 25]. Hiện nay, phần lớn các tỉnh, thành phố chưa có các bãi chôn lấp chất thải được xây dựng đúng quy cách đảm bảo vệ sinh môi trường, ngoại trừ một số địa phương như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng (có nơi đã hoặc đang tiến hành xây dựng bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh). Công tác quy hoạch và 10 xây dựng các bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh ở một số tỉnh, thành phố còn gặp nhiều khó khăn như về quỹ đất, (đặc biệt là các tỉnh vùng đồng bằng đông dân cư), vốn đầu tư xây dựng, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân ở các vùng dự kiến quy hoạch bãi chôn lấp chất thải... Chưa có mức phí hợp lý cho quản lý chất thải, mức thu phí hiện tại cho quản lý chất thải chưa đáp ứng đầy đủ và đúng mức cho yêu cầu của công tác quản lý chất thải. Ngân sách nhà nước chi cho việc thu gom, xử lý chất thải còn ở mức rất thấp.Trên toàn quốc chưa có một cơ sở xử lý tập trung đối với các chất thải công nghiệp nguy hại. Các chất thải không được phân loại, chất thải nguy hại và chất thải sinh hoạt được tập trung chôn lấp đơn giản tại cùng một địa điểm. Một số cơ sở công nghiệp có nhiều chất thải nguy hại đang phải lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại chờ xử lý. Phần lớn các chất thải y tế thu gom được từ các bệnh viện, trạm y tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuốc chữa bệnh chưa được thiêu đốt tại các lò đốt đạt yêu cầu vệ sinh môi trường mà còn được chôn lấp chung với các chất thải sinh hoạt. Hiện tại, Chính phủ đã thông qua dự án 25 lò đốt chất thải rắn từ nguồn vốn ODA của Chính phủ Áo giúp Việt Nam để lắp đặt cho các bệnh viện. Tuy nhiên việc quản lý và xử lý chất thải rắn y tế còn nhiều khó khăn như:[5]  Thiếu kinh phí đầu tư xây dựng, vận hành và tổ chức quản lý cơ sở xử lý chất thải.  Thiếu phương tiện, dụng cụ chuyên dụng cho việc thu gom và xử lý chất thải.  Các bệnh viện thiếu kinh phí dành cho việc mua túi nhựa, thùng chứa rác, xe vận chuyển chất thải chuyên dụng. Hiện nay trong nước mới chỉ có một vài cơ sở sản xuất túi, thùng, xe vận chuyển chất thải chuyên dụng trong bệnh viện. Giá thành sản phẩm còn cao, chưa phù hợp với đáp ứng về ngân sách cho các bệnh viện.  Một số phương tiện chuyên dụng như: xe vận tải chuyên dụng thu gom chất thải y tế từ các bệnh viện đến nơi xử lý, nhà lạnh lưu giữ chất thải tại bệnh viện trước khi mang đi xử lý rất đắt tiền nên không có đủ vốn đầu tư. Mặc dù hiện nay Chính phủ đã ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy hại nhưng còn thiếu khá nhiều các các tiêu chuẩn thải đối với các chất thải nguy hại, thiếu các quy trình công nghệ và các thiết bị phù hợp để xử lý một số các chất thải nguy hại. Còn thiếu một hệ thống đồng bộ các văn bản pháp quy về quản lý chất thải nguy hại, thiếu sự đầu tư ngân sách của các cấp chính quyền và các bộ, ngành trong việc quản lý chất thải nguy hại. Chưa có các biện pháp, công nghệ và các thiết bị phù hợp để xử lý các chất thải nguy hại do sản xuất công nghiệp và các bệnh viện thải ra.[18, 21] Một số CTNH chủ yếu ở Việt Nam cần phải có sự giám sát đặc biệt được liệt kê tại bảng 1.2 [8, 29] 11 Bảng 1.2 Các loại CTNH chính ở Việt Nam cần được giám sát đặc biệt Loại chất thải Các đặc tính Chất thải PCB Độc hại Bùn chứa kim loại nặng Độc hại Các dung môi chứa Halogen Độc hại Các dung môi không chứa Halogen Độc hại Chất thải thuốc bảo vệ thực vật Độc hại Chất phẩm màu và hương liệu Độc hại Sơn và các loại nhựa tính nhân tạo Độc hại Các dung môi Độc hại Axit và kiềm Ăn mòn Các chất tẩy rửa Ăn mòn Rác thải hữu cơ Sinh học Rác thải hữu cơ có khả năng thối rữa Sinh học Vải đồ dệt Cháy Lông Cháy Dầu và dầu mỡ Cháy Chất thải chứa dầu Cháy Dầu thải Cháy Chất thải y tế Độc hại 1.1.3. Hiện trạng công tác quản lý chất thải nguy hại ở một số nước trên thế giới. Hiện nay trên thế giới đã có nhiều cơ quan quốc tế như IRPTC (tổ chức đăng ký toàn cầu về hoá chất độc tiềm tàng), IPCS (chương trình toàn cầu về an toàn hoá chất) ,WHO (Tổ chức Y tế thế giới)... xây dựng và quản lý các dữ liệu thông tin về an toàn hoá chất. Tuỳ từng điều kiện kinh tế xã hội và mức độ phát triển khoa học kỹ thuật cùng với nhận thức về quản lý chất thải mà mỗi nước có những cách xử lý chất thải của riêng mình. Cũng cần nhấn mạnh rằng các nước phát triển trên thế giới thường áp dụng đồng thời nhiều phương pháp để xử lý chất thải rắn, trong đó có chất thải rắn 12 nguy hại, tỷ lệ xử lý chất thải rắn bằng các phương pháp như đốt, xử lý cơ học, hóa/lý, sinh học, chôn lấp,... rất khác nhau. Qua số liệu thống kê về tình hình xử lý chất thải rắn của một số nước trên thế giới cho thấy rằng, Nhật Bản là nước sử dụng phương pháp thu hồi chất thải rắn với hiệu quả cao nhất (38%), sau đó đến Thuỵ Sỹ (33%), trong lúc đó Singapore chỉ sử dụng phương pháp đốt, Pháp lại sử dụng phương pháp xử lý vi sinh nhiều nhất (30%),... Các nước sử dụng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh nhiều nhất trong việc quản lý chất thải rắn là Phần Lan (84%), Thái Lan (Băng Cốc -84%), Anh (83%), Liên Bang Nga (80%), Tây Ban Nha (80%). Dưới đây là những mô tả tổng quan về tình hình quản lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn nguy hại nói riêng tại một số nước trong khu vực và thế giới.[20, 28]. Đánh giá chung: Chất thải nguy hại rất đa dạng về chủng loại, phức tạp về thành phần và nó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và môi trường. Do đó, việc quản lý chất thải nguy hại trước tiên cần nhìn nhận ở góc độ giải quyết ô nhiễm và các nguy cơ rủi ro hơn là tính đến yếu tố kinh tế. Bên cạnh đó, biện pháp quản lý chất thải nguy hại thích hợp sẽ mang lại những hiệu quả kinh tế , môi trường và xã hội to lớn.Vì vậy, việc quản lý chặt chẽ chất thải nguy hại sẽ góp phần quan trọng trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trên thế giới. Tỷ lệ CTNH so với lượng chất thải nói chung ở nước ta còn thấp song theo kinh nghiệm thực tế của Việt Nam và quốc tế, tính chất nguy hại của các chất thải này tác động lên sinh thái, môi trường và sức khỏe con người rất phức tạp, nghiêm trọng và rất khó khắc phục.Chính vì vậy đối tượng chất thải này đang được nhiều tổ chức tài trợ quốc tế và bảo vệ môi trường khuyến nghị Việt Nam cần đặc biệt quan tâm trong việc kiểm soát quản lý chúng ngay từ bước đầu của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Tại Việt Nam chất thải nguy hại công nghiệp là chất thải phát sinh với tốc độ cao đặc biệt ở các nhà máy công nghiệp và các doanh nghiệp sản xuất. Các chất thải nguy hại này có thành phần đa dạng và phức tạp do tính đa dạng của các loại hình công nghiệp. Tuy nhiên qua tổng hợp và phân tích tài liệu nhận thấy rằng chất thải nguy hại loại rắn chiếm một khối lượng lớn vì các vật liệu rắn nhiễm chất thải nguy hại thì cũng được coi như chất thải nguy hại, và với chất thải nguy hại này thì sự thu gom quản lý, tái sử dụng và xử lý còn nhiều bất cập chính vì vậy cần phải có phương án và công nghệ thích hợp để loại bỏ các thành phần độc hại trong nhóm chất thải nguy hại này.[4,14] 13 1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN NGUY HẠI Chất thải nguy hại có các đặc tính khác nhau đòi hỏi phải có quy trình đặc biệt để xử lý và chôn lấp nhằm tránh những rủi ro đối với sức khoẻ hoặc ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường. Xử lý chất thải nguy hại ưu tên đối với phương án giảm độ độc hại, quay vòng và tái sử dụng. Tuy nhiên phương án này chỉ dùng đối với một số loại rác thải rất độc cần loại bỏ hoặc chất quý hiếm có giá trị cần tái chế. Song phương án xử lý này có những hạn chế như: Khó thực hiện do đầu tư kinh phí, kỹ thuật, tính chất chất thải, vì thế cần có nhiều phương án để lựa chọn phương án tối ưu nhất. Một số phương pháp xử lý rác thải nguy hại:[16,54] 1.2.1. Phương pháp khử khuẩn bằng hoá chất: Hạn chế của phương pháp này là thường phải băm nhỏ hoặc nghiền chất thải trước khi khử khuẩn và những thiết bị để băm hoặc nghiền thường hay bị sự cố cơ khí. Những chất hoá học sử dụng để tiệt khuẩn chất thải thường rất độc hại với con người. Hiệu quả khử khuẩn phụ thuộc nhiều vào điều kiện vận hành và trình độ của nhân viên thao tác. Mặt khác chỉ có lớp bề mặt của chất thải tiếp xúc với hoá chất là bị khử khuẩn, do vậy khả năng khử khuẩn triệt để là rất thấp. Rất khó khăn trong việc loại bỏ vĩnh viễn ra khỏi tự nhiên. 1.2.2. Phương pháp khử khuẩn bằng nhiệt khô và ướt: Khử khuẩn bằng nhiệt ướt : Đây là phương pháp tốt sử dụng cho diệt khuẩn. Chất thải được hấp ở nhiệt độ 120oC áp suất 106 kPa trong vòng 20 phút. Quá trình diệt khuẩn sử dụng phương pháp nhiệt ướt bao gồm 4 giai đoạn : Giai đoạn 1 : Tạo áp lực chân không sơ bộ Giai đoạn 2 : Diệt khuẩn bằng hơi nóng ẩm Giai đoạn 3 : Sấy khô chất thải trong chân không 5 phút Giai đoạn 4 : Cân bằng áp suất (Đưa không khí vào nồi hấp) Khử khuẩn bằng nhiệt khô : Phương pháp này đòi hỏi thời gian dài hơn và nhiệt độ cao hơn, thời gian và nhiệt độ được tính từ khi nhiệt độ bắt đầu đạt yêu cầu. 180oC trong 30 phút. 170oC trong 60 phút. 160oC trong 120 phút Nói chung phương pháp khử khuẩn bằng nhiệt có nhược điểm là chất thải phải được băm nhỏ trước khi khử trùng, những thiết bị băm hoặc nghiền thường hay bị sự cố cơ khí. Hiệu quả khử khuẩn không ổn định, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện vận hành. Chi phí đầu tư ban đầu cao, nhưng chi phí vận hành thấp và ít có tác động tới môi trường. Sau khi khử khuẩn, chất thải được loại bỏ như chất thải sinh hoạt. 14 1.2.3. Phương pháp chiếu vi sóng: Phương pháp chiếu vi sóng được sử dụng rộng rãi tại một số nước tiên tiến. Tuy vậy, phương pháp này đòi hỏi vốn đầu tư thiết bị tương đối cao cần nhiều thiết bị kiểm tra chất lượng sau khi chiếu. 1.2.4. Phương pháp chôn lấp: Đây là biện pháp xử lý rác thải cổ xưa nhất, và hiện nay vẫn được dùng phổ biến ở nhiều nơi trên khắp thế giới đặc biệt là các nước nghèo. Do phương pháp chôn lấp có công nghệ đơn giản và đặc biệt là chi phí đầu tư và chi phí xử lý thấp nhất so với các phương pháp khác nên nó phù hợp cho hầu như tất cả các khu vực có điều kiện kinh tế khó khăn. Tuy nhiên phương pháp này có nhiều nhược điểm như yêu cầu phải có diện tích đất đủ lớn để chôn lấp và đặc biệt là tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất và nguồn nước ngầm cao; phá hủy môi trường sinh thái là nguồn ủ cho các bệnh truyền nhiễm và gây thành các dịch bệnh cho xã hội. Cho nên, hiện nay người ta không khuyến khích sử dụng phương pháp chôn lấp rác thải.[7] 1.2.5. Phương pháp thiêu đốt : Thiêu đốt là phương pháp xử lý rác thải nguy hại được áp dụng rộng rãi nhất hiện nay. Tại các nước tiên tiến, lò đốt rác thải nguy hại luôn đi đồng bộ với xử lý khí thải. Đốt chất thải là quá trình ôxy hoá chất thải bằng ôxy của không khí ở nhiệt độ cao, phá huỷ các hợp chất, phức chất nguy hại thành các chất không độc hại cho môi trường. Đây là quy trình xử lý cuối cùng cho rác thải nguy hại mà không thể tái chế, tái sử dụng hay lưu trữ an toàn trong bãi chôn lấp. Đốt chất thải nguy hại được sử dụng như một biện pháp xử lý để giảm số lượng, giảm tính độc, thu hồi năng lượng và có thể xử lý một khối lượng lớn chất thải, phần tro sau khi đốt được mang chôn lấp. Đốt các vật liệu có chứa Clo có thể sinh ra đioxin và các hợp chất Furan (nhóm hợp chất dị vòng giống đioxin) là loại hoá chất có thể gây ung thư và hàng loạt tác hại khác cho con người, tồn tại lâu dài và tích luỹ ở môi trường. Do đó không nên đốt các vật liệu có chứa Clo hoặc kim loại, hoặc dùng lò đốt hiện đại có thể đốt ở nhiệt độ 800 – 1000oC với thiết bị đặc biệt làm sạch chất thoát ra mới có thể đảm bảo là không sinh đioxin và Furan. Hiện trên thực tế vẫn không có giải pháp nào tốt, chi phí thấp mà xử lý an toàn chất thải nguy hại. Hiện nay, theo đánh giá của Tổng cục Môi trường, cả nước chưa có địa phương nào có mô hình xử lý chất thải rắn hoàn thiện, hoàn toàn đạt được các chỉ tiêu về về kỹ thuật, kinh tế xã hội và môi trường. Một số địa phương đã phê duyệt dự án cụ thể cho việc xử lý chất thải rắn, tuy nhiên mới dừng lại ở triển khai thí 15 điểm. Bên cạnh đó do nguồn vốn hạn hẹp, phần lớn dự án chưa tiếp cận công nghệ tiên tiến, sản xuất quy mô nhỏ, ô nhiễm. [5, 11] Tính tới tháng 5/2012 có 86 doanh nhiệp được cấp phép quản lý chất thải nguy hại nhưng mới chỉ đáp ứng được 14-15% nhu cầu xử lý, tuy nhiên rất khó đánh giá năng lực xử lý của các doanh nghiệp. Theo đánh giá của sở Tài nguyên môi trường TP Hồ Chí Minh, chất thải nguy hại của Việt Nam có thành phần chủ yếu là bao bì, thùng chứa, vật liệu và vật thể mài, dầu nhớt, bùn thải.... vì vậy Việt Nam cũng đã áp dụng nhiều công nghệ xử lý trong xử lý chất thải nguy hại. Các công nghệ điển hình và phổ biến hiện nay được tóm tắt trong bảng 1.3 dưới đây. Bảng 1.3. Một số công nghệ xử lý CTNH phổ biến ở Việt Nam [4,11] TT Tên công nghệ Số cơ sở Số modul Công suất phổ áp dụng hệ thống biến 1 Lò đốt tĩnh hai cấp 23 28 50 - 1000 kg/h 2 Đồng xử lý trong lò nung xi măng 2 2 30 tấn /h 3 Chôn lấp 2 3 15.000 m3 4 Hóa rắn (bê tông hóa) 19 19 1 – 5 m3/h 5 Xử lý, tái chế dầu thải 20 20 3-20 tấn/ngày 6 Xử lý bóng đèn thải 10 10 0,2 tấn/ngày 7 Xử lý chất thải điện tử 6 6 0,3 – 5 tấn/ngày 8 Phá dỡ, tái chế ắc quy chì thải 9 9 0,5 – 200 tấn/ngày 9 Tái chế dung môi 13 13 0,25-1,2m3/giờ 10 Xúc rửa thùng phi 15 15 60-1000 th/ngày 11 Xử lý nước thải 20 23 6-25m3/h 12 Tận thu kim loại (muối kim loại, xỉ 4 10 0,1-1 tấn/h kẽm) 13 Lò đốt chất thải y tế 130 130 300-450 kg/ngày Đánh giá chung: Nền công nghệ xử lý CTNH của Việt Nam trong những năm vừa qua, đặc biệt sau khi có sự ra đời của Luật Bảo vệ môi trường 2005 và các văn bản dưới Luật như Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại và Quyết định số 23/2006/QĐBTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Danh mục chất thải nguy hại đã có những bước phát triển đáng kể. [10] Các công nghệ hiện có của Việt Nam còn chưa thực sự hiện đại, sử dụng các công nghệ đa dụng cho nhiều loại CTNH và thường ở quy mô nhỏ, nhưng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu xử lý CTNH của Việt Nam. Đặc biệt công nghệ đốt chất thải được sử dụng phổ biến hơn cả. Phương pháp này có ưu điểm là làm giảm 16 đáng kể thể tích chất thải và rất nhiều chất hữu cơ khó phân hủy bằng phương pháp sinh học hoặc hóa học lại có thể bị phân hủy dễ dàng ở nhiệt độ thích hợp. Tuy nhiên để thực sự đảm bảo công tác quản lý CTNH đạt yêu cầu, cần tìm hiểu và phân tích đánh giá các công nghệ đốt để xử CTNH tại Việt Nam cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra, cần nghiên cứu chuyên sâu các công nghệ để xử lý các loại CTNH đặc thù. Bên cạnh đó cần phải tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra để đảm bảo các công nghệ đã được cấp phép hoạt động tuân thủ đúng quy định, đạt các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. [4] 1.3. CÔNG NGHỆ ĐỐT CHẤT THẢI NGUY HẠI Đốt chất thải nguy hại cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn về khí thải công nghiệp theo QCVN 30 :2012/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về khí thải lò đốt chất thải Công nghiệp .[31] Để đáp ứng các tiêu chuẩn này, một loạt yêu cầu về chất thải đưa vào đốt, thiết kế lò đốt cần phải được nghiên cứu, đặc biệt phải đảm bảo điều kiện vận hành lò đốt (hoạt động của lò đốt) bao gồm: Nhiệt độ tại vùng đốt sơ cấp Nhiệt độ tại buồng đốt thứ cấp Thời gian lưu cháy Lượng ô xi dư Nhiệt độ khí thải ra môi trường Nhiệt độ bên ngoài vỏ lò An toàn điện, điện trở nối đất với các bộ phận kim loại... Ngoài ra còn cần phải đảm bảo các yêu cầu khác có liên quan như: - Quy định về vận hành - Quy định về phòng ngừa và ứng phó sự cố - Quy định về giám sát môi trường Tùy theo từng thời kỳ phát triển của các ngành công nghiệp, nhu cầu về vốn đầu tư, về bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi của nhân dân xung quanh .... mà mức độ cụ thể và chi tiết của các qui định này cũng tăng lên. Hiện nay, số lượng các lò đốt chất thải nguy hại đang tăng về số lượng song yêu cầu đáp ứng về các tiêu chuẩn chưa triệt để nên cần nêu rõ một số qui định (chưa phải là tất cả) về vận hành lò đốt cần thực hiện để các doanh nghiệp định hướng đầu tư, các cơ quan quản lý môi trường chất thải nguy hại). Có cơ sở để kiểm tra, đánh giá và có thể cả cấp phép cho các lò đốt chất thải nguy hại hoạt động.[15,17] 1.3.1. Các loại lò đốt chất thải nguy hại 1.3.1.1. Lò đốt thùng quay. Lò đốt thùng quay thường được gọi là hệ thống lò đốt thùng quay vì được hình thành từ hai buồng đốt, buồng đốt đầu là thùng quay và buồng đốt thứ cấp là buồng đốt đứng nối tiếp với buồng đốt đầu. Tro lò được thải ra liên tục ở phía cuối của lò đốt đầu. Đường kính ngoài của lò thùng quay thường nhỏ hơn 4,5 m. Chiều dài của 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan