Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhân vật yêu ma trong truyền kì mạn lục của nguyễn dữ...

Tài liệu Nhân vật yêu ma trong truyền kì mạn lục của nguyễn dữ

.PDF
64
633
140

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ---------------------------- NGUYỄN THỊ THƠM NHÂN VẬT YÊU MA TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ TÍNH HÀ NỘI - 2011 Nguyễn Thị Thơm 3 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu khoa học vừa là niềm say mê, vừa là trách nhiệm của người đang học tập. Đặc biệt, đối với sinh viên cuối khóa, đây là cơ hội tốt để vận dụng kiến thức và kĩ năng lĩnh hội được trong suốt quá trình học tập ở trường Đại học vào thực tế nghiên cứu để mở mang thêm tầm hiểu biết vốn là vô hạn của con người. Nhận thấy tầm quan trọng đó, người viết đã tiến hành nghiên cứu với đề tài “Nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ”. Để hoàn thành khóa luận này, người thực hiện đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam cũng như các thầy cô trong khoa Ngữ văn. Đặc biệt là sự dẫn dắt, chỉ bảo tận tình của Th.s Nguyễn Thị Tính – Giáo viên hướng dẫn. Cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy Cô đặc biệt đối với ThS. Nguyễn Thị Tính đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành khóa luận này. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2011 Sinh viên Nguyễn Thị Thơm Nguyễn Thị Thơm 4 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các luận điểm và kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, tháng 05 năm 2011 Sinh viên Nguyễn Thị Thơm Nguyễn Thị Thơm 5 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỤC LỤC Trang Mở đầu ........................................................................................................ 7 1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................7 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...........................................................................8 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................11 5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................12 6. Đóng góp của đề tài...................................................................................12 7. Bố cục khóa luận ......................................................................................12 Nội dung.................................................................................................... 13 Chương 1: Những vấn đề chung..................................................................13 1.1 Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục........................................................13 1.1.1 Tác giả Nguyễn Dữ............................................................................13 1.1.2 Tác phẩm Truyền kì mạn lục ...........................................................14 1.2 Khái niệm nhân vật kì ảo, nhân vật yêu ma ...........................................17 1.2.1 Khái niệm nhân vật kì ảo ..................................................................17 1.2.2 Khái niệm nhân vật yêu ma ..............................................................20 1.3 Phân loại nhân vật yêu ma .....................................................................22 Chương 2: Nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục...............................26 2.1 Thống kê nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục............................26 2.2 Vẻ đẹp hình tượng nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục..............28 2.2.1 Vẻ đẹp ngoại hình.............................................................................29 2.2.2 Vẻ đẹp nội tâm .................................................................................30 2.2.2.1 Vẻ đẹp nhân nghĩa .......................................................................30 2.2.2.2 Vẻ đẹp nhân dục ..........................................................................33 Nguyễn Thị Thơm 6 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 2.3 Phương tiện nghệ thuật thể hiện nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục .................................................................................................................42 2.3.1 Bút pháp ước lệ tượng trưng trong miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ nhân vật .................................................................................................................42 2.3.2 Sự kết hợp giữa kì và thực .................................................................45 2.3.2.1 Yếu tố kì. ......................................................................................45 2.3.2.2 Yếu tố thực ...................................................................................55 Kết luận......................................................................................................62 Tài liệu tham khảo .................................................................................65 Nguyễn Thị Thơm 7 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thứ nhất, Truyền kì mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (Hải Dương), nay là Đỗ Lâm, Phạm Kha, Thanh Miện, Hải Dương. Song chỉ với Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã có vị trí rất quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Có được điều đó là bởi tác phẩm của ông rất độc đáo về thể loại (truyền kì) và chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc. Nguyễn Dữ là “cha đẻ của thể loại truyền kì ở Việt Nam”. Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu “Nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ” nhằm mục đích đánh giá một cách đúng đắn vị trí của tác giả, tác phẩm trong nền văn học nước nhà. Thứ hai, do vị trí của Nguyễn Dữ nên chương trình giảng văn ở Trung học phổ thông trích giảng một số truyện tiêu biểu của Truyền kì mạn lục như: Chuyện người con gái Nam Xương (THCS) và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (THPT). Hơn nữa, chính nhân vật kì ảo nói chung, nhân vật yêu ma nói riêng là sợi dây (vô hình) nối giữa văn học trung đại và văn học dân gian trước đó. Sau khi học xong phần văn học dân gian, học sinh phổ thông đã được tiếp xúc với hàng loạt các yếu tố hoang đường, kì ảo, nhân vật yêu ma trong truyền thuyết, thần thoại, cổ tích… Ngay sau đó các em lại được tếp cận với nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục, chính điều này sẽ giúp các em thấy được mối liên hệ đặc biệt của văn học dân gian và văn học viết trung đại, đồng thời tìm ra điểm khác biệt, nét riêng của từng bộ phận văn học trong dòng chảy chung của văn học nước nhà. Mặt khác, nhân vật yêu ma còn được xem là một trong những phương tiện chính tạo ra sức hấp dẫn và thành công cho tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tuy nhiên, giới nghiên cứu lại chưa quan tâm đến vấn đề này Nguyễn Thị Thơm 8 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 một cách đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy, với việc tiếp thu và kế thừa các công trình nghiên cứu và các thành tựu đi trước, tôi sẽ cố gắng trình bày những suy nghĩ, ý kiến của mình một cách có hệ thống, cụ thể hơn về nhân vật yêu ma trong tác phẩm của Nguyễn Dữ. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Văn học Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII đã chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển của nền văn học nước nhà. Đây là giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam. Trong đó, Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục đóng một bước tiến quan trọng cho văn xuôi tự sự. Với Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã thực hiện cuộc cách mạng của văn xuôi tự sự thời trung đại: chuyển hoàn toàn văn xuôi tự sự từ lĩnh vực văn học chức năng sang lĩnh vực văn học nghệ thuật. Cho nên Truyền kì mạn lục của ông thu hút không ít nhà nghiên cứu quan tâm. Vũ Khâm Lân đánh giá: Truyền kì mạn lục là “Thiên cổ kì bút”. Sau ông có nhiều tác giả nghiên cứu, khám phá thành công trên nhiều phương diện của tác phẩm, tiêu biểu như các công trình nghiên cứu sau: Nguyễn Phạm Hùng với: Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ trên tạp chí văn học, số 2/1987 cho rằng: “Yếu tố hoang đường kì ảo…chủ yếu phục vụ cho nhu cầu nhận thức cuộc sống thực tế của con người. Nó chủ yếu là phương tiện nghệ thuật chứ không còn là mục đích miêu tả”, ““Truyền kì mạn lục”là tác phẩm văn học viết mở đầu cho phong cách nghệ thuật phản ánh những cái bình thường, thông tục, phản ánh con người trần thế, có tính hiện thực”. Thực chất, ở bài viết này tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản về khuynh hướng nghệ thuật của Truyền kì mạn lục, chưa trực tiếp bàn đến vẻ đẹp và nghệ thuật xây dựng nhân vật yêu ma trong tác phẩm. Nguyễn Thị Thơm 9 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khi tìm hiểu những bài viết về Truyền kì mạn lục, tôi nhận thấy rằng các tác giả thường tập trung đưa ra kiến giải về Chuyện người con gái Nam Xương – tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở phổ thông nhiều năm nay. Giáo sư Nguyễn Đình Chú cho rằng: ““Chuyện người con gái Nam Xương” có ý nghĩa triết học cao hơn “Truyện Kiều”, bởi nội dung đã chạm vào sự ma quái có thực trong cuộc sống con người muôn thủa”” [3, tr. 3]. Còn tác giả Nguyễn Nam thì cho rằng: số phận của người phụ nữ xưa – Vũ Nương “lặng yên tức tưởi, hàm oan” và “Nỗi oan của nàng không kịp thời được cởi, mà phải đợi đến khi ngọn đèn tang ma thắp lên, nỗi oan nọ mới được xua tan” [17, tr. 12]. Giáo sư Nguyễn Đăng Na lại cho rằng: “Với “Người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức ước lệ về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì. Vũ Nương không phải là hình tượng một trang liệt nữ, nàng chỉ là một người đàn bà bình thường như bao người vợ, người mẹ, trong đời thực…” [16, tr. 32]. Cả ba tác giả này dù cùng đề cập sâu đến một nhân vật trong một tác phẩm cụ thể, nhưng mới chỉ đưa ra các nhận xét về các khía cạnh con người thực khái quát thành số phận chung của nhiều người phụ nữ được phản ánh trong Truyền kì mạn lục. Còn khía cạnh “kì ảo”, khía cạnh “cái chết và sự tỏa sáng của phần hồn” ẩn chứa đằng sau cái thực của nhưng nhân vật vẫn chưa được nói tới. Các nhà nghiên cứu Việt Nam còn có những bài viết nói về sự ảnh hưởng (nói khác đi là những điểm chung, điểm giống nhau) giữa Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ với Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc). Giáo sư Trần Đình Sử trong So sánh văn học và văn hóa – Nguyễn Dữ và tiên thoại Trung Quốc qua truyện Từ Thức lấy vợ tiên có viết: “Tác phẩm của ông (Nguyễn Dữ) được kết tinh từ nền văn học cổ điển chữ Hán rộng Nguyễn Thị Thơm 10 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 lớn” đó là khuynh hướng “cứu đời, khuyến thiện, trừng ác, đạo đức hóa”, vì vậy mà “bên cạnh hệ thống nhân vật thần tiên xuất hiện thêm hệ thống ma quỷ”. Tác giả bài viết cũng chỉ coi kiểu nhân vật yêu ma nói riêng, hệ thống nhân vật kì ảo nói chung là một yếu tố bổ trợ nhằm làm hoàn thiện cho nội dung tư tưởng Truyền kì mạn lục mà thôi. Đặc biệt, tác giả Đinh Phan Cẩm Vân đã có một bài viết quan trọng mang tính định hướng cho việc tìm hiểu hệ thống nhân vật kì ảo nói chung và kiểu nhân vật yêu ma nói riêng trong Truyền kì mạn lục. Ở bài viết: Cái “kì” trong tiểu thuyết truyền kì tác giả cho rằng “kì” là hạt nhân cơ bản của truyền kì. Bởi yếu tố “kì” không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà tham gia vào cốt truyện, thúc đẩy diễn biến cốt truyện. Hơn thế, cái “kì” còn đi sâu, xây dựng, chi phối tư duy nghệ thuật tác giả. Và “kì” khiến cho câu chuyện không chỉ dừng lại ở việc ghi chép mà trở thành sản phẩm của hư cấu tưởng tượng. Do đó, nó cũng là cách thức, phương tiện để xây dựng những nhân vật yêu ma, những “cái chết và sự tỏa sáng của phần hồn”. Qua đó, ta nhận thấy rằng tác giả Đinh Phan Cẩm Vân đã phát hiện và nhấn mạnh đến nhiệm vụ nghệ thuật của yếu tố kì ảo, coi đó vừa là yếu tố của hình thức vừa là yếu tố của nội dung. Tuy nhiên, tác giả cũng chưa đi sâu hơn phân tích về nhân vật yêu ma – nòng cốt và nền tảng chứa đựng mọi vấn đề nội dung và nghệ thuật mà Truyền kì mạn lục đưa ra. Tác giả khóa luận cũng thừa nhận với ý kiến nêu trên và sẽ làm sáng tỏ chúng ở phần tiếp theo của khóa luận. Nói chung, chỉ riêng về tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ đã có nhiều bài viết đề cập về nội dung, khuynh hướng sáng tác, đặc biệt là về vấn đề số phận và hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội cũ, về quyền được sống và quyền tự do yêu đương của con người ở xã hội phong kiến vô Nguyễn Thị Thơm 11 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 cùng khắt khe, nghiệt ngã. Tuy nhiên, các bài viết trên còn nhiều vấn đề để ngỏ cho nhiều hướng nghiên cứu tiếp theo. Trên cơ sở các nguồn tư liệu và tham khảo ở trên, tôi không có kiến giải gì thêm về số phận cá nhân trong Truyền kì mạn lục mà chỉ đi sâu vào tìm hiểu vẻ đẹp nhân vật yêu ma và cách thức thể hiện nhân vật yêu ma của Nguyễn Dữ trong tác phẩm này. Qua đó, người viết muốn một đóng góp nhỏ khẳng định sự thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nói chung trong Truyền kì mạn lục. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm thấy được thành công của Nguyễn Dữ trong việc khắc họa hình tượng nhân vật yêu ma của Truyền kì mạn lục. Cụ thể hơn đó là vẻ đẹp của kiểu nhân vật đặc biệt (nhân vật yêu ma) và các phương tiện nghệ thuật thể hiện kiểu nhân vật này. Mặt khác, người viết muốn làm rõ sự kế thừa và phát triển văn học dân gian của Nguyễn Dữ: ở phương diện thể hiện các nhân vật kì ảo (trong đó có nhân vật yêu ma), ở việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh sống… Đồng thời, Nguyễn Dữ chỉ ra sự khác biệt trong bút pháp thể hiện nhân vật yêu ma của tác giả so với Cù Hựu (Trung Quốc). 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Nhân vật yêu ma trong hai mươi truyện ở tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ do Trần Thị Băng Thanh giới thiệu và chỉnh lí, Nxb Văn học, H.1999. 4.2 Phạm vi nghiên cứu. Đề tài này nghiên cứu về nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Mặc dù, việc thể hiện vẻ đẹp của hình tượng nhân vật yêu ma và các phương tiện thể hiện kiểu nhân vật này trong tác phẩm của ông rất Nguyễn Thị Thơm 12 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 phong phú và đa dạng, nhưng do thời gian và khuôn khổ bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xem xét ở các phương diện sau: - Thống kê nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục. - Tìm hiểu vẻ đẹp nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục. - Phương tiện nghệ thuật thể hiện nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục. 5. Phương pháp nghiên cứu Để có được cái nhìn thấu đáo về mục đích, yêu cầu đưa ra trong đề tài này, tôi sẽ sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp thống kê. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp phân tích tổng hợp. 6. Đóng góp của đề tài Đây là công trình nghiên cứu một cách tập trung về nhân vật yêu ma trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Qua đó, thấy được sự đóng góp của Nguyễn Dữ với nền văn học Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là bài tập nghiên cứu khoa học rất hữu ích cho việc học tập và giảng dạy của bản thân tác giả khóa luận sau này. 7. Bố cục khóa luận Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Nhân vật yêu ma trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ Nguyễn Thị Thơm 13 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục 1.1.1. Tác giả Nguyễn Dữ Hiện nay, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng tác giả của Truyền kì mạn lục là Nguyễn Tự chứ không phải Nguyễn Dữ. “Do đặc điểm văn tự, hầu hết họ và tên các tác giả văn học trung đại Việt Nam được ghi bằng chữ Hán – Tên của Nguyễn Dữ cũng vậy” [18, tr. 2009]. Tuy có nhiều ý kiến về Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự nhưng đều có một nguồn thông tin về thân thế tác giả như sau: Nguyễn Dữ, quê ở xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (Hải Dương), nay là làng Đỗ Lâm, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện (Hải Dương). Cha của ông là Nguyễn Tường Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496) đời Lê Thánh Tông. Theo Ôn Đình hầu, người biên soạn Bạch Vân am cư sĩ phả kí và Ân Quang Hầu, người biên soạn tập thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ không ra làm quan, ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa và làm sách Truyền kì mạn lục. Sách ấy được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính trở thành “Thiên cổ kì bút” [12, tr. 504]. Nhưng theo bài tựa ở đầu đề cuốn truyện in mộc bản năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763), Lê Qúy Đôn trong Kiến văn tiểu lục, Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển và một số bài tựa ở cuốn Truyền kì mạn lục về sau thì Nguyễn Dữ có đi thi Hương và đỗ Hương tiến (tức cử nhân). Sau đó đi thi Hội và đỗ Tam trường, ra làm quan tri huyện Thanh Toàn (nay là huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) được một năm thì cáo quan về ở ẩn, lấy lí do là phải phụng dưỡng mẹ già cho trọn đạo hiếu, từ đó “trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành”. Nguyễn Thị Thơm 14 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 Năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ hiện chưa rõ ràng. Trong Hoàng Việt tuyển, Bùi Huy Bích xếp Nguyễn Dữ vào hàng ngũ các tác giả thời Mạc, sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước Giáp Hải và Lê Quang Bí. Lê Qúy Đôn trong Kiến Văn tiểu lục cũng viết: “Sau vì Ngụy Mạc cướp ngôi vua, ông thề không ra làm quan, ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ để chân đến thị thành”. Theo Công dư tiệp chí của Vũ Phương Đế, Nguyễn Dữ là học trò của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), bạn học với Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613). Như vậy, có thể biết Nguyễn Dữ sống vào đầu và giữa thế kỉ XVI, một thời kì lịch sử đầy biến động. Tóm lại, căn cứ vào những tài liệu hiện còn thì Nguyễn Dữ thuộc dòng khoa hoạn, từng dùi mài kinh sử, ôm ấp lí tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể xuất sĩ. Về sau, vì “đại thế bất an”, vì bất mãn với kẻ đương quyền, hơn là vì phải “nuôi dưỡng mẹ già cho trọn đạo hiếu”, Nguyễn Dữ đã lui về ẩn dật, viết Truyền kì mạn lục để kí thác tâm sự và thể hiện hoài bão của mình. 1.1.2. Tác phẩm Truyền kì mạn lục Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện (theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Truyền kì mạn lục gồm 22 truyện), chia thành 4 tập, mỗi tập 5 truyện. Các truyện đều viết bằng văn xuôi, xen lẫn một ít văn biền ngẫu và thơ ca. Trừ truyện số 19 (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa), các truyện còn lại đều có lời bình của tác giả (hoặc những người có cùng chí hướng với tác giả) ở cuối truyện. Khác với lời bàn của Sơn Nam Thúc trong Thánh Tông di thảo, lời bình của các truyện ở Truyền kì mạn lục không bàn về nghệ thuật văn chương mà chủ yếu bàn về nội dung ý nghĩa. Với Nguyễn Dữ, khi đặt tên tác phẩm là Truyền kì mạn lục, ông muốn biểu lộ một thái độ nghiêm túc, khiêm tốn của người cầm bút. Song, cũng chính bởi cái tên Truyền kì mạn lục đã gây ra nhiều tranh cãi về tên tác phẩm này. Nguyễn Thị Thơm 15 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 Trước hết, hãy nói về hai chữ “mạn lục”. Theo Hán ngữ đại từ điển (T6, 89) giải thích rằng chữ “mạn lục” là “tùy bút kí lục” – viết theo cảm hứng ngòi bút. Và hai chữ “kí lục” có nghĩa là viết văn, làm văn, sáng tác… Đồng thời, thể “mạn lục” là một thể loại sáng tác văn thơ xuất hiện ở Trung Hoa khá sớm [19, 210]. Nhưng khi vào Việt Nam, hai chữ “mạn lục” đó bị các nhà viết sách Việt Nam hiểu lạc đi so với nghĩa gốc của nó. Bởi thế mà Truyền kì mạn lục được giải thích là: “sao chép tản mạn các truyện lạ” [24, tr. 202]; sau này được giải thích lại là “ghi chép tản mạn các truyện truyền kì” [21, tr. 1124]. Trong sách Ngữ văn 9 tập I [27, tr. 49] cũng giải thích “Truyền kì mạn lục” là “ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền”. “Các cách giải thích chữ “mạn lục” là “ghi chép tản mạn” có hai điều bất ổn: Thứ nhất, “Truyền kì mạn lục” là tác phẩm văn học thuộc loại hình truyện ngắn trung đại. Do đó, không thể coi tác phẩm là “ghi chép”. Thứ hai, tác phẩm của Nguyễn Dữ không hề tản mạn, dù hai chữ “tản mạn” được dùng theo kiểu tu từ nói khiêm. Thực ra, “mạn” là tùy ý, không câu thúc. Bởi vậy, trong Hán ngữ có hàng loạt từ chỉ thể loại tác phẩm có thành tố “mạn” như: mạn họa, mạn thư, mạn bút, mạn tả… và tất cả chúng đều dùng để chỉ loại tác phẩm.” [16, tr. 212]. Còn chữ “truyền kì” nếu đứng riêng thì là một thể tài của truyện ngắn trung đại, tức là trong truyện ngắn đó có các yếu tố về nhân vật, tình tiết, kết cấu… có những yếu tố lạ kì đặc biệt và người ta gọi là “truyền kì”. “Nhưng trong cụm từ “truyền kì mạn lục” nếu xét về phương diện kết học của câu thì “truyền kì” lại làm định ngữ, chỉ tính chất của thể “mạn lục”, đó là một thể tự sự viết tự do, tùy hứng theo ý đồ sáng tác của tác giả, không bị câu thúc bởi bất cứ lí do gì cả.” [16, tr. 212]. Tuy cách đặt tên tác phẩm của tác giả đã để lại nhiều sự lí giải khác nhau nhưng mục đích của ông là phân bua với độc giả rằng trước tác của Nguyễn Thị Thơm 16 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 mình không phải là cuốn sách có tính chất trang nghiêm như liệt truyện và cho đây là thứ “ngoại thư” bao gồm những truyện lạ (truyền kì) vẫn được lưu truyền. Công việc của ông là ghi chép lại một cách rộng rãi (mạn lục) những sự việc ấy. Để phục vụ cho mục đích sáng tác của mình, Nguyễn Dữ đã không câu nệ, ông sử dụng yếu tố “lạ - kì ảo” một cách có ý thức. Ông đã mượn chuyện quái để nói việc thực. Ông dựa vào những tích cũ, phần nhiều là các truyện đã được lưu truyền từ lâu trong xã hội và được viết nên thành những truyện mới. Những truyện này thường lấy bối cảnh là thời Lí - Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ trên địa bàn từ Nghệ An ra bắc. Truyền kì mạn lục tuy có vẻ là “truyện kì lạ” xảy ra hàng trăm năm về trước nhưng thực chất lại phản ánh được những phần sâu sắc của hiện thực đương thời. Đằng sau thái độ dè dặt, khiêm tốn đó, Nguyễn Dữ muốn bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão của mình. Qua tác phẩm, ông có thể phát biểu cảm nhận, bày tỏ quan điểm về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong xã hội mà mọi thứ đang trên đà “suy thoái”. Nội dung của Truyền kì mạn lục phê phán hiện thực xã hội thối nát. Ông lên án tầng lớp vua quan nhũng nhiễu nhân dân, làm cho cuộc sống nhân dân cơ cực, khổ sở. Truyền kì mạn lục cũng phản ánh số phận con người ở thế giới trần gian, thế giới tiên cảnh, thế giới âm phủ. Bên cạnh đó, Truyền kì mạn lục còn thể hiện khát vọng hạnh phúc của lứa đôi, của những kiếp người bé nhỏ, hèn mọn trong cuộc đời. Trong tác phẩm, Nguyễn Dữ đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố “thực” và “kì”. Nhà văn đã sử dụng yếu tố “kì” như một chất liệu nghệ thuật khiến nó xác định vị trí, vai trò của nó trong sự sáng tạo của mình. Yếu tố kì ảo đã giúp nhà văn phản ánh hiện thực sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, nghệ thuật xây dựng nhân vật với những hình tượng nhân vật có tính cách, có khí phách và tính luận thuyết làm cho các câu chuyện in đậm tính chất triết lí và Nguyễn Thị Thơm 17 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 quan điểm của nhà văn được sáng tỏ. Sự kết hợp khéo léo sáng tạo giữ ba lối văn: tản văn, biền văn, vận văn cũng giúp cho nhà văn triển khai dòng sáng tạo một cách linh hoạt, hấp dẫn. 1.2. Khái niệm nhân vật kì ảo, nhân vật yêu ma 1.2.1. Khái niệm nhân vật kì ảo Để tìm hiểu một cách chi tiết và rõ ràng về khái niệm nhân vật kì ảo, chúng ta cần giải quyết hai vấn đề sau: Trước hết là khái niệm nhân vật trong văn học. Nếu như đối với thơ, nhân vật không phải là yếu tố quyết định để làm nên một bài thơ hay thì với văn xuôi tự sự nhân vật là một yếu tố cần thiết và không thể thiếu. Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, nhân vật giữ một vai trò hết sức quan trọng. Nó chính là mắt xích cơ bản để xâu chuỗi, kết dính các biến cố, các sự kiện, là nơi chủ yếu để nhà văn thể hiện tư tưởng của mình. Vì vậy, việc xây dựng nhân vật trở thành một trong các công việc cốt yếu của người nghệ sĩ. “Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng các phương tiện văn học” [15, tr. 61]. Nhân vật có thể có tên riêng (Tấm Cám, Thạch Sanh…) cũng có thể không có tên riêng như: “mụ dì ghẻ” (Tấm Cám), “thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), hoặc nhân vật có thể là những đám “giai thanh gái lịch” trong Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)…Trong truyện ngụ ngôn, nhân vật thần, nhân vật con vật, đồ vật được đưa ra để nói chuyện con người. Khái niệm nhân vật có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ là một con người cụ thể nào đó mà còn được dùng để chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm. Chẳng hạn, có thể nói “đồng tiền” là nhân vật chính trong ƠgiêriGrăngđê của Banzac hay như “nhân dân” là nhân vật chính trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc. Nguyễn Thị Thơm 18 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 Ở mỗi loại thể tác phẩm hay ở mỗi tác phẩm nói riêng, tác giả xây dựng lên những hình tượng nhân vật theo dụng ý riêng của họ. Qua đó, họ tìm thấy một phần con người thực tế lại vừa là những “con người” sáng tạo của nhà văn. Chính vì vậy, “nhân vật là yếu tố quan trọng nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng của chủ đề và đến lượt mình, nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tưởng, nghệ thuật của tác phẩm văn học” [1, tr. 186]. Khái niệm nhân vật được xét dưới nhiều góc độ, ở mỗi yếu tố, mỗi góc độ, nó được chia thành nhiều loại nhân vật. Ở góc độ nội dung tư tưởng: có nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Ở góc độ kết cấu và cốt truyện lại có: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Như vậy, khi nghiên cứu, tìm hiểu giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật của một tác phẩm văn học, yếu tố nhân vật trong tác phẩm được coi là yếu tố chính. “Văn học là nhân học”. Ý muốn phản ánh về xã hội, về con người buộc các nhà văn phải xây dựng những loại hình nhân vật. Nhân vật trở thành công cụ giúp nhà văn tái hiện đời sống, thể hiện thái độ, lập trường, tư tưởng và tình cảm trước cuộc sống và bộc lộ tư duy nghệ thuật của mình. Đồng thời, nhân vật còn là yếu tố giúp người đọc khám phá những giá trị mà nó mang trong mình giúp bạn đọc cùng tác giả hiểu nhau hơn, cũng như để họ gần nhau hơn qua tác phẩm văn học. Thứ hai, về khái niệm nhân vật kì ảo. Theo Từ điển tiếng Việt: Kì: Lạ đến mức làm người ta phải ngạc nhiên. Ảo: Giống như thật nhưng không có thật. [20, tr. 518]. Nguyễn Thị Thơm 19 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 Trong Từ điển Hán Việt: kì ảo là hư ảo, lạ kì [2, tr. 233]. Nếu “kì” là hạt nhân, là phạm trù, là nguyên tắc thẩm mĩ độc đáo của văn học nói chung, thì “ảo” là tính chất, là một dạng biểu hiện của cái “kì”. Như vậy, “kì” là hạt nhân tư tưởng thẩm mĩ và “ảo” là biểu hiện, là tính chất thể loại. Do đó, “nhân vật kì ảo” được hiểu là những nhân vật mà người nghệ sĩ đã hư cấu, đã sáng tạo ra, là nhân vật kì lạ, vừa lạ thường vừa không có thực theo quan điểm nhận thức duy lí, khoa học của con người theo quy luật khách quan ngoài đời sống. Là những nhân vật – sản phẩm của trí tưởng tượng với những quan niệm tâm linh. Nhân vật kì ảo đó có bắt nguồn từ trong tín ngưỡng dân gian, trong các hình thức tôn giáo khác nhau của đời sống. Hệ thống nhân vật kì ảo trong văn học trung đại Việt Nam gồm hai loại lớn: nhân vật dị thường, phi thực và nhân vật trần thực. Trong hệ thống nhỏ: nhân vật dị thường, phi thực lại có thể phân thành nhân vật dị hình và nhân vật biến hình. Sự phân loại trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế, có những nhân vật vừa dị hình, vừa có tính biến hình, hóa thân. Phi thực hay trần thực, dị thường về ngoại hình, diện mạo hay ảo ảo, kì kì trong cách ứng xử thì suy cho cùng cũng là biểu hiện khác nhau của hiện thực mà thôi. Những biểu hiện “kì” của nhân vật được miêu tả ở nguồn gốc ra đời, ở hành tung, thái độ ứng xử, năng lực, hành động. Tất cả nhuốm màu kì lạ. Những biểu hiện khác nhau ấy lại được dệt nên từ tấm khung chung: nguyên tắc mĩ học của cái “kì” được nhuộm màu ảo diệu, phi thực của thuốc thần là bản thân cuộc sống. Trong văn học, phương thức sáng tạo của nhân vật kì ảo chủ yếu là “vẽ rồng điểm mắt”, “vẽ mây nảy trăng”. Đây chính là những phương thức sáng tạo quen thuộc, nó đã trở thành phương thức sáng tạo truyền thống. Qua đó, Nguyễn Thị Thơm 20 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 nhà văn sáng tạo được thời gian, không gian mộng ảo nhằm xây dựng nên những “kì nhân” (nhân vật kì ảo) trong văn học nói chung. 1.2.2. Khái niệm nhân vật yêu ma Hiện nay tồn tại rất nhiều quan niệm và cách định nghĩa về ma: Theo Từ điển tiếng Việt: Ma: - người đã chết, đã thuộc về cõi âm. - sự hiện hình của người chết. [20, tr. 775]. Theo quan điểm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm thể xác (mang tính vật chất) và linh hồn (mang tính phi vật chất). Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma”, “quỷ”; nhưng nếu các phần phi vật chất ấy tương tác với cõi thực của con người theo tình cảm, theo trách nhiệm được giao của các tôn giáo thì được gọi là “hồn”, “linh hồn”, “thánh”, “thần”, “thiên sứ” (Phật giáo gọi linh hồn người mới mất là hương linh). Do đó, ma là một khái niệm trừu tượng, một phần phi vật chất của một con người đã chết. Theo tín ngưỡng Việt Nam, trong con người có cái vật chất và tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó bằng khái niệm linh hồn, và linh hồn theo người Việt Nam và các nước Đông Nam Á tách thành hai phần: hồn và vía. Người Việt cho rằng: con người có ba hồn, nhưng vía nam thì có 7, còn nữ có 9. Như vậy, khái niệm ma đơn giản chính là hồn và vía con người. Không có cơ sở chính xác nào là có ma một cách chắc chắn và khoa học cho đến nay. Nhưng tùy vào từng người, lứa tuổi, tôn giáo, chủng tộc mà Nguyễn Thị Thơm 21 K33A – Ngữ văn Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 tin là có ma hay không. Nói chung, người già, phụ nữ, trẻ em, sống ở các vùng nông thôn thì thương dễ tin là có ma hơn các vùng khác. Cho đến nay, ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện hư cấu về ma, nhưng cũng không thể kết luận được có phải là hư cấu hay không. Sự bí ẩn của ma xuất phát từ giới hạn tri thức và hiểu biết của con người (nói chung) và các nhà khoa học (nói riêng). Ma thường được miêt tả là một dạng người, mặc dù cũng hiếm khi đề cập tới ma động vật, nhưng miêu tả thông thường là “trắng bạc”, “cái bóng lờ mờ”, “nửa trong suốt” hay “tựa như sương mù”, “đống đen thùi lùi”… Ma không có cơ thể sống như con người. Xã hội của ma theo nhiều người là “âm phủ”, còn chỗ ở của ma là cái mộ (sống cái nhà, thác cái mồ). Vì vậy, họ xây dựng nhà mồ rất đẹp, có nhiều nghĩa địa khang trang như một thành phố. Nhưng ma cũng có thể vương vất ở nơi tăm tối, vắng vẻ, có liên quan đến họ khi còn sống. Theo quan điểm của một số người thì chỉ có người có “duyên”với linh hồn đó mới có thể nhìn thấy linh hồn hoặc chỉ những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có thể thấy và tương tác với các linh hồn hoặc hồn ma. Nhiều người cho rằng ma có khả năng biết tất cả những gì người sống nghĩ; có khả năng biết được các việc đã, đang và sắp xảy ra như kết quả sổ xố (số đề) hoặc có khả năng tác động lên thể xác, lời nói của người sống như hiện tượng lên đồng; có thể tác động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc ma có thể tác động lên vật chất tạo tiếng động rung cây, xô lệch bàn ghế… Vấn đề thứ hai cần giải quyết là: khái niệm nhân vật yêu ma. Hiện nay, chưa có một khái niệm hoàn thiện nào về nhân vật yêu ma ngay cả về ma cũng chỉ là quan niệm và giả thuyết. Đây cũng là một khái niệm rất trừu tượng và phức tạp. Dựa vào những hiểu biết và quan niệm của Nguyễn Thị Thơm 22 K33A – Ngữ văn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan