Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển quy trình công nghệ biofloc và khả năng ứng dụng trong nuôi tôm thẻ c...

Tài liệu Phát triển quy trình công nghệ biofloc và khả năng ứng dụng trong nuôi tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vannamei).

.PDF
216
521
133
  • iii
    TÓM TẮT
    Nghiên cứu "Phát triển quy trình công nghệ biofloc khả năng ứng dụng trong nuôi
    tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)" được tiến hành tại Khoa Thủy sản Đại học
    Cần Thơ, Khoa Sinh học ứng dụng Trường Đại học Tây Đô, tỉnh Ninh Thuận, Bến Tre
    Bạc Liêu. Thời gian thực hiện từ năm 2012 2015. Nghiên cứu ứng dụng quy trình công
    nghệ Biofloc trong nuôi tôm thẻ chân trắng nhằm làm sở phân tích đánh giá khả năng
    ứng dụng trong nuôi tôm thẻ chân trắng nói riêng và nghề nuôi tôm Đồng Bằng Sông Cửu
    Long nói chung .
    Trong nghiên cứu khảo sát mô hình nuôi tôm tôm thẻ chân trắng (TCT) theo quy trình
    nuôi truyền thống -TT (30 hộ) và mô hình ứng dụng biofloc-BFT (37 hộ) ở Ninh Thuận. Kết
    quả cho thấy, việc ứng dụng biofloc chỉ được áp dụng từ khoảng năm 2011, khi ứng dụng
    BFT thì mật độ thả cao (150 con/m
    2
    ) sử dụng công suất của quạt ớc (48 HP/ha) lớn
    hơn so với nuôi TT (82,6 con/m
    2
    ; 14,5 HP/ha). hình nuôi BFT với 100% hộ sử dụng
    nguồn carbohydrate rỉ đường 50% số hộ bổ sung thêm bột gạo, việc bổ sung thêm
    bột gạo cho hiệu quả kinh tế cao hơn (tăng thêm 4,2%) so với chỉ sử dụng rỉ đường. Năng
    suất tôm nuôi BFT đạt cao hơn (15,2 tấn/ha) so với hình nuôi TT (9,10 tấn/ha). Chi phí
    đầu hình nuôi BFT cao hơn khoảng 1,5 lần so với hình TT; lợi nhuận mang lại từ
    hình BFT cao hơn (862 triệu đồng/ha) so với nuôi TT (288 triệu đồng/ha) số hộ nuôi
    có lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận lần lượt là 80%, 0,76 so với TT là 60% và 0,32.
    Khi nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành biofloc: (thí nghiệm 1) độ
    mặn (0‰, 10‰, 20‰, 30‰) kết hợp với các mức protein trong thức ăn (38%, 42%, 46%)
    (thí nghiệm 2) nguồn gốc carbohydrate (Rỉ đường, Glycerol, Bột gạo và Bột mì) tỷ lệ
    C:N khác nhau (10:1, 20:1 30:1). Kết quả đã xác định độ mặn 10-20‰, protein trong
    thức ăn 42% và nguồn carbohydrate bổ sung là bột gạo với t lệ C:N từ 10-20 phù hợp
    để ứng dụng vào nuôi tôm. Nên phần tỷ lC:N sẽ được làm thêm thí nghiệm 3 thí
    nghiệm 4, còn độ mặn sẽ nghiên cứu thêm ở thí nghiệm 5.
    Khi nghiên cứu ương vèo tôm post trong thời gian 4 tuần (thí nghiệm 3) với các tlệ
    C:N khác nhau với nguồn carbohydrate bột gạo (5:1; 10:1; 15:1 20:1) phương thức
    bổ sung theo hàm lượng tổng ammonia (TAN) trong nước; Thí nghiệm 4: thí nghiệm với
    các tỷ lC:N khác nhau với nguồn carbohydrate là bột gạo (ĐC, BG10, BG15 BG20)
    phương thức bổ sung theo nitrogen của protein trong thức ăn (TA). Kết quả cho thấy
    phương thức bổ sung theo hàm lượng TAN trong nước hay theo nitrogen của protein trong
    thức ăn thì đều cho thấy tỷ lệ C:N=15:1 tốt nhất. Nhưng đây là kết quả từ hai thí nghiệm,
    nên cần nghiên cứu so sánh phương thức bổ sung để khẳng định lại được tiến hành thí
    nghiệm 6.
    Nghiên cứu ứng dụng nuôi tôm TCT theo quy trình công nghệ biofloc: (thí nghiệm
    5) ảnh hưởng mật độ (100, 300 500 con/m
    3
    ) kết hợp với độ mặn (5‰, 10‰, 15‰
    20‰); (thí nghiệm 6) thời gian thủy phân bột gạo (12; 24 48 giờ) kết hợp với phương
    thức bổ sung khác nhau (bổ sung theo protein trong thức ăn theo TAN trong môi trường
    nước); (thí nghiệm 7) đánh giá khả năng tiết kiệm thức ăn; (thí nghiệm 8) ảnh hưởng việc
    luân chuyển nước và (thí nghiệm 9) ảnh hưởng tỷ lệ bổ sung bột gạo và rỉ đường lên sự tăng
    trưởng, tỷ lệ sống và sinh khối tôm nuôi. Kết quả cho thấy, khi nuôi tôm với mật độ 100-300
    con/m
    3
    và độ mặn 15‰ đạt tỷ lệ sống (71,1 – 100%) cao hơn so với các nghiệm thức mật độ
    và độ mặn khác. Phương thức bổ sung bột gạo theo thức ăn và thời gian thủy phân 48 giờ thì
    tỷ lệ sống (97,3%) sinh khối tôm nuôi (1.018 g/m
    3
    ) đạt cao nhất khác biệt ý nghĩa
    Trang 5

Mô tả:

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất