Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện internet...

Tài liệu Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện internet

.PDF
103
1105
101

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRỊNH THỊ THU Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện Internet LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC HÀ NỘI, 2008 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 4 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ................................................... 9 1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em ở các góc độ khoa học khác nhau. ................................ 9 1.1.1 Những nghiên cứu trên thế giới ............................................................... 9 1.1.2 Những nghiên cứu trong nƣớc ............................................................... 12 1.2. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 15 1.2.1. Khái niệm trẻ em ................................................................................... 15 1.2.2 Khái niệm hành vi phạm pháp của trẻ em nghiện internet .................... 21 1.2.3. Khái niệm nguyên nhân tâm lý .............................................................. 42 CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 53 2.1. Nghiên cứu lý luận ................................................................................... 53 2.1.1 Mục đích nghiên cứu lý luận.................................................................. 53 2.1.2 Nội dung nghiên cứu .............................................................................. 53 2.13. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................ 53 2.2. Nghiên cứu thực tiễn ................................................................................ 54 2.2.1 Mục đích nghiên cứu thực tiễn............................................................... 54 2.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng................................................ 54 2.3. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu ............................................................ 59 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 61 3.1. Thực trạng trẻ em nghiện internet có hành vi phạm pháp ....................... 61 3.1.1. Phân tích các chỉ số liên quan đến khách thể của đề tài ...................... 61 3.1.2. Hành vi phạm pháp của trẻ ................................................................... 65 3.2 . Hoàn cảnh gia đình.................................................................................. 66 3.2.1. Đặc điểm gia đình của trẻ em nghiện internet có hành vi phạm pháp . 66 3.2.2. Nghề nghiệp của cha mẹ ....................................................................... 68 3.3. Về quan hệ bạn bè .................................................................................... 70 3.4. Về nhận thức pháp luật ............................................................................ 72 1 3.5. Trí tuệ của trẻ em nghiện internet có hành vi phạm pháp........................ 73 3.5.1. Về chỉ số IQ .......................................................................................... 73 3.5.2. Về trí nhớ............................................................................................... 78 3.6. Diễn biến quá trình thực hiện hành vi phạm pháp thông qua thời gian lên mạng ................................................................................................................ 80 3.7 . Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện interent. ......................................................................................................................... 83 3.7.1. Nhóm nguyên nhân chính ..................................................................... 83 3.7.2. Nhóm nguyên nhân bổ xung ................................................................. 88 3.8. Phân tích một số trƣờng hợp điển hình .................................................... 92 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 98 2 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Phần Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Một trong những mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia là bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vì "trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai". ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta rất chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực, đặc biệt coi trọng việc chăm sóc và giáo dục trẻ em; trong đó có trẻ em phạm pháp (vi phạm pháp luật). Điều đó thể hiện chính sách nhân đạo, sự quan tâm, chú ý về mọi mặt của Đảng và Nhà nước Việt Nam với mọi đối tượng trẻ em. Các nhà tâm lý học, giáo dục học và tội phạm học đã và đang dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu trẻ em phạm pháp, trong đó có việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp. Thực tế qua rất nhiều công trình khoa học, những kết quả nghiên cứu cho thấy, hành vi phạm pháp của các em là kết quả tác động của nhiều yếu tố: đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình không thuận lợi, quan hệ bạn bè..v.v…Ngoài ra, thực tế cũng cho thấy rằng, trẻ em nói riêng, con người nói chung phạm tội còn do sự biến đổi nội dung nhu cầu theo hướng không lành mạnh, không phù hợp với chuẩn mực xã hội, cho nên việc giáo dục để trẻ em hình thành nhu cầu đúng đắn là một việc làm rất thiết thực. Hơn nữa, trong thời kỳ CNH- HĐH đất nước như hiện nay, nền kinh tế có những bước phát triển vượt bậc, các thành tựu của khoa học kỹ thuật được áp dụng vào hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có công nghệ thông tin. Sự ra đời của mạng internet không chỉ giúp con người tiếp cận với những công nghệ hiện đại, sử dụng chúng vào lĩnh hội tri thức của thế giới một cách nhanh nhất, mà còn làm cho khoảng cách giữa con người cũng như giữa các nước xích lại gần nhau. Đặc biệt với sự ra đời của internet tốc độ cao, việc học tập, tìm kiếm thông tin cũng nhanh chóng và dễ dàng hơn trước rất nhiều; hình thức giải trí của con người cũng đa dạng và có nhiều sự lựa 1 chọn hơn. Nhưng bên cạnh rất nhiều tiện ích mà internet mang lại, cũng có những bất cập, mà một trong số đó là trẻ em có hành vi phạm pháp do nghiện internet ngày càng gia tăng. Hàng ngày, hàng giờ chúng ta vẫn thấy trên các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những con số báo động về thực trạng trẻ em phạm pháp do nghiện internet gây ra. Báo Công an nhân dân số 673, ngày 25/4/2007 có bài “ Bắt nhanh băng cướp nghiện “nét” của Hà Bình, báo CAND số 532, ngày 11/11/2006 có bài viết “ Truy xét nhanh băng cướp nghiện internet” của Xuân Mai hay bài viết “Nghiện điện tử, anh họ sát hại em” của Thanh Sơn- Hà Thiều đăng trên báo Gia đình xã hội số 59 ngày 16/5/2008..v..v..Theo chúng tôi tìm hiểu từ năm 2006 đến nay, tình trạng trẻ em nghiện internet có hành vi phạm pháp được nói đến rất nhiều. Do vậy, việc tìm hiểu những nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em nghiện internet sẽ góp phần phát hiện ra những biến đổi tâm lý trong con người các em, qua đó đưa ra những giải pháp giúp các gia đình, các nhà giáo dục, nhà quản lý có những biện pháp để kiểm soát vấn đề này, giúp các em trở lại cuộc sống bình thường, hoà nhập xã hôị, đem lại niềm vui cho gia đình và sự bình yên của xã hội. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu" Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em nghiện internet ". 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu những nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em nghiện internet. Trên cơ sở này, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị với gia đình, với những người làm công tác giáo dục, các cơ quan chức năng trong việc giáo dục trẻ em và quản lý mạng internet, góp phần ngăn chặn, hạn chế hiểm hoạ trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật (phạm pháp). 3. Đối tượng nghiên cứu 2 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em nghiện internet. 4. Khách thể nghiên cứu Trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi có hành vi phạm pháp do nghiện internet đang học tập và lao động tại Trường Giáo dưỡng số 2- V26 – Bộ Công an. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Nghiên cứu thực trạng trẻ em có hành vi phạm pháp do nghiện internet, xác định nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp. - Đưa ra một số kiến nghị với gia đình, nhà trường trong giáo dục con em sử dụng internet có mục đích và với các cấp ngành có liên quan. 6. Phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn về nội dung: Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu những nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện internet. 6.2. Giới hạn về không gian nghiên cứu Trẻ em có hành vi phạm pháp do nghiện internet hiện đang học tập và lao động tại Trường giáo dưỡng số 2- V26- Bộ Công an. 6.3. Giới hạn về khách thể nghiên cứu Trẻ em có độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi. 7. Giả thuyết nghiên cứu - Số trẻ em nghiện internet có hành vi phạm pháp đang ngày một gia tăng trong xã hội. - Nếu nhu cầu sử dụng internet của trẻ em có sự biến đổi: từ chỗ chơi để giải trí, tò mò, phục vụ cho học tập.v.v.. đến nghiện sẽ dẫn đến các hành vi 3 phạm pháp, lệch chuẩn. Cần có sự phân tích định lượng và định tính sự biến đổi đó. 8. Phương pháp nghiên cứu 8.1. Những nguyên tắc phương pháp luận 8.1.1. Nguyên tắc hoạt động – nhân cách Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện internet được chúng tôi nghiên cứu thông qua phân tích hoạt động thực tiễn của các em như: trong sinh hoạt, trong quan hệ với người khác, trong hành động của các em và đặc biệt trong sự biến đổi nội dung nhu cầu, cấu trúc động cơ chủ đạo của chúng. 8.1.2. Nguyên tắc tiếp cận hệ thống Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện internet được xem xét trong mối quan hệ nhiều mặt: với bố mẹ, gia đình, bạn bè đồng trang lứa...vv.; Trên cơ sở đó đưa ra nguyên nhân chính và nguyên nhân bổ xung dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ nghiện internet. 8.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 8.2.1. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, tài liệu 8.2.2. Phương pháp phân tích một số trường hợp điển hình 8.2.3. Phương pháp chuyên gia 8.2.4. Phương pháp quan sát 8.2.5. Phương pháp phỏng vấn 8.2.6. Phương pháp trắc nghiệm 8.2.6.1. Trắc nghiệm trí nhớ 8.2.6.2. Trắc nghiệm trí tuệ 8.2.7. Phương pháp bằng thống kê toán học 4 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 9. Kết cấu của đề tài Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu lý luận 2. 2. Nghiên cứu thực tiễn 2.3. Khách thể nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu 3.1.Thực trạng về trẻ em nghiện Internet có hành vi phạm pháp ở trường Giáo dưỡng số 2 – V26 – Bộ Công an. 3.7. Nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em nghiện internet. 3.8. Phân tích một số trường hợp điển hình. Kết luận và kiến nghị 5 Chương 1: Một số vấn đề lý luận 1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em ở các góc độ khoa học khác nhau. 1.1.1 Những nghiên cứu trên thế giới Từ xa xưa, nhiều người đã nghiên cứu nguyên nhân trẻ em phạm pháp, nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vấn đề này được các tác giả của nhiều trường phái quan tâm một cách cụ thể hơn. ở các công trình nghiên cứu về tội phạm học, vấn đề nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp nói chung và phạm tội nói riêng, thường được xem xét trong mối quan hệ phối hợp “môi trường - người phạm tội”. Nhưng nguồn gốc phát sinh tội phạm đã được giải quyết rất khác nhau và gây ra nhiều tranh luận. Cũng tương tự như vậy, vào thế kỷ XIX khi ngành tội phạm học thế giới phát triển ở mức cao, cuộc tranh luận về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp đã diễn ra quyết liệt theo hai trường phái đối lập. Trường phái nhân chủng học, người đề xướng là Lombroso (18351909)- giáo sư pháp y người Italia cho rằng: nguyên nhân hàng đầu của hành vi phạm tội nằm ở chính trong con người và những đặc tính tâm lý của người phạm tội. Lombroso chứng minh rằng, những tên tội phạm là sự lại giống của những loại hình người sơ khai và hung dữ, biểu hiện qua những nét trên cơ thể như trán dô, mắt xếch…v.v.. Theo hướng này,nhóm tác giả cho rằng "tội phạm là dạng thấp của hành vi và người phạm tội gần giống với tổ tiên loài người hơn là những người không phạm tội cả về đặc điểm và thiên hướng: [ 44; tr 53,54]. Vì vậy, theo Lombroso, nguyên nhân nảy sinh tội phạm là do bẩm sinh, đặc điểm cơ thể sinh học hoặc do bệnh lý, cho nên cứ nhìn tướng mạo, dáng vẻ bề ngoài người ta có thể biết ai (hoặc sẽ) là kẻ phạm tội. Trong khi Lombroso tìm kiếm sự giải thích hành vi phạm tội thông qua những thí nghiệm và nghiên cứu khoa học thì Garofalo (1852- 1934) đi tìm 6 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi hiểu sự lệch lạc liên quan đến phạm tội từ góc độ sinh học được đặc trưng bởi các nét, các loại hình cơ thể hay sự biến đổi bất thường các cấu tạo nhiễm sắc thể. Về thực chất của trường phái nhân chủng học là học thuyết về bản chất sinh học của tội phạm và vai trò của con người trong nguyên nhân dẫn đến phạm tội. Như vậy, con người ở đây được coi là một thực thể sinh học thuần tuý chứ không phải là một thành viên xã hội. Quan điểm này vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay và biến tướng dưới nhiều hình thức đa dạng, dưới cái nhìn của nhiều nhà tội phạm học tư sản: coi trọng yếu tố bẩm sinh, di truyền trong việc qui định hành vi phạm tội của cá nhân. Trường phái nhân chủng học và các biến tướng của nó đã chú ý một cách “thái quá” đến các đặc điểm y sinh học của những người phạm tội mà không phân tích khía cạnh xã hội đối với tội phạm và nguyên nhân của nó. Trường phái môi trường xã hội: Ngày nay, trong nhiều sách báo không hiếm gặp các trường hợp đề cập, lí giải về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội theo kiểu một chiều như học thuyết về môi trường xã hội. Những người theo trường phái này đưa ra những số liệu so sánh giữa điều kiện sinh sống, khả năng thu nhập, trình độ học vấn của những người phạm tội và không phạm tội để thuyết phục rằng, nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do: - Hoàn cảnh kinh tế khó khăn - Bị người xấu xúi giục - Không được chăm sóc chu đáo - Bị ảnh hưởng của lối sống lạc hậu, bị tiêm nhiễm văn hoá đồi truỵ. Tóm lại, tội phạm là hậu quả của những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường xã hội khách quan. Trên thực tế, những người theo quan điểm này đã không xem xét đến tính chủ động của cá nhân trong mối quan hệ với những điều kiện và hoàn cảnh xã hội. Cũng cần phải thấy rằng, nhân cách người 7 phạm tội là một vấn đề đặt ra cho các nhà tội phạm học mối quan tâm riêng, vì nhân cách không chỉ chịu tác động của các điều kiện ngoại cảnh mà còn tích cực tác động vào hoàn cảnh. ở con người, đặc trưng cơ bản là hoặc động có mục đích, do đó, phải xác định người phạm tội đã chịu tác động của hoàn cảnh như thế nào cũng như theo cơ chế nào. Như vậy, có thể nhận thấy rằng, nguyên nhân dẫn đến hành vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện hoàn cảnh khách quan mà còn phụ thuộc vào chủ thể hành động của con người với những kết cấu hết sức phức tạp về tâm - sinh lý . Dưới góc độ tâm lý học có một số hướng, lý thuyết của các trường phái sau nghiên cứu về hành vi phạm pháp . Hướng tiếp cận phân tâm học- đại diện là S. Freud (1856 – 1939) đã giải thích tội phạm từ góc độ phân tâm; “tội phạm là kết quả xung đột giữa bản năng thô bạo (như tính hung hãn, phá phách của con người) với các qui tắc đạo đức xã hội”. Quá trình xã hội hóa đầu tiên- thời thơ ấu của đứa trẻ bị rối loạn, nhân cách bị bóp méo, phát triển không bình thường nên sau này dẫn đến hành vi sai lệch, hành vi phạm tội [3; tr 10,11]. Freud đã đưa ra cấu trúc nhân cách gồm 3 bộ phận: cái ấy- bản năng, cái tôi- bản ngã, và siêu tôi- siêu ngã. Theo đó, bản năng là phần vô thức, là cái chất sinh vật của cá nhân, cái siêu ngã ở phần lương tri, là những ước chế của xã hội. Trong thực tế hành động, khi cá nhân để cho phần bản năng bị chế ngự bởi cái siêu ngã thì hành vi vi phạm pháp luật sẽ xuất hiện, cá nhân đó dễ phạm tội. Tư tưởng, cuộc sống của con người do những do những bản năng quyết định: những bản năng, những thúc đẩy của nguyên ngã muốn tìm cách biểu lộ ra bên ngoài, nhưng các xung lực bị dồn nén, nếu có biểu lộ ra thì chỉ dưới những hình thức cải biến, nguỵ trang. Vì vậy, nguyên nhân của những hành vi lệch chuẩn nói chung, hành vi phạm pháp nói riêng nằm trong sự xã hội hoá thời kỳ đầu của đứa trẻ có nhiều thiếu sót. 8 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Hướng tiếp cận hành vi: Chủ nghĩa hành vi chú ý đến những phản ứng và tác nhân môi trường đến hành vi để tìm hiểu sự phát triển tâm lý của trẻ chưa thành niên. Theo B.F. Skinner (1904-1990), trí não dù vô thức hay ý thức không cần thiết để giải thích hành vi và sự phát triển, mà sự phát triển và hành vi là một [23, tr 33,34]. Trẻ em phạm pháp là do tâm sinh lý lứa tuổi mới lớn (chưa trưởng thành, nhận thức pháp luật hạn chế..). Vì vậy, lý thuyết hành vi vận dụng để giải thích những trường hợp trẻ em ở tuổi chưa thành niên thực hiện hành vi phạm pháp do không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tóm lại, có rất nhiều hướng tiếp cận cũng như nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập và tìm hiểu về hành vi phạm pháp dựa trên cơ sở sinh học, tâm lý học, xã hội học. Mỗi lý thuyết khác nhau có những cách lý giải khác nhau về nguồn gốc phát sinh của hành vi lệch chuẩn nói chung, hành vi phạm pháp nói riêng. 1.1.2 Những nghiên cứu trong nước Có rất nhiều tác giả Việt nam đã nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em vị thành niên . Nghiên cứu của Phạm Minh Hạc cùng các cộng tác viên trong 3 năm (1978- 1980) đã tìm hiểu nguyên nhân trẻ em phạm pháp. Sau một thời gian tìm hiểu trong trại giam như gặp gỡ, trao đổi ý kiến với học sinh và người phụ trách công việc giáo dục, nhóm tác giả đã có cơ sở để giải thích rằng, giao tiếp nhóm (có quan hệ trong một nhóm bạn bè) là một nguyên nhân cơ bản và trực tiếp đưa trẻ tới hành vi phạm pháp. Theo tác giả, những trẻ này giao tiếp nhóm không hướng chúng vào hoạt động học tập, mà hướng vào những hoạt động, chủ yếu nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất, trong khi không vì hoàn cảnh gia đình khó khăn hay tan vỡ mà dẫn trẻ em đến hư, phạm pháp (vì thực tế nghiên cứu có 77% kinh tế gia đình các em này đủ ăn, 70- 80% có gia đình hoàn thiện). Tìm hiểu sâu hơn các tác giả nhận thấy, chính cách giáo dục thô 9 bạo, sai lầm và sự không quan tâm của gia đình là một trong những nguyên nhân làm phá huỷ những tình cảm tích cực để thay vào đó là tình cảm tiêu cực (chống đối). ở lứa tuổi thiếu niên – lứa tuổi của các khách thể được các tác giả nghiên cứu với đặc trưng là quan hệ bạn bè gắn bó hơn cả, các mối quan hệ bạn bè dần thay thế mối quan hệ trước đó đã được thiết lập trong gia đình. Vì vậy, nếu quan hệ bạn bè, hay việc giao tiếp quá thường xuyên với những nhóm bạn xấu (chơi bời lêu lổng, bỏ học, ăn cắp..vv.) trong giai đoạn này sẽ có nguy cơ cao dẫn tới những hành vi phạm pháp. Tác giả Trần Công Phàn trong công trình nghiên cứu "Tình hình, nguyên nhân và biện pháp đấu tranh phòng chống các tội tham nhũng” [ 20] cho rằng, nếu thừa nhận tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, những hành vi nguy hiểm ấy, không chỉ do tác động của yếu tố bên ngoài, yếu tố khách quan mà còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan, với tư cách là yếu tố bên trong có kết cấu tâm sinh lý, ý thức, hệ tư tưởng phức tạp. Vì vậy, nguyên nhân của tội phạm phải được xem trong tổ hợp thống nhất của các yếu tố chủ quan và khách quan. Trong những yếu tố tâm sinh lý cần chú ý đến những biến đổi nội dung của nhu cầu, lợi ích, cách thức, con đường thỏa mãn nhu cầu. Nguyên nhân trực tiếp của tội phạm phần lớn do ý thức sai về cách thức thỏa mãn nhu cầu. Tác giả Nguyễn Thị Hồng Nga trong nghiên cứu “ Những nguyên nhân dẫn trẻ em đến hư hỏng phạm pháp" [18; tr 21,22] cho rằng, trẻ em phạm pháp phần lớn bị tổn thương về mặt tinh thần hoặc thể xác do cha mẹ của các em và xã hội gây ra. Nói cách khác, tác giả nhấn mạnh khía cạnh môi trường gia đình và xã hội - nhóm là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em. Tác giả Nguyễn Thị Hoa trong bài viết "Một số đặc điểm tâm lý có nguy cơ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của trẻ vị thành niên” [13; tr27] cũng đã đề cập đến nguyên nhân tâm lý dẫn đến hành vi phạm pháp ở trẻ. Đó 10 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi là nhu cầu được khẳng định quá cao trong khi hoàn cảnh kinh tế gia đình không thuận lợi, bố mẹ không quan tâm, nên các em đã tìm đến với bạn bè để thoả mãn nhu cầu của mình; đây cũng là thời điểm các em dễ chịu tác động của nhóm bạn bè xấu. Bên cạnh đó, nhu cầu vui chơi giải trí của các em cũng là nhu cầu chính đáng nhưng do quá ham mê các trò chơi nên các em đã để hoạt động chơi lấn áp hoạt động học tập. Đây là một trong những nguy cơ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Chính việc quá say mê các trò chơi đã dẫn các em có những hành vi nói dối, gian lận với người thân, nhiều trường hợp, có những hành vi trộm cắp để có tiền chơi, trong khi đó nhận thức pháp luật của các em còn hạn chế. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy, nhóm bạn không chính thức cũng ảnh hưởng đến hành vi vi phạm pháp luật của trẻ vị thành niên. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Mạc Văn Trang đã mô tả toàn bộ quá trình biến đổi tâm lý từ những đứa trẻ bình thường đến người chưa thành niên phạm pháp do ảnh hưởng của nhóm bạn bè tiêu cực. Đó là sự biến đổi nhận thức, đời sống tình cảm, nhân cách và sự hình thành hành vi phạm pháp ở người chưa thành niên. Tác giả cho rằng, những đứa trẻ đang phát triển bình thường nếu không được quan tâm, giáo dục, rơi vào hoàn cảnh không may, bị những hoạt động tiêu cựu lôi cuốn sẽ dần dần nảy sinh những yếu tố tâm lý tiêu cực và biến thành trẻ phạm pháp. Quá trình biến đổi tâm lý của trẻ bình thường thành trẻ phạm pháp trải qua 3 giai đoạn: đứa trẻ bắt đầu bị lôi cuốn vào những hoạt động tiêu cực, những hoạt động tiêu cực dần chiếm ưu thế và những hoạt động tiêu cực trở thành chủ yếu trong đời sống của thiếu niên, dẫn đến sự biến chất về nhân cách và thực hiện hành vi phạm pháp [29, tr 14,16]. Tác giả Lê Như Hoa [12] khi tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ cho rằng văn hoá gia đình, đặc biệt là quan điểm, thái độ 11 và phương pháp sai lầm của người làm cha, làm mẹ là nguyên nhân khiến các em có hành vi phạm pháp. Tác giả Nguyễn Đình Gấm [7; tr 17,18] khi nghiên cứu nguyên nhân tâm lý xã hội của tội phạm vị thành niên cho rằng, tác động mạnh mẽ của xu thế quốc tế hoá, của quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá..làm biến đối tâm tư, nguyện vọng, quan điểm, lý tưởng sống của vị thành niên. Quá trình này làm biến động về định hướng gía trị trong xã hội, làm xuất hiện xu hướng đề cao, coi trọng quá mức giá trị vật chất, giá trị kinh tế, giá trị cá nhân mà xem nhẹ, thậm chí coi thường giá trị đạo đức, giá trị tập thể của người lớn, của các bậc cha mẹ. Tóm lại, các nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập được một số khía cạnh về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ em dưới các góc độ khác nhau nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi khảo sát các nguyên nhân phạm pháp nói chung như: gia đình không thuận lợi, nhóm bạn bè tiêu cực ảnh hưởng đến hành vi phạm pháp của trẻ mà chưa nói hoặc chưa phân tích sâu nguyên nhân tâm lý thúc đẩy hành vi phạm pháp của trẻ. Vì vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân tâm lý thúc đẩy trẻ em nghiện internet dẫn đến hành vi phạm pháp thực sự là điều cần thiết, đóng góp thêm cả phần lý luận và thực tiễn để ngăn ngừa hành vi phạm pháp của trẻ em. 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Khái niệm trẻ em Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển đầu tiên của cuộc đời con người. Sự xác định lứa tuổi trẻ em tuỳ thuộc vào lịch sử, tập quán và sự phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới. Do đó, với những nước khác nhau với những quan niệm khác nhau đã có những định nghiã khác nhau về trẻ em. - Có nước coi trẻ em là những người dưới 15 tuổi, một số nước khác họ cho rằng, trẻ em là những người dưới 16,17 hoặc 18 tuổi. 12 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi - Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em qui định: "trẻ em là những người dưới 18 tuổi”. - ở nước ta, người chịu trách nhiệm hình sự là những người từ 18 tuổi trở lên. Như vậy, ở góc độ này trẻ em được coi là những người dưới 18 tuổi". - Trong luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam thì trẻ em được coi là những người từ 16 tuổi trở xuống. - Tác giả Đỗ Bá Sở cho rằng: "trẻ em nói chung là người có độ tuổi tuổi từ chưa đủ 18 tuổi trở xuống, người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, trí tuệ". [38; tr 20] ở Việt Nam, trong tâm lý học nói chung và tâm lý học lứa tuổi nói riêng, các nhà tâm lý học thường sử dụng thuật ngữ “trẻ em, vị thành niên, người chưa thành niên” để chỉ người chưa đủ 18 tuổi. Hiện nay, thuật ngữ “trẻ em, vị thành niên” tuy không được các nhà làm luật sử dụng (mà thay vào đó đó là người chưa thành niên) nhưng khi nói đến “trẻ em, vị thành niên” chúng ta vẫn hiểu đó là những người dưới 18 tuổi. Vì vậy, thuật ngữ “trẻ em” từ 12 đến dưới 18 tuổi có thể coi đồng nghĩa với thuật ngữ “ vị thành niên và chưa thành niên”. Như vậy, có sự khác nhau trong việc xác định độ tuổi trẻ em. Trong công trình nghiên cứu này trẻ em là những người dưới 18 tuổi vì phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và phù hợp với luật pháp của nước Việt Nam về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. 1.2.1.1. Đặc điểm tâm lý trẻ em Vì đề tài tập trung nghiên cứu trẻ em lứa tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi nên chúng tôI tìm hiểu một số đặc điểm tâm lý lứa tuổi này. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt trong thời kỳ phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau của nó: "thời kỳ quá độ", "tuổi khó bảo", "tuổi 13 khủng hoảng", "tuổi bất trị"…Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển của trẻ: Đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Nội dung cơ bản của sự khác biệt ở lứa tuổi trẻ em với các lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về mặt cơ thể và ứng xử xã hội, do sự xuất hiện những yếu tố mới của cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với người lớn, với bạn bè, của hoạt động học tập, hoạt động xã hội.. Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi thiếu niên là tính tích cực xã hội mạnh mẽ của bản thân các em nhằm lĩnh hội những giá trị, những chuẩn mực nhất định, nhằm xây dựng những quan hệ thoả đáng với người lớn, bạn bè và cuối cùng nhằm vào bản thân, thiết kế nhân cách, tương lai của mình với ý đồ thực hiện những ý định, mục đích, nhiệm vụ…một cách độc lập. Tuy nhiên, quá trình hình thành cái mới thường kéo dài về thời gian và phụ thuộc vào điều kiện sống, hoạt động của các em. Do đó, sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này diễn ra không đồng đều về mọi mặt. Điều đó quyết định sự tồn tại song song "vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn" ở lứa tuổi này. Mặt khác, ngay ở những em cùng độ tuổi cũng có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Sự khác nhau đó do hoàn cảnh sống, mức độ hoạt động tích cực khác nhau của các em qui định. 1.2.1.1.1. Sự biến đổi về giải phẫu sinh lý Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy, sự phát triển của hệ xương mà chủ yếu là sự phát triển các xương tay, xương chân rất nhanh (nhưng xương ngón tay, xương ngón chân phát triển chậm). Vì thế, ở lứa tuổi này các em không mập mà cao, gầy thiếu cân đối, các em có hành động lóng ngóng và vụng về khi làm việc, không khéo léo, thiếu thận trọng, hay làm đổ vỡ…Điều đó gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu. Các em ý thức được sự 14 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi lóng ngóng vụng về nên cố che dấu nó bằng điệu bộ để người khác không chú ý tới vẻ bề ngoài của mình. Sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Thể tích của tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn, nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển chậm, không đồng bộ; do đó có một số rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn như: tăng huyết áp, tim đập nhanh, hay nhức đầu, mỏi mệt.. Sự phát dục ở lứa tuổi trung học cơ sở cũng ảnh hưởng đến tâm lý các em, có sự không cân đối giữa sự phát dục, bản năng tương ứng, với mức độ trưởng thành về mặt tâm lý, xã hội. Khó khăn trở ngại ở lứa tuổi này chính là ở chỗ các em chưa biết đánh giá, chưa biết kìm hãm và hướng dẫn bản năng, ham muốn của mình một cách đúng đắn, chưa biết kiểm soát tình cảm và hành vi, chưa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với người bạn khác giới. Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh, thường dẫn đến những thay đổi của hoạt động của hệ thần kinh mà các em chưa thích nghi. Do đó, các em dễ xúc động, dễ bực tức, nổi khùng, thường có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động. Hệ thần kinh của thiếu niên chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu, kéo dài. Do vậy, tác động của những kích thích như thế thường gây cho các em tình trạng bị ức chế hay ngược lại xảy ra tình trạng bị kích động mạnh.. Sự thay đổi về thể chất của lứa tuổi thiếu niên đã làm cho các em có những đặc điểm nhân cách khác với các em ở lứa tuổi trước. Đây là lứa tuổi có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao, có nhiều dự định lớn lao [11]. 1.2.1.1.2. Sự hình thành kiểu quan hệ mới Lứa tuổi thiếu niên có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn và mong muốn người lớn quan hệ lại một cách bình đẳng như người lớn, không muốn 15 bị người lớn coi là như trẻ con trước đây vì kiểu quan hệ của người lớn với trẻ em trước đây không còn thích hợp ở lứa tuổi này. Vì thế, các em mong muốn cải tổ lại mối quan hệ theo chiều hướng hạn chế quyền của người lớn, mở rộng quyền hạn của mình. Các em mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập của các em. Để duy trì mối quan hệ giữa các em và người lớn nhằm thay đổi kiểu quan hệ cũ bằng quan hệ mới, các em hay có những hình thức chống cự, không phục tùng và xem chúng như là phương tiện, cách thức để giải quyết vấn đề. Vì có sự nảy sinh ở lứa tuổi này về cảm giác và nhu cầu được thừa nhận là người lớn, nên vấn đề quyền hạn của người lớn và các em cần phải được thay đổi. Quan hệ xung đột giữa các em với người lớn làm nảy sinh những hành vi tương ứng ở các em; xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em và không chịu hiểu các em, khó chịu một cách có ý thức với những yêu cầu, những đánh giá, nhận xét của người lớn Sự giao tiếp và mối quan hệ của trẻ lứa tuổi này với bạn bè cùng lứa phức tạp, đa dạng hơn nhiều so với lứa tuổi trước. Sự giao tiếp, trao đổi giữa các em đã vượt ra ngoài đề tài học tập, phạm vi nhà trường và mở rộng trong những hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống. Các em có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn bè vì, một mặt, các em rất khao khát được giao tiếp và hoạt động cùng nhau, có nguyện vọng được sống tập thể, có những bạn bè thân thiết, tin cậy; mặt khác, cũng muốn biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là được bạn bè công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình. Nếu như quan hệ của các em với người lớn càng không thuận lợi, thì sự giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi càng tăng và ảnh hưởng của bạn bè đến với các em càng mạnh mẽ. Trong quan hệ giao tiếp của lứa tuổi này, trò chuyện giữ một vị trí có ý nghĩa đối với các em. Trong chuyện trò, các em đã kể cho nhau về mọi mặt 16 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi sinh hoạt, đời sống và suy nghĩ của mình. Các em có thể nói với nhau cả những chuyện, những điều "bí mật" mà những điều này nhiều khi không kể với ai, kể cả người thân trong gia đình. Các em hiểu đã là bạn bè của nhau thì phải cởi mở, hiểu nhau, tế nhị, vị tha, đồng cảm và giữ bí mật cho nhau. Quan điểm về tình bạn của lứa tuổi này là "sống chết có nhau", "chia ngọt sẻ bùi". Điều đó không chỉ là sự tuân thủ một cách nghiêm ngặt "bộ luật tình bạn", mà còn là vấn đề người này có thể thâm nhập vào mọi mặt đời sống của người kia, cùng nhau hợp tác hành động. 1.2.1.1.3. Sự hình thành tự ý thức ở trẻ tuổi thiếu niên đã bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến những phẩm chất nhân cách của mình như: nhu cầu tự đánh giá, nhu cầu so sánh mình với người khác; các em đã bắt đầu tự xem xét mình, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách của mình. Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức ở lứa tuổi này đã gây nhiều ấn tượng sâu sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý, đến hoạt động học tập, đến sự hình thành mối quan hệ qua lại với mọi người. Tự ý thức không có nghĩa tách rời khỏi thực tế, tách rời khỏi thế giới cảm xúc bên trong; cũng không phải là sự thể hiện độc nhất nguyện vọng tự nhận thức, tự phân tích triền miên, vô bổ. Nhu cầu tự ý thức được nảy sinh từ thực tế cuộc sống, từ hoạt động thực tiễn, từ yêu cầu, mong muốn của người lớn, của tập thể. Do sự phát triển mối quan hệ với tập thể, với đời sống xã hội mà các em nảy sinh nhu cầu đánh giá khả năng của mình, tìm kiếm vị trí của mình. Hành vi nêu trên sẽ giúp hoặc ngăn cản các em đạt được mong muốn trở thành người lớn. Sự hình thành tự ý thức của các em là một quá trình diễn ra dần dần. Cơ sở đầu tiên của tự ý thức là sự nhận xét đánh giá của người khác, nhất là người lớn. Vì thế các em ở lứa tuổi này "hình như" nhận xét mình bằng con mắt của người khác…Đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi này là sự mâu thuẫn giữa nhu cầu tìm hiểu bản thân với kỹ năng chưa đầy đủ để phân 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan