Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa văn minh...

Tài liệu Quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa văn minh

.PDF
165
969
106

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN QUẾ QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ CON NGƢỜI VÀ VĂN HÓA – VĂN MINH Chuyên ngành: Triết học Mã số: 62.22.03.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS,TS. Nguyễn Tiến Dũng. Những trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận được rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận án là khách quan và chưa từng được công bố bởi tác giả nào trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận án. Tác giả Nguyễn Văn Quế MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN........................................................................................... 5 1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. ........................................................................................................ 5 1.2. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về con người .............................................................................................................. 11 1.3. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về văn hoá - văn minh ............................................................................................... 24 CHƢƠNG 2: BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA PHÂN TÂM HỌC ......................................................................................... 31 2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội .................................................................................... 31 2.2. Tiền đề khoa học ................................................................................................ 33 2.3. Tiền đề tư tưởng ................................................................................................. 39 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ CON NGƢỜI ......... 52 3.1. Vị trí, vai trò của vô thức trong sự hình thành và phát triển con người ............. 52 3.2. Lý thuyết về nhân cách ...................................................................................... 68 3.3. Tích hợp học thuyết Marx và phân tâm học về con người trong lý thuyết nhân bản của Erich Fromm ................................................................................................ 85 CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ VĂN HÓA – VĂN MINH...................................................................................................................... 101 4.1. Nguồn gốc và bản chất của văn hóa – văn minh .............................................. 101 4.2. Vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống con người và xã hội .............. 112 4.3. Văn hóa của xã hội hiện đại theo quan niệm của E.Fromm ............................ 131 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với tính cách là sản phẩm tinh thần của thời đại, sự ra đời của phân tâm học (psychoanalysis) xét đến cùng là nhằm tìm kiếm những lời giải cho những vấn đề của thời đại lúc bấy giờ, nhất là khắc phục sự tha hoá về tinh thần và sự ức chế của con người trong xã hội phương Tây thế kỷ XX. Có thể khẳng định rằng, những thành tựu khoa học kỹ thuật ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của xã hội phương Tây. Một mặt, khoa học kỹ thuật mang đến một đời sống tiện nghi, nhưng mặt khác, nó cũng làm nảy sinh sự lệ thuộc và tha hoá về tinh thần của con người hiện đại. Sự ra đời của Phân tâm học là hướng đến giải phóng con người khỏi những ức chế và dồn nén bên trong của đời sống tâm thần. Nhờ sự tìm tòi, nghiên cứu một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, Sigmund Freud đã xây dựng nên học thuyết phân tâm học – một trong những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống hiện đại. Về điều này, trong Lời giới thiệu cuốn Phân tâm học nhập môn, Jostein Gaarger đã viết: “Thực vậy, tất cả mọi lĩnh vực tri thức của con người như văn chương, nghệ thuật, tôn giáo, nhân chủng học, giáo dục, luật pháp, xã hội học, luật học, sử học và những môn về xã hội hay cá nhân khác đều chịu ảnh hưởng của học thuyết Freud” [41, tr. iv]. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, lý thuyết phân tâm học đã có những sự phát triển phong phú hơn rất nhiều, chứ không còn đóng khung trong những điều mà người ta từng hình dung về nó như lúc ban đầu, đó là một phương pháp chữa trị hysteria. Trong xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay, khoảng cách văn hóa Đông – Tây ngày càng có sự giao thoa và hướng lại gần nhau. Bên cạnh những đóng góp tích cực trong việc phát triển con người và xã hội thì sự hội nhập và phát triển này cũng dẫn tới những nguy cơ mới như: nạn ô nhiễm môi trường, sự mất cân bằng sinh thái, khủng hoảng tài nguyên, đối diện với tình trạng bùng nổ dân số, đại dịch,… và hơn nữa đó là tình trạng mất cân bằng tâm lý do đổ vỡ trong tình yêu, hôn nhân, gia đình, sức ép công việc, sự bất ổn bạo động 2 về chính trị, chiến tranh và những di chứng của nó để lại,…đó là những điều làm cho con người ngày càng trở nên tha hóa và ngày càng đánh mất mình trong xã hội. Trong một thế giới đầy biến động như thế, con người cần hiểu rõ hơn về chính mình và những gì con người làm ra trong xã hội. Đặt trong bối cảnh ấy, chúng tôi cho rằng, nghiên cứu vấn đề con người và văn hóa – văn minh tiếp cận từ góc độ phân tâm học giúp chúng ta có cái nhìn khách quan và biện chứng trong đời sống con người và xã hội, góp phần làm phong phú hơn vào kho tàng lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn. Vì thế, khi trả lời phóng viên báo Nhân Đạo năm 1969, Hồ Chí Minh từng nói rằng, “có lẽ xuất phát từ hoàn cảnh của chúng tôi, chúng tôi phải xây dựng đất nước trước hết bằng văn hóa”, nó chính là nền tảng cốt lõi của lối sống, hành vi ứng xử, đạo đức, phương thức hoạt động sống với sự định hướng giá trị mang lại ý nghĩa cho tồn tại con người và xã hội. Việc tiếp cận để làm sáng tỏ quan điểm phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh nhằm chắt lọc để tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực, nhận diện nhằm phê phán, khắc phục những yếu tố chưa hợp lý, qua đó làm phong phú hơn hiểu biết của chúng ta về con người và văn hóa – văn minh. Phân tâm học ra đời được xem như đã “uốn cong” tư duy nhân loại sang một hướng khác, bởi lẽ nó đã phá bỏ những tín điều mang tính truyền thống, đồng thời cung cấp những phương án giải quyết mới cho vấn đề này để khắc phục sự khủng hoảng tinh thần của con người trong xã hội. Quả thực, sức ảnh hưởng của phân tâm học đối với xã hội hiện đại lớn đến mức khó có thể đo lường một cách chính xác, nhưng sự hoài nghi về học thuyết này cũng không ít, nhất là ở các nước phương Đông và Hồi giáo. Phần đông họ chỉ xem phân tâm học như là học thuyết về tình dục. Chính những hiểu biết quy giản (một cách đơn giản) này phần nào làm cho phân tâm học mất đi tính khoa học của nó. Do đó, việc tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề về con người và văn hoá - văn minh trong phân tâm học, theo chúng tôi, là cần thiết nhằm đạt đến một nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn của phân tâm học về vấn đề này. 3 Từ những nhận thức trên, chúng tôi chọn vấn đề “Quan điểm của Phân tâm học về con người và văn hoá – văn minh” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án. - Phân tích bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. - Làm rõ nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về con người. - Làm rõ nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về văn hóa – văn minh. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phân tâm học là một trào lưu tư tưởng có nội dung lý luận vô cùng phong phú và đa dạng. Trong công trình này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ quan điểm của ba nhà phân tâm học đại diện tiêu biểu đó là Sigmund Freud, Carl Gustav Jung và Erich Fromm. Ở mức độ nhất định, chúng tôi cũng viện dẫn tư tưởng của một số nhà phân tâm học khác như Adler, Sullivan, Herbert Marcuse... Sở dĩ, chúng tôi chủ yếu phân tích tư tưởng của Freud, Jung và Fromm bởi vì đây là những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành, phát triển của phân tâm học. Hơn nữa, so với những nhà phân tâm học khác, chúng tôi cho rằng, trong tư tưởng của Freud, Jung và Fromm có sự kết nối (phê phán, bổ sung và phát triển) rất rõ ràng, nhất là trong quan niệm về con người và văn hóa – văn minh. 4 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nghiên cứu lịch sử triết học và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và văn hóa – văn minh. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lịch sử – cụ thể, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp diễn dịch - quy nạp, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp khái quát hóa – trừu tượng hóa, phương pháp chú giải học, nhân học văn hóa,... 5. Đóng góp mới của luận án - Làm rõ quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh qua tư tưởng của ba nhà phân tâm học tiêu biểu là S. Freud, Carl G. Jung và Erich Fromm. - Bước đầu đưa ra một số nhận xét về giá trị và hạn chế quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 6. Ý nghĩa của luận án - Về phương diện lý luận, những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án góp phần cung cấp một sự hiểu biết phong phú và mang tính hệ thống của phân tâm học xoay quanh vấn đề con người và văn hoá – văn minh. - Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy triết học, tâm lý học, văn hóa học và các ngành khoa học xã hội & nhân văn khác. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4 chương (12 tiết). 5 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Phân tâm học là một trong những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống con người xã hội phương Tây nói riêng và thế giới nói chung. Từ khi hình thành vào cuối thế kỷ XIX đến nay, lý thuyết phân tâm học không ngừng được bổ sung và hoàn thiện mà còn thâm nhập vào nhiều ngành học vấn khác nhau. Chính quá trình phát triển đó của phân tâm học đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới học thuật. Hiện nay, nghiên cứu về phân tâm học không còn là việc mới, tuy nhiên tính chất chưa rõ ràng của một số nội dung lý thuyết phân tâm học đưa ra còn gây nhiều sự tranh luận, điều này cho thấy, nghiên cứu phân tâm học là cần thiết để tiếp tục làm rõ những vấn đề còn khúc mắc. Tiếp tục nghiên cứu phân tâm học, trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu của luận án, chúng tôi xem xét, đánh giá những thành tựu nghiên cứu đã đạt được của các học giả đi trước để tham khảo, đồng thời xác định những vấn đề lý luận mà luận án tiếp tục đi vào nghiên cứu. Căn cứ vào đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án cũng như những kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến phân tâm học, chúng tôi chủ yếu tập trung tổng thuật một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến quan điểm của phân tâm học về con người và văn hoá – văn minh. 1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. Phân tâm học cũng như các trào lưu triết học phương Tây ra đời có sự liên hệ mật thiết với bối cảnh lịch sử - xã hội và những phát minh khoa học ở thời đại của nó. Ngay từ khi ra đời phân tâm học cũng chịu sự ảnh hưởng bởi điều kiện lịch sử xã hội, văn hóa, những phát minh khoa học của châu Âu nói riêng và thế giới nói chung cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cho đến nay, nghiên cứu về phân tâm học đã vượt qua lằn ranh của học thuật. Nếu như ban đầu, phân tâm học chủ yếu chỉ được nghiên cứu ở góc độ y học thần kinh và tâm lý học, thì vào nửa sau thế kỷ XX, 6 các nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý nghiên cứu đến khía cạnh văn hóa và nhân văn của phân tâm học. Nghiên cứu về phân tâm học, các học giả đã ít nhiều đề cập đến bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. Công trình Học thuyết Freud (Nxb Tân Việt, 1943) của Tô Kiều Phương, là công trình tiếp nhận phân tâm học dưới góc độ y học, với mục đích nghiên cứu phân tâm học như là một phương pháp để chữa bệnh tâm thần cho con người, nhưng trong công trình này, Tô Kiều Phương đã đề cập đến những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của phân tâm học và chỉ ra rằng, đời sống xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với một lối sống đạo đức giả, đã kìm nén đời sống tâm thần con người, làm nó bị ức chế, không thỏa mãn, dẫn tới sự xuất hiện bệnh tâm thần trong xã hội. Tác giả cho rằng, “trong thế kỷ XIX, một khoa giáo huấn đáng ghét, bằng những phương tiện phản tự nhiên, ngăn cách nó với mọi điều thành thật. Không ai trước mặt trẻ con nói chuyện mà không dè dặt về vấn đề tình dục. Vì vậy, trẻ con phải tìm hiểu vấn đề ấy với bọn gái nhà thổ hay với đám bạn bè lớn tuổi hơn nó” [121, tr. 18]. Chính sự dè dặt và giả dối đó làm cho nhu cầu về đời sống tâm thần của con người không được đáp ứng, đây chính là sự yếu kém hay “gót chân achilles” của tâm lý học trước khi phân tâm học ra đời. Như vậy, trong bối cảnh xã hội mà vấn đề tính dục được ghi nhận nhưng chưa thể giải quyết rạch ròi, chúng lại bị đẩy ra sau một bức bình phong đạo đức giả tạo, tất cả những điều ấy cùng với thực tiễn chữa bệnh tâm thần cho con người là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời, phát triển của phân tâm học khi đi sâu vào nghiên cứu về con người trong điều kiện hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994) của Lưu Phóng Đồng, trình bày một cách khái quát những tiền đề về khoa học tự nhiên và triết học của phân tâm học. Lưu Phóng Đồng cho rằng: “Trong thế kỷ XVIII-XIX, quan điểm duy vật tầm thường chiếm địa vị thống trị trong nghiên cứu y học; người ta quen dùng cơ chế sinh lý để giải thích sự bất thường về tinh thần” [34, tr. 9-10]. Nhưng khi lấy cơ chế sinh lý để giải thích các hiện tượng tâm thần ở những người bệnh không mang lại kết quả. Do vậy, để giải thích các hiện 7 tượng trên đòi hỏi phải tìm nguyên nhân của căn bệnh ở phương diện khác đó là phương diện tâm lý, vì thế, nảy sinh việc nghiên cứu tâm lý học dị thường (Abnormal psychology). Freud chịu ảnh hưởng mạnh mẽ về tâm lý học dị thường này khi làm việc với J.Breuer và J.M.Charcot. Tác giả chỉ ra: “Freud thừa nhận, ông xuất phát từ quan điểm sinh vật học để xem xét khuynh hướng của con người, và quan điểm bản tính hành vi của loài người là được “quyết định luận” quyết định, chủ yếu chịu ảnh hưởng của tiến hóa luận của Darwin” [34, tr. 10]. Lưu Phóng Đồng cho rằng, khi Freud nghiên cứu về con người, “ông coi toàn bộ cơ thể của con người là một hệ thống năng lượng, và cho rằng, trong hệ thống năng lượng này, ngoài năng lượng cơ giới, năng lượng điện, và năng lượng hóa học biểu hiện bằng hình thức sinh lý thể xác, còn có năng lượng tâm lý nảy sinh tác dụng trong quá trình tâm lý” [34, tr. 10]. Và khi xem toàn bộ cơ thể người là một hệ thống các năng lượng chuyển đổi cho nhau, Freud đã chịu ảnh hưởng của học thuyết năng lượng của học phái Helmho, học thuyết đơn tử của Leibniz và lý luận giới hạn ý thức của Herbart. Về mặt triết học, Lưu Phóng Đồng phân tích sức ảnh hưởng của hai nhà triết học Schopenhauer và Nietzsche đến phân tâm học Freud. Với phương châm “tìm tòi bản tính nội tại của con người và thế giới” [34, tr. 11], Schopenhauer và Nietzsche đã công khai tuyên chiến với chủ nghĩa lý tính truyền thống ở châu Âu lúc bấy giờ. Hai ông yêu cầu triết học cần phải thoát khỏi thế giới hào nhoáng bên ngoài và hãy trở về với thế giới nội tâm bên trong, lấy đó làm hướng phát triển của triết học. “Freud đã hấp thụ quan điểm chủ yếu của trào lưu tư tưởng này, từ đó học thuyết của ông cũng hòa nhập vào trào lưu tư tưởng này” [34, tr. 12]. Chúng tôi cho rằng, đây là nguồn khơi lý luận quan trọng dẫn xuất đến quan điểm của Phân tâm học với tính cách là học thuyết nghiên cứu về con người và văn hoá – văn minh. Nhìn chung, công trình nghiên cứu của Lưu Phóng Đồng đã đề cập đến các tiền đề hình thành của phân tâm học, song chưa có những luận giải cụ thể nhằm làm rõ các tiền đề này đã ảnh hưởng như thế nào đến tư tưởng của phân tâm học, nhất là đến quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 8 Diệp Minh Lý trong công trình Ximôn Phrớt, (Nxb Thuận Hóa – Trung tâm ngôn Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005) đã giới thiệu khái quát về sự ra đời của phân tâm học. Khi nói về vai trò của những điều kiện dẫn đến sự ra đời của phân tâm học, tác giả cho rằng: “xem xét quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Freud có thể thấy rằng sự biến đổi kinh tế chính trị của xã hội và tiến hóa của văn minh xã hội, đặc biệt sự phát triển của khoa học, văn hóa có ảnh hưởng lớn tới ông” [97, tr. 8]. Ngoài ra, theo tác giả, những phát minh khoa học của thế kỷ XIX, đặc biệt là trong lĩnh vực sinh học và vật lý học là những yếu tố khách quan ảnh hưởng lớn đến sự hình thành phân tâm học. Theo Diệp Mạnh Lý, hoàn cảnh gia đình mang dòng máu Do Thái, quá trình học tập từ thời niên thiếu cho đến khi học hết trung học và sự lựa chọn nghề nghiệp với sự đam mê khoa học của Freud, sống trong một thời kỳ mà chủ nghĩa bài Do Thái diễn ra mạnh mẽ, với nỗi ẩn ức tâm lý của bản thân,... cũng là những nguyên nhân mang tính chủ quan thôi thúc cho sự ra đời phân tâm học. Công trình Freud cuộc đời và sự nghiệp (Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006) của Roland Jaccard là công trình giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của người sáng lập phân tâm học – Sigmund Freud. Một trong những điểm đáng chú ý là, trong công trình này, Roland Jaccard đã chỉ ra những nguồn gốc tư tưởng có ảnh hưởng đến quá trình hình thành phân tâm học của Sigmund Freud như học thuyết tiến hóa Darwin, lý luận của nhà sinh lý học Ernst Brucke, phương pháp chữa bệnh hysteria của Jean-Marie Charcot. Jacard dự định, “đặt lại Freud trong bối cảnh văn hóa của ông, đồng thời chỉ ra làm thế nào Freud lật nhào được các giá trị đã được thiết lập một cách vững chắc nhất” [88, tr. 10]. Theo Jaccard, ảnh hưởng của Charcot là yếu tố quyết định để Freud sau này chuyển từ chuyên ngành thần kinh học sang chuyên ngành tâm bệnh học. Đây cũng chính là chuyên ngành giúp Freud khám phá ra phương pháp phân tâm học - “phương pháp tìm tòi độc đáo, đổi mới nhận thức mà chúng ta có trước đây về mặt tối của con người, nhất là chứng minh được sự tồn tại của một thức “động cơ vô thức”, có liên quan đến sự “dồn nén” và đặc biệt là sự “dồn nén tính dục” [88, tr. 40]. Chúng tôi cho rằng, công trình của 9 Roland Jaccard đã giới thiệu khá sinh động về những tư tưởng ảnh hưởng đến quá trình xác lập quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh trong công trình Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008) đã trình bày tổng quát về phân tâm học và giới thiệu một số đại diện tiêu biểu của phân tâm học như S.Freud, Carl Jung, và học thuyết Freud mới. Về khái niệm phân tâm học, các tác giả cho rằng, phân tâm học trước hết là lĩnh vực y học thực hành bao gồm hoạt động của hàng trăm nghìn bác sĩ tâm thần tại nhiều quốc gia. Xét về mặt phát sinh, toàn bộ phân tâm học gắn liền với tư tưởng của nhà sáng lập Sigmund Freud. Do vậy, thuật ngữ “phân tâm học” là rộng hơn một cách đáng kể so với thuật ngữ “học thuyết Freud”. Phân tâm học nói chung không phải là lý luận, học thuyết hay tư tưởng hệ thuần tuý” [74, tr. 60]. Các tác giả cũng lưu ý rằng, chúng ta chủ yếu quan tâm tới các phương diện triết học của phân tâm học, song một điều cũng khá quan trọng là không tồn tại triết học phân tâm học với tư cách là một thứ triết học cụ thể. “Chúng ta có thể nói tới các quan điểm triết học của Freud và của một số nhà phân tâm học khác” [74, tr. 61]. Chúng tôi cho rằng, đây là luận điểm mang tính phương pháp luận cho việc định hình nghiên cứu những quan điểm triết học ảnh hưởng đến sự ra đời và phát triển phân tâm học với tính cách là học thuyết nghiên cứu về con người và văn hoá – văn minh. Công trình Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại do tác giả Đỗ Minh Hợp chủ biên (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2014). Đây là một trong số những công trình hiếm hoi ở Việt Nam tiếp cận học thuyết phân tâm học của Sigmund Freud từ góc độ triết học, cụ thể là nhân học triết học. Về các tiền đề triết học của phân tâm học Freud, các tác giả nhấn mạnh, việc làm rõ các tiền đề triết học ảnh hưởng đến sự ra đời của phân tâm học có một ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu di sản lý luận của Freud và phân tâm học. Khi nói về tư tưởng triết học của Schopenhauer và Nietzsche đối với quá trình hình thành phân tâm học, tác giả cho rằng: “Freud công khai tuyên bố quan điểm của các 10 nhà triết học này không có ảnh hưởng đến quá trình hình thành phân tâm học và ông không biết đến các tác phẩm của họ ở giai đoạn xây dựng các luận điểm cơ bản của phân tâm học” [77, tr. 78]. Và như vậy, “với toàn bộ sự tương đồng bên ngoài với phân tâm học, triết học Schopenhauer “không có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển các tư tưởng của Freud”” [dẫn theo 77, tr. 78 – 79], nhưng một số các nhà nghiên cứu lại cho rằng: “một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc hình thành các luận điểm khác nhau của phân tâm học” [77, tr. 79]. Cho đến nay, việc làm rõ cội nguồn ra đời của phân tâm học với tính cách là một học thuyết nghiên cứu về con người và văn hóa – văn minh, đặc biệt là mối liên hệ giữa các tư tưởng triết học trong lịch sử với phân tâm học vẫn chưa có những kết luận thỏa đáng về mặt khoa học, đây là vấn đề đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu: Về điều này, H. Ellenberger viết: “Các cội nguồn triết học của Freud rất đa dạng, song trái ngược với nhiều công trình nghiên cứu, chúng cho tới nay vẫn chưa được làm sáng tỏ đầy đủ” [dẫn theo 77, tr. 80 – 81]. Để đánh giá một cách khách quan về sự ảnh hưởng của các tư tưởng triết học đối với sự hình thành và phát triển của phân tâm học, Đỗ Minh Hợp và các cộng sự đưa ra và phân biệt ba kiểu đánh giá sau: Thứ nhất, “phân tâm học thực sự không phải là triết học về con người, Freud hoàn toàn bác bỏ triết học, thậm chí là người chống lại triết học” [dẫn theo 77, tr. 82], điều này chứng minh cho quan điểm của Freud khi ông công khai tuyên bố quan điểm của các nhà triết học không ảnh hưởng đến việc hình thành phân tâm học. Thứ hai, “vốn không phải là triết học, phân tâm học đòi hỏi được xem xét về mặt triết học, Freud cần được xem xét là nhà khoa học đặt ra các vấn đề triết học và cố luận giải chúng theo cách của mình” [77, tr. 83], với đặc trưng thứ hai này, các tác giả đã đi đến kết luận rằng, “một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc hình thành các quan điểm phân tâm học” [77, tr. 83]. Thứ ba, “triết học xuyên suốt các tư tưởng và quan điểm của Freud, phân tâm học bao hàm “lược đồ triết học”, “hạt nhân triết học”, “cơ sở triết học” riêng của mình, một quan điểm triết học hoàn toàn xác định về con người, lịch sử và văn hóa” [dẫn theo 77, tr. 84]. Với cách đánh giá kiểu thứ ba này, phân tâm học có thể được xem là một cấu trúc khoa học có mối 11 liên hệ với triết học về con người trong sự tương tác với văn hóa – văn minh. Các tác giả cũng lưu ý rằng, khi đưa ra những khẳng định trên “còn đòi hỏi xem xét lập trường của bản thân Freud” [77, tr. 85]. Có thể khẳng định rằng, trong số các công trình nghiên cứu về phân tâm học Freud ở Việt Nam, Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại là một công trình nghiên cứu công phu, có nhiều giá trị gợi mở, là tài liệu tham khảo để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu về những tư tưởng triết học đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển phân tâm học về con người, văn hoá – văn minh. Nhìn chung, tổng quan một số công trình nghiên cứu về các điều kiện, tiền đề đưa đến sự ra đời, phát triển của phân tâm học, có thể nhận ra điểm chung là các tác giả đã trình bày khá phong phú bối cảnh ra đời và những tiền đề hình thành của học thuyết Freud. Đây là điều quan trọng bởi lẽ chính Freud là người sáng lập phân tâm học. Tuy nhiên, phân tâm học không chỉ dừng lại ở học thuyết Freud, do đó, chúng tôi nhận thấy cần làm rõ thêm bối cảnh và tiền đề hình thành quan điểm phân tâm học về con người và văn hoá – văn minh. Chúng tôi ghi nhận những đóng góp của các công trình trên, xem đó là những gợi mở quan trọng cần tiếp tục triển khai rộng hơn trong luận án. 1.2. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về con ngƣời Có thể thấy, lý thuyết về vô thức trong phân tâm học là nền tảng và đóng góp quan trọng nhất về phương diện triết học. Do vậy, sự lý giải về vô thức cũng là kết quả quan trọng để hiểu toàn bộ các quan niệm về con người và văn hóa – văn minh. Vì thế, khi khảo cứu về phân tâm học đa số các học giả đều dành phần lớn cho việc nghiên cứu nội dung này. J.P.Charrier trong Phân tâm học, (Nxb Trẻ, Sài Gòn, 1972) đã bàn đến những tư tưởng của phân tâm tâm học về con người thông qua phân tích quan niệm về vô thức, lý luận bản năng, cấu trúc nhân cách,... Tác giả chỉ ra rằng, vô thức đã được đề cập và biết đến từ trước khi phân tâm học ra đời, nhưng việc đi vào tìm hiểu, khám 12 phá và phân tích để thấy rõ vai trò của vô thức tác động đến đời sống tâm thần của con người thì chỉ đến khi xuất hiện phân tâm học. “Đời sống tâm linh không phải chỉ hạn chế trong những gì chúng ta ý thức được mà thôi, rằng dưới những động lực ý thức và những quyết định hợp lý, có một bộ máy tâm linh ở đó những nguyên động lực được che dấu diếm, vô thức hay bị dồn nén vẫn tác động” [10, tr. 15]. Theo Charrier, trong khi chữa trị bệnh hysteria, Freud đã sử dụng phương pháp “liên tưởng tự do” và nó trở thành phương pháp chính của Freud trong việc khám phá ra nhân cách chiều sâu. Tác giả cho rằng, Freud chia bộ máy tâm thần của con người thành ba phần, phần thứ nhất là phi Ngã, phần thứ hai là Ngã và phần thứ ba là siêu Ngã1, mỗi một phần có một nội dung và chức năng khác nhau, từ đó để xem xét, đánh giá cơ cấu nhân cách con người. Bản năng tính dục libido là quan trọng nhất, khi giúp con người tránh những căng thẳng và thỏa mãn các nhu cầu của mình, nó hoạt động theo nguyên tắc thỏa mãn, đây là nguyên tắc giúp “giảm bớt những căng thẳng đau đớn của cơ thể, hầu tránh sự đau đớn khó chịu, và nếu có thể đưa tới khoái lạc” [10, tr. 37]. Nó cũng là nguồn gốc của những thúc đẩy hoạt động của đời sống tâm thần con người được biểu hiện ra hai khuynh hướng là bản năng sống và bản năng chết. Nhưng trong thực tế, cuộc sống con người chịu sự chi phối bởi những phong tục, tập quán, văn hóa, quy phạm xã hội, buộc con người phải từ bỏ một số nhu cầu để được bảo vệ hay sự tán đồng của người khác. Việc từ bỏ này làm con người dần dần bị ức chế, “lực lượng ức chế này làm cho trẻ tập thay đổi những thèm muốn của mình thay vì thế giới bên ngoài” [10, tr. 38], được Freud gọi là nguyên tắc thực tế. Hai nguyên tắc này không chống đối nhau mà nó bổ sung cho nhau, thay đổi tuần tự mục đích của nhau mà thôi. Nhìn chung, công trình của J.P.Charrier đã nghiên cứu khá sâu về một số vấn đề liên quan đến quan điểm phân tâm học Sigmund Freud về con người. Ở mức độ nhất định, công trình này cũng đề cập một cách khái quát đến phân tâm học sau 1 Từ đây trở đi, chúng tôi thống nhất gọi ba yếu tố trong bộ máy tâm thần con người theo quan niệm của Freud (dù các bản dịch dùng từ khác nhau) là: phi Ngã (Id, cái Ấy, cái Nó,…); Ngã (Ego, cái Tôi, bản Ngã,…); siêu Ngã (Superego, cái Siêu tôi,..). 13 Freud như Jung, Erich Fromm, Karen Horney. Tuy nhiên, những nội dung mà Charrier trình bày chưa được hệ thống nên làm cho người đọc khó theo dõi. Cuốn sách Freud đã thực sự nói gì của David Stafford – Clark (Nxb Thế giới, Hà Nội, 1998). Trong cuốn sách này, Stafford - Clark hệ thống hóa một số nội dung cốt lõi của phân tâm học được công bố trong các nghiên cứu của Freud như: Giải thích giấc mơ, tâm bệnh học trong đời sống hàng ngày, khái niệm cấu trúc và chức năng tâm thần, lý thuyết tổng quát về các triệu chứng hysteria, đặc biệt là những bổ sung vào lý thuyết phân tâm và những sửa đổi của Freud, trong đó, ông tập trung chủ yếu vào các vấn đề: Ngã và tâm lý học của những miền sâu; bên kia nguyên tắc khoái cảm, bản năng sống và bản năng chết, thăng hoa và siêu Ngã, phi Ngã và lương tâm. Trong những vấn đề trên, chúng tôi cho rằng việc bổ sung và làm rõ “tâm lý tập thể” là một phần bổ sung quan trọng trong lý thuyết của ông. Tâm lý tập thể như một phẩm chất sống của cộng đồng được đánh giá cao. Phần bổ sung này quan tâm đến điều mà chúng ta thường gọi là “chất dương tính của tập thể”, giải thích tại sao có các cuộc hỗn chiến tham quyền của các dân tộc trên thế giới, các cuộc chiến tranh để phân chia quyền lực hay thị trường. Trước thời kỳ Freud, chứng bệnh hysteria được xem là hiện tượng hay biểu hiện của tà đạo, quỷ thần nên nó không được chấp nhận, nhưng “Freud thấy rằng chứng hysteria thật ra là “một căn bệnh thật sự”; rằng những triệu chứng hysteria được các bệnh nhân cảm thấy một cách có thật” [12, tr. 40]. Clark giới thiệu về các chứng nhiễu tâm (hysteria), từ đó chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những căn bệnh nhiễu tâm trên có chung nguồn gốc là tính dục: “tính dục là gốc rễ của mọi chứng nhiễu tâm và mức độ rối nhiễu cảm xúc tính dục có thể đẻ ra một loạt những triệu chứng tâm lý nào đó gắn liền với số lượng năng lượng thần kinh có liên quan” [12, tr. 58]. Trong công trình, tác giả làm rõ quan điểm của Freud về năng lực tính dục libido trong đó chứa hai bản năng cơ bản: “bản năng bảo vệ sự tồn tại của cơ thể và bản năng bảo đảm sự tái sinh của nòi giống”, một bên sẽ dẫn tới những hành vi giúp cho cá nhân hay chủng loại tồn tại và một bên sẽ dẫn tới sự phá hoại bản thân. Theo Stafford-Clark, Freud thừa nhận sự tồn tại của hai bản năng này bởi vì chúng là yếu 14 tố chi phối hành vi tâm lý thường nghiệm của con người. Sau một thời gian nghiên cứu, Freud kết luận: “Eros - vừa là tính dục, vừa là bản năng sống; Thanatos - bản năng chết”. Hai bản năng này có sức mạnh ngang nhau, chống đối nhau. Một bên thúc đẩy ta hành động, sống và chinh phục còn một bên thúc đẩy để ta buông xuôi, tan biến và chết. Cả hai luôn thúc đẩy ta tìm kiếm sự quân bình. Clark đi sâu nghiên cứu học thuyết Freud với trọng tâm là cấu trúc tính dục trẻ em. Ông viết: “không một đứa trẻ nào có thể nói lên thành lời mặc cảm Oedipe, dù đó là những lời thú nhận, giãi bày, sám hối và xin được yên lòng.” [12, tr. 129 130]. Freud coi cấu trúc tính dục trẻ con cũng như sự phát triển tính dục của nó là nền tảng quan trọng để giải thích các hành vi của con người sau này. Con người qua các thời đại luôn tìm cách thống ngự các đối tượng xung quanh nó, nhưng dường như rất hiếm khi con người quay ngược nhãn quan thống ngự ấy vào chính bản thân mình, khám phá bản chất con người của mình. Clark làm rõ “những nghiên cứu về bản chất con người và những niềm tin của nó” trong lý thuyết bổ sung của Freud, trong đó, Clark nhấn mạnh: Từ đầu đến cuối cuộc đời hoạt động của ông, không hiếm khi Freud đã lấy làm ngạc nhiên về những suy luận và kết luận riêng của mình; nhưng mặc dù lúc đầu có thể bối rối vì chúng, cuối cùng ông không bao giờ lùi bước, cũng không bỏ dở việc đẩy chúng càng xa càng tốt trên con đường đi tới kết cục logic của chúng. Freud đã bắt đầu mong muốn trở thành một nhà tư tưởng, một người hướng dẫn dũng cảm của xã hội loài người [12, tr. 235]. Công trình của David Stafford – Clark đã khảo cứu một cách tổng quát về phân tâm học Freud. Chúng tôi xem đây là những gợi ý quan trọng về mặt học thuật rất hữu ích, nhất là quan điểm của phân tâm học Freud về chứng nhiễu tâm, tính dục, vô thức và nhân cách để tiếp tục làm rõ và triển khai trong luận án, làm rõ bản chất con người trong mối liên hệ với văn hóa – văn minh. Trong công trình Phân tâm học áp dụng vào việc nghiên cứu các ngành học vấn (Nxb Tổ hợp Gió, Sài Gòn, 1969), tác giả Vũ Đình Lưu đưa ra và giới thiệu tư 15 tưởng của ba nhà phân tâm học đó là: E.Fromm, H.S.Sullivan và K.Horney. Fromm và Sullivan xem xét phân tâm học dưới góc cạnh văn hoá và ảnh hưởng qua lại giữa con người với xã hội. Fromm cho rằng, con người thích ứng với xã hội vì ảnh hưởng của giáo dục và văn hoá hơn là vì sự tiến triển của bản năng. Sullivan thì chú trọng đến việc nghiên cứu mối liên hệ giữa cá nhân và người thân thuộc gần xa, giữa cá nhân và tập thể để tìm ra đầu mối những thiên lệch tâm tính, còn Horney tiến xa hơn Sullivan khi ông gán cho văn hoá giáo dục vai trò tất định trong sự cấu tạo nhân cách. Như vậy, việc giới thiệu tư tưởng của ba nhà phân tâm học sau Freud là chủ trương nhấn mạnh và đề cao vai trò giáo hoá trong sự cấu tạo nhân cách con người theo quan niệm phân tâm học. Tác giả khẳng định, sự ra đời của phân tâm học đã tạo nên một cuộc “hôn nhân” với các ngành khoa học xã hội khác. Sự kết hợp tốt đẹp đó cung cấp một cái nhìn đa chiều về con người và xã hội loài người. Mục tiêu của sự kết hợp của phân tâm học với các ngành khoa học xã hội cụ thể khác là chỉ ra những sự thiếu sót trong một ngành cụ thể để đưa đến mục đích là mở đường cho con người ý thức được ý nghĩa chân thực của cuộc sống, của số mệnh. Không những thế phân tâm học còn muốn con người đạt tới sự toàn diện, con người “hiện hữu với người khác” và con người hiện hữu với “tư cách là người”. Cuốn sách là một sự tổng hợp cách tiếp cận khi đưa ra mối quan hệ giữa phân tâm học và các ngành khoa học để giải thích một số vấn đề về con người và xã hội đặt ra. Lưu Hồng Khanh với cuốn sách Tâm lý học chiều sâu – Ý thức và những tầng sâu vô thức (Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005), trình bày những yếu tố trong cấu trúc và những năng lực sinh lý của bộ máy tâm thần con người theo tư tưởng của Jung. Đồng thời, tác giả cũng giới thiệu những kỹ năng sinh học, tâm lý phù hợp giúp khám phá những tầng sâu vô thức, giải mã những mặc cảm đen tối, cũng như phát huy những tiền năng sáng tạo nhằm tạo ra nhân tính con người quân bình, điều hòa và hướng tới một cuộc sống lạc quan với người khác, với xã hội và tự nhiên. Theo Lưu Hồng Khanh, Jung đi xa hơn Freud trong quan niệm về vô thức, “quan niệm vô thức không chỉ là vô thức cá nhân, mà còn cả vô thức tập thể” [90, 16 tr. 23]. Tác giả đưa ra hai phương pháp đó là: giải mộng và chủ động tưởng tượng để hiểu về vô thức tập thể. “Giải mộng là phương pháp cho thấy được các ý nghĩa của chiêm mộng và từ đây đưa đến thể hiện những ý nghĩa đó trong thực tại cuộc sống” [90, tr. 190] còn “phương pháp chủ động tưởng tượng con người đi một bước đầu đến với vô thức” [90, tr. 190]. Thông qua hai phương pháp này, chúng ta có thể phỏng vấn, phân tích, trao đổi để những gì trong vô thức được bộc lộ ra và có cách ứng dụng vào cuộc sống. Phạm Minh Lăng với Sigmund Freud và Tâm phân học (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1998). Diện mạo của “Tâm phân học” (phân tâm học) được tác giả phác họa qua lý thuyết tình dục, lý thuyết về vô thức. Tác giả lưu ý rằng, phân tâm học cũng như các phát minh khoa học khác khi nhìn nhận đánh giá cần có một thái độ khoa học khách quan bởi “quan niệm khác nhau về thế giới quan, cụ thể về triết học, về truyền thống đạo đức, tập quán… nhất là sự khác nhau về quan điểm chính trị, xã hội… hay xem xét đánh giá vấn đề theo cảm tính” [xem: 95, tr.19 - 21] sẽ dẫn đến một cách nhìn phiến diện, thiên kiến, không chính xác về vấn đề mà chúng ta nhìn. Phạm Minh Lăng xem việc nghiên cứu về vô thức chính là cửa ngõ để đạt đến hiểu biết sâu sắc về con người, tuy nhiên ông cũng lưu ý rằng “quan niệm của phân tâm học về vô thức là một vấn đề vô cùng phức tạp và nó đụng đến tận gốc những điều mà con người đã hay biết về nó” [95, tr. 57]. Theo ông, vô thức ngoài nguồn gốc có tính sinh lý bẩm sinh do cơ quan sinh lý phát động còn có sự tác động từ bên ngoài xã hội. Với cách nhìn nhận như vậy, tác giả cho rằng: “theo phân tâm học ngoài mặt sinh lý bẩm sinh, bản năng, vô thức còn có mặt khác, đó là hoàn cảnh sống của mỗi người trong xã hội. Chính sự tác động từ bên ngoài này quyết định sự hình thành cái vô thức và nội dung của nó chẳng có gì ngoài cái người đời đã từng gặp phải trong đời sống của mình” [95, tr. 60]. Vô thức bao gồm tất cả những biến cố, những kỉ niệm, những ký ức mà con người đã trải qua trong quá trình sống từ khi sinh ra, nhưng chưa được thực hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, theo tác giả thì nguyên nhân xã hội giữ vai trò to lớn và thường là quyết định. Vô 17 thức có vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy tâm thần con người cũng như trong việc chữa trị bệnh tâm thần. Theo tác giả, tính dục nảy sinh từ khi con người được sinh ra, có một vị trí đặc biệt bởi nó liên quan trực tiếp đến việc tìm hiểu và chữa trị các chứng bệnh tâm thần. Những sự cấm đoán thô bạo đối với những hành vi tính dục trẻ em không những không ngăn chặn được hoàn toàn mà nó có thể sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về sau trong cuộc đời. Do đó, con người cần tiếp thu một nền giáo dục lành mạnh và hợp lý trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội. Cuốn sách Sigmund Freud và Tâm phân học của Phạm Minh Lăng đã khái quát một số lý thuyết quan trọng của phân tâm học, cung cấp những kiến thức cần thiết cho việc hiểu rõ hơn phân tâm học Freud về con người. Cuốn sách Chủ nghĩa Mác phương Tây (trường phái Frankfurt) do Nguyễn Chí Hiếu và Đỗ Minh hợp đồng chủ biên (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2013) giới thiệu toàn cảnh về chủ nghĩa Mác phương Tây ở trường phái Frankfurt và trình bày một số đại diện tiêu biểu của trường phái Frankfurt, khi giới thiệu về Fromm, các tác giả cho rằng, “trong suốt sự nghiệp sáng tạo của mình, ông nghiên cứu có hệ thống những vấn đề về con người trên các phương diện phân tâm học, nhân học triết học và tâm lý học xã hội” [68, tr. 205]. Theo các tác giả, công lao của Freud là khám phá ra vô thức, nhưng chưa được chứng minh đầy đủ nếu chỉ dựa trên quan điểm sinh vật học khi nghiên cứu về con người. Với Mác, “ông đã bỏ qua sự hiện diện của các lực lượng không hợp lý trong hoạt động sống của con người, chúng liên tục phục hồi thói “hám quyền và phá hủy” ở con người, ngoài ra, không cho phép con người đạt tới tự do nếu không sử dụng lực lượng mang tính giải phóng nội tâm của phân tâm học” [68, tr. 207]. Do vậy, theo Fromm, để hiểu rõ con người cần có sự tích hợp quan điểm phân tâm học Freud và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế học của Mác để luận giải về con người. “Với việc coi nhẹ các khát vọng của con người như vậy, chỉ có thể chấp nhận quan điểm của Mác sau khi đã chuẩn xác hóa và bổ sung căn bản nó về mặt khoa học” [68, tr. 207]. Theo chúng tôi, đây là công trình trình bày khái quát quan điểm phân tâm học Fromm về con người trên cơ sở tích hợp giữa phân tâm học Freud và chủ nghĩa Mác. Bước đầu cung cấp cho chúng tôi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan