Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh nghệ an...

Tài liệu Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh nghệ an

.PDF
88
526
125

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TĂNG THỊ THANH SANG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN Chuyên ngành : Chính sách công Mã số : 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, 2016 0 LỜI CAM ĐOAN Đề tài nghiên cứu " Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn Tỉnh Nghệ An " của Luận văn này là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng, tìm tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Võ Khánh Vinh . Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong của công trình là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khoa học khác trong cùng lĩnh vực, phạm vi. Những lời khai trên đây hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Tăng Thị Thanh Sang MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT...............................................................................8 1.1. Khái niệm về chính sách giáo dục pháp luật.........................................................8 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò và các chủ thể thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật..............................................................................................12 1.3.Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.......................................................................................................23 1.4. Các giai đoạn thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật....................25 1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật..............................................................................................................................31 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TẠI TỈNH NGHỆ AN……………………………………………...34 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng tới tổ chức thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật tại tỉnh Nghệ An..................................................................................................34 2.2. Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.................36 2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật .............37 2.4. Đánh giá khái quát kết quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Nghệ An ............................................................................................................55 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................................................63 3.1. Phương hướng tăng cường chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật................63 3.2.Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.67 KẾT LUẬN …………………………………………………………………….78 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 80 DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT CB, CC, VC : Cán bộ, công chức, viên chức CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa CSGDPL : Chính sách giáo dục pháp luật CSPBGDPL : Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật CSPL : Chính sách pháp luật GDPL : Giáo dục pháp luật HĐND : Hội đồng nhân dân UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng 2.1 Tên bảng Trang Đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu chung Error! Bookmark not defined. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là một trong những công tác quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). PBGDPL là chiếc cầu nối và là phương tiện không thể thiếu trong việc nâng cao tri thức pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, mặt khác, Người quan tâm đặc biệt đến giáo dục ý thức tiến bộ cho nhân dân trong đó bao gồm ý thức về pháp luật, Người kêu gọi: "Mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nhà nước"[7, tr164]. Người cũng cho rằng chấp hành pháp luật là nghĩa vụ cao cả của công dân và đòi hỏi công dân phải cùng nhau ra sức giữ gìn trật tự, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V chỉ rõ: "Các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể phải thường xuyên giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn trọng pháp luật" [15,tr 46]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - Đại hội của đường lối đổi mới toàn diện đất nước khẳng định rõ vai trò của công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật (GDPL): Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật, đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước để kể cả các trường phổ thông, đại học, của các đoàn thể nhân dân. Cán bộ quán lý các cấp từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức pháp luật, cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân [11,tr245]. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác PBGDPL càng có ý nghĩa quan trọng và được quan tâm nhiều hơn ở mọi cấp, mọi ngành. Công tác PBGDPL tốt sẽ giúp mọi người hiểu biết pháp luật, chấp hành pháp luật và luôn có ý thức: "sống và làm việc 1 theo Hiến pháp và pháp luật", góp phần tích cực trong ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững ở từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Thực hiện Chỉ thị số 32CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Trung ương Đảng về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân", chương trình PBGDPL của Chính phủ từ năm 2008 - 2010 và Nghị quyết liên tịch số 01 ngày 07/9/1999 về việc phối hợp PBGDPL cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Chương trình 212 với đề án "Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2008- 2012"... trong những năm qua, Tỉnh Nghệ An đã nghiêm túc triển khai thực hiện. Lực lượng cán bộ làm công tác PBGDPL được kiện toàn, củng cố, ngày càng đảm bảo về số lượng và chất lượng. Hình thức và phương pháp tuyên truyền ngày càng phong phú không ngừng được cải tiến phù hợp với từng địa phương. Góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, từng bước ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện thắng lợi mục tiêu: "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được, công tác PBGDPL ở tỉnh Nghệ An còn nhiều tồn tại, hạn chế như: Đội ngũ cán bộ làm công tác này còn hạn chế, nội dung tuyên truyền chưa đầy đủ, hình thức, phương pháp tuyên truyền chưa mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn Tỉnh Nghệ An", mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Đặc biệt là trong giai đoạn nước ta đang có chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau được thể hiện dưới các hình thức như: đề tài khoa học; giáo trình; bài báo; bài đăng tạp chí chuyên nghành… Có thể khái quát một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề nghiên cứu dưới các góc độ tiếp cận 2 Tiếp cận dưới góc độ lý thuyết chính sách công - Hồ Văn Thông (chủ biên, 1999), Tìm hiểu về khoa học chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống các vấn đề về chính sách công dưới góc độ lý thuyết như: khái niệm về chính sách công và khoa học chính sách công, phân tích chính sách công trong thực tế, những khuynh hướng phát triển cơ bản của chính sách công, công trình là tài liệu tham khảo quan trọng của luận văn. - Đoàn Thu Hà, Nguyễn Ngọc Huyền (chủ biên, 2000), Giáo trình Chính sách Kinh tế xã hội, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Công trình đề cập đến vấn đề nghiên cứu trên các khía cạnh như: công cụ quan lý kinh tế - xã hội; hoạch định và chính sách kinh tê- xã hội ; tổ chức thự thi chính sách kinh tế - xã hội, phân tích chính sách … - Nguyễn Đăng Thành (chủ nhiệm đề tài, 2004) Chính sách công, Cơ sở lý luận, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đề tài đã nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về chính sách công như : lý thuyết chính sách công, công; các công cụ nghiên cứu chính sách công; các cách tiếp cận khi nghiên cứu chính sách công. - Chu Văn Thành (Chủ biên, 2006), Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này đã tập hợp các bài viết về dịch vụ công, trong đó có giáo dục tư cách là những dịch vụ công chủ yếu mà Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp. - Nguyễn Hữu Hải (chủ biên,), Chính sách công - những vấn đề cơ bản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Cuốn sách cung cấp những kiến thức lý luận chung nhất về chính sách công như: quá trình phát triển khoa học chính sách; đặc điểm, vai trò và phân loại chính sách công; cấu trúc nội dung và chu trình chính sách công; nguyên tắc, căn cứ, các bước và phương pháp, công cụ hoạch định chính sách công; yêu cầu, các hình thức, phương pháp tổ chức thực thi chính sách công và phân cấp quản lý chính sách công; nguyên tắc, tiêu chí, quy trình, nội dung và phương pháp phân tích chính sách công; nội dung đánh giá chính sách công; tổ chức công tác phân tích, đánh giá chính sách công. Tiếp cận dưới góc độ chính sách phổ biến giáo dục pháp luật. 3 Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn Tỉnh Nghệ An” cho thấy các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau: Nhóm thứ nhất, gồm các công trình nghiên cứu khái quát một số vấn đề lý luận về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật như các sách tham khảo, chuyên khảo: “Bàn về giáo dục pháp luật” của PTS Trần Ngọc Đường và Dương Thị Thanh Mai (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995); “Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật” của TSKH. Đào Trí Úc (Hà Nội, 2002); “Nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật” do Bộ Tư pháp biên soạn (Nxb Thanh niên, 1998); “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp năm 2004; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, MS 92-98-223-ĐT của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp; “Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật Việt Nam” của Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Hà Nội, 2004). Nhìn chung, ở các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về CSGDPL và đề cập một số biện pháp hình thành ý thức và lối sống theo pháp luật. Nhóm thứ hai, gồm các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về GDPL cho từng đối tượng cụ thể như: “Một số vấn đề về giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số” của Nguyễn Duy Lãm (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996); "Cẩm nang pháp luật giành cho Trưởng thôn" của Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý, Đại học Quốc gia Hà Nội (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1996); “Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội” (2002) của TS. Lê Văn Hoè đã phân tích thực tiễn quan trọng về GDPL theo nghĩa rộng, hẹp ở các đại bàn khác nhau và vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số, đặc điểm, vai trò, nội dung GDPL cho mọi đối tượng nhân dân, đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp về GDPL mỗi địa phương. Luận án PTS Luật học: “Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (Không chuyên Luật) ở nước ta hiện nay” (1996) của tác giả Đinh Xuân Thảo; Luận văn thạc sĩ Luật học: “Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Tuyên Quang” (2001) của tác giả Vi Thị Thu Hiền; “Giáo dục pháp luật cho cán 4 bộ, công chức tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay” (2007) của tác giả Trần Thị Nụ; Bài viết: “Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước” của Lương Thanh Cường (Dân chủ và pháp luật, số 6 (147, năm 2004)… đã đề cập việc GDPL cho từng nhóm đối tượng khác nhau, đưa ra những luận cứ khoa học có giá trị về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện thuận lợi hay khó khăn ở mỗi địa phương có thể khác nhau tuỳ thuộc nhiều vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội mỗi địa bàn. Nhóm thứ ba gồm các cẩm nang, báo và tạp chí về GDPL cho từng đối tượng cụ thể như: “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật”, Nxb Văn hóa dân tộc, Bộ Tư pháp - Chương trình phát triển Liên hợp quốc; “Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam- giai đoạn 2”, (2015) Dự án VIE/98/001; “Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật” (2016) Nxb Hà Nội; “Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”; “Giáo dục pháp luật cho nhân dân” của tác giả Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, tr.34-38, năm 1983); “Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới” của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, tr. 18-22, năm 1985); “Giáo dục ý thức pháp luật” của Nguyễn Trọng Bích (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, tr. 34-35, năm 1989); “Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai; “Bàn về giáo dục pháp luật” ( 1995)của phó tiến sĩ Trần Ngọc Đường - Dương Thị Thanh Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng; “Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới” của Hồ Viết Hiệp (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000). “Xây dựng lối sống theo pháp luật và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2001, v.v... Những nghiên cứu trên đây đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề lý luận thực tiễn quan trọng về GDPL nói chung. Tuy nhiên các tài liệu này hoặc mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra khái niệm và lý thuyết về công tác này, đây là một đề tài luận văn nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện CSGDPL nói chung và đặc biệt đối với tỉnh Nghệ An. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận chính sách phổ biến giáo dục pháp luật, quan niệm về phổ biến giáo dục pháp luật và những nhân tố ảnh hưởng hiệu quả phổ biến giáo dục pháp luật, luận văn phân tích thực trạng thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật từ thưc tiễn tỉnh Nghệ An nhằm hoàn thiện về mặt pháp luật đối với công tác phổ biến giáo dục pháp luật hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu có tính khả thi đối với việc hoàn thiện thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh Nghệ An trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nêu trên, Đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về chính sách PBGDPL ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò quan trọng của chính sách PBGDPL; - Khảo sát đánh giá thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Nghệ An ; trên cơ sở chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các hạn chế, bất cập; - Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách PBGDPL của nước ta trong giai đoạn hiện nay 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là đánh giá quá trình thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn Tỉnh Nghệ An hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện chính sách PBGDPL là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, dưới góc độ chính sách công, đề tài luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về việc thực hiện chính sách PBGDPL trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ 2010 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu 6 Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành, xã hội học; vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Lý thuyết nghiên cứu chính sách công được chứng minh qua thực tiễn giúp hình thành lý luận chính sách công. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, tổng hợp (trên cơ sở tài liệu thu thập được để phân tích, đánh giá, tổng hợp tình hình). - Phương pháp so sánh (so sánh chính sách phát triển công chức ngành Nội vụ với chính sách phát triển công chức các ngành khác; so sánh hiệu quả chính sách phát triển công chức theo từng năm...). - Phương pháp chuyên gia (tham khảo ý kiến của các thầy, cô giáo nghiên cứu về chính sách phát triển công chức nói chung và chính sách phát triển công chức ngành Nội vụ từ thực tiễn tỉnh Hà Giang nói riêng). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Các kết quả, kết luận rút ra từ việc nghiên cứu đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung, thực hiện chính sách PBGDPL trong quản lý nhà nước nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn cung cấp một cách khách quan, toàn diện về thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL ở tỉnh Nghệ An. Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền, PBGDPL, góp phần cung cấp luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện các giải pháp thực hiện CSGDPL của tỉnh Nghệ An trong tình hình mới hoàn thiện chính sách giáo dục pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục thành 3 chương như sau : Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật. Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Nghệ An. Chương 3. Phương hướng và giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật ở Việt Nam hiện nay. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm về chính sách giáo dục pháp luật Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo đức và những trí thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội [30,tr.20]. Tìm hiểu khái niệm chính sách giáo dục pháp luật trước hết cần tìm hiểu các quan niệm sau đây về giáo dục pháp luật: - Quan niệm thứ nhất: Xem hoạt động chính sách GDPL đồng nhất với việc tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật như các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, bộ luật Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử HĐND các cấp. Quan niệm này coi chính sách GDPL chỉ còn là một công việc của cơ quan chuyên trách hay các phương tiện thông tin đại chúng, từ đó làm mất tính tổ chức, tính hệ thống của hoạt động GDPL. - Quan niệm thứ hai, Cho rằng không có khái niệm chính sách về GDPL vì pháp luật là các quy tắc có tính bắt buộc chung, mọi người phải có nghĩa vụ tuân thủ. Theo quan niệm này, tự bản thân pháp luật đã có tính giáo dục bởi những quy tắc của nó. Pháp luật không thể là cái thuộc tính tuyên truyền vận động, ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh. - Quan niệm thứ ba, Đồng nhất chính sách GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý thức pháp luật, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Nếu hiểu theo quan niệm này thì đồng nghĩa với việc trong xã hội không có cái gọi là “GDPL” và do vậy cũng không có cơ quan, đơn vị, tổ chức hay cá nhân nào có chức năng chính sách GDPL. Các quan niệm nói trên đều mang tính một chiều, chưa thấy hết đặc thù, sự tác động của chính sách GDPL. Bởi vì, bản thân pháp luật mới chỉ là văn bản, qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng “tiềm năng”. Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống 8 thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: ban hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát. Trong cơ chế đó có yếu tố con người là cơ bản. Khi tham gia các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hiểu rõ và có quan điểm đúng đắn về chính sách GDPL. Chính sách GDPL trong thực tiễn hiện nay theo quan niệm chung của nhiều nhà khoa học đều tán thành theo nghĩa hẹp của giáo dục. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm chính sách GDPL xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục còn được xác định qua các yếu tố sau đây: Một là, khái niệm chính sách GDPL theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù chính sách GDPL với phạm trù ý thức pháp luật. Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt động chính sách GDPL, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động chính sách GDPL. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc triển khai thực hiện chính sách GDPL thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội chưa được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất mạnh lên nhận thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình thành loại ý thức pháp luật ngược với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn các yêu tố của chính sách GDPL như nội dung, hình thức, phương pháp… và định hướng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp luật phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ sẽ giảm bớt được tác động của các tiêu cực, giúp cho đối 9 tượng được giáo dục có ý thức pháp luật vững vàng, có khả năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp luật trong quá trình vận động của nó. Từ đó có thái độ và hành động phù hợp với pháp luật. Hai là, trong đó các điều kiện khách quan theo các nhà lý luận giáo dục là những nhân tố ảnh hưởng tới ý thức con người và nhân tố ảnh hưởng có thể theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố chủ quan là nhân tố tác động có chủ đích, có định hướng, có nội dung và phạm vi nhất định. Đúng như C.Mác đã viết: “Con người vẫn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục, do đó, con người ta biến đổi là sản phẩm của hoàn cảnh và của một nền giáo dục đã thay đổi” [30,tr.20]. Nếu nhân tố khách quan ảnh hưởng cùng chiều với nhân tố tác động thì hiệu quả giáo dục sẽ tăng. Ngược lại nếu nhân tố ảnh hưởng khác chiều với nhân tố tác động thì hiệu quả sẽ bị giảm sút. Khi thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và các nhà giáo dục học nhấn mạnh vai trò cực kỳ quan trọng của nhân tố chủ quan trong việc đảm bảo cho hoạt động giáo dục mang tính định hướng, có tổ chức của cơ quan Đảng, Nhà nước và tổ chức xã hội. Bởi lẽ, ngoài tác động của các điều kiện khách quan cụ thể thì sự tác động của nhân tố chủ quan bao giờ cũng là sự tác động mang tính tự giác và tính tổ chức cao. Do đó, đòi hỏi phải có sự tác động điều chỉnh tích cực, có định hướng của nhân tố chủ quan lên các ảnh hưởng bất lợi của các nhận tố khách quan như việc xác định nội dung, chương trình pháp luật, cần được đề ra kế hoạch giáo dục cho từng đối tượng cụ thể. Ba là, xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục theo khoa học sư phạm xây dựng khái niệm chính sách GDPL. Từ đó, cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của chính sách GDPL với cái chung. Chính sách GDPL vừa mang những đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo đức… Tính đặc thù của chính sách GDPL thể hiện ở cả mục đích, nội dung và hình thức, phương pháp. Nét đặc thù của chính sách GDPL khác tương đối với các dạng giáo dục khác ở chỗ: + Chính sách GDPL có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. 10 + Chính sách GDPL có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một Nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng. + Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục cũng có thể khái quát các nét đặc thù của chính sách GDPL. Chẳng hạn, chính sách GDPL so với các dạng giáo dục khác, đó là quá trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, chính sách GDPL trở thành sợ chỉ đỏ xuyên suốt qua gia đình, nhà trường, các tập thể, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp. Nhân tố con người với hành vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật. Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của người được giáo dục là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người thực hiện chính sách GDPL cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Với khái niệm chính sách GDPL nêu trên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Chính sách GDPL là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế XHCN nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ thực hiện pháp luật cho mọi công dân, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Thực tiễn cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác thực hiện chính sách GDPL là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân còn thấp. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa mang tầm chiến lược của chính sách 11 thực hiện GDPL nói chung và chính sách GDPL nói riêng. Đây là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Với phân tích như vậy, khái niệm chính sách giáo dục pháp luật cho mọi thành phần, đối tượng con người có thể hiểu: là tổng hợp các hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau do chủ thể giáo dục pháp luật tiến hành nhằm tác động đến tầng lớp nhân dân nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò và các chủ thể thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật 1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách: hiện thực hóa chính sách , đưa chính sách vào cuộc sống .Chất lượng hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ ,công chức trong thực hiện chính sách. Thực trạng năng lực thực hiện chính sách ở nước ta cho ta thấy, bên cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Do đó nghiên cứu về vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách có ý nghĩa khoa học, thiết thực và cấp bách hiện nay . Từ những luận giải trên đây có thể đi đến một khái niệm cơ bản về thực hiện chính sách PBGDPL như sau : Thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật là toàn bộ quá trình chính sách vào đời sống xã hội theo một quy trình , thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề phổ biến giáo dục pháp luật đang diễn ra đối với những đối tượng cụ thể trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định. Việc thực hiện chính sách giáo dục pháp luật là việc thực hiện hóa các quyết định chính trị về giáo dục pháp luật. Đây là khâu đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách giáo dục pháp luật. Nó có nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách giáo dục pháp luật của Nhà nước, đưa chính sách giáo dục pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Hoạch định chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông , không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến úy 12 tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách . Nếu chính sách không được thực hiện sẽ trở thành dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước gây bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những khó khăn , bất ổn cho nhà nước trong quản lý. 1.2.2. Đặc điểm, nội dung, vai trò của việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật - Đặc điểm của thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật Thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước đề ra nhằm từng bước nâng cao dân trí pháp luật, nâng cao năng lực áp dụng đúng pháp luật, xác lập kỷ cương, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ban, ngành, đoàn thể, công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ, nhân dân. Thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục trính trị, tư tưởng. Thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây dựng, thực hiện pháp luật. Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật được tổ chức thực hiện bởi những chủ thể xác định (Chính phủ, Các bộ, ngành Trung ương, UBNB các cấp). Trước hết là thành viên Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật các cấp. Đồng thời, tham gia công tác hoạch định chính sách, xây dựng luật pháp thông qua việc tham gia xây dựng các Bộ luật, Luật và các văn bản dưới Luật có liên quan; các văn bản quy phạm pháp luật về phổ biến giáo dục pháp luật, các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn, ngắn hạn, hàng năm; tham gia các Chương trình hành động quốc gia phổ biến giáo dục pháp luật, Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ và các Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật hàng năm. Tùy điều kiện cụ thể, từng tổ chức chính trị - xã hội ký Chương trình phối hợp với các Bộ, ngành tuyên truyền, phổ biến những chính sách pháp luật trọng tâm của các Bộ, ngành: các Bộ, ngành cung cấp văn bản pháp luật, các nguồn lực; các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật 13 thông qua hệ thống tổ chức và mạng lưới tuyên truyền viên, cộng tác viên pháp luật tại cơ sở. Tăng cường phối hợp với ngành Tư pháp xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật là đội ngũ cán bộ Hội các cấp: ngành Tư pháp hướng dẫn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền giáo dục pháp luật và cung cấp tài liệu pháp luật cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật nhằn truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật giúp đối tượng được tác động có những hiểu biết nhất định về pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Hiện nay, trên 70% dân số sống ở vùng nông thôn, giai cấp nông dân là lực lượng cơ bản góp phần quan trọng vào sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên thực tế hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trình độ dân trí thấp, nhận thức về pháp luật của nông dân còn hạn chế, số đông nông dân ít có điều kiện tiếp cận với pháp luật và các dịch vụ pháp lý của Nhà nước. Chính vì vậy, việc nâng cao dân trí pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật cho nông dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay - Mục đích của việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật Thứ nhất, trang bị tri thức pháp luật nhằm hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của mọi tổ chức, công dân. Thông qua việc thực hiện chính sách PBGDPL, người làm công tác giáo dục được trang bị những tri thức cơ bản về pháp luật, giá trị của pháp luật, vai trò, phạm vi điều chỉnh của pháp luật và các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống. Thứ hai, hình thành, bồi dưỡng tình cảm và phát triển lòng tin đối với pháp luật cho mọi công dân, mọi người dân. Niềm tin vào pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi. Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở, nền tảng để hình thành động cơ của hành vi hợp pháp. Trong cuộc sống, cũng có những trường hợp có người có kiến thức, tri thức pháp luật nhưng không có lòng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên pháp luật, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi. Khi con người tin vào tính công bằng của những đòi hỏi của quy phạm luật thì không cần một sự tác động bổ sung nào của Nhà nước để thực hiện những đòi hỏi đó, khi ấy họ tự có hành vi, lối ứng xử, thói quen xử sự hợp 14 pháp, hợp lý. Có lòng tin vào tính công bằng của pháp luật, con người sẽ có hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện. Thứ ba, giáo dục ý thức nhân cách, hình thành động cơ, hành vi tuân thủ pháp luật và rèn luyện thói quen xử sự hợp pháp, tích cực. Mục đích của việc thực hiện chính sách PBGDPL nêu trên có mối liên hệ qua lại thống nhất với nhau từ nhận thức đến tự giác, từ tự giác đến tích cực và từ tích cực đến thói quen xử sự hợp pháp. Chính sách PBGDPL là nhằm hình thành ý thức pháp luật trong mỗi công dân. Kết quả của GDPL phải được thể hiện ở hành vi cư xử phù hợp pháp luật của các công dân. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng niềm tin pháp luật là tiền đề giáo dục ý thức nhân cách rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật. Thứ tư, CSGDPL là nhằm hình thành ở mỗi thành viên trong xã hội ý thức pháp luật bền vững. Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan niệm pháp luật và tình cảm pháp luật, cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những học thuyết, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các chủ thể khác” [7, tr. 292]. - Nội dung thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật Thực hiện chính sách chính sách phổ biến giáo dục pháp luật được thể hiện thông qua các nội dung cơ bản sau : Một là, tổ chức thực hiện CSGDPL một cách có tính hệ thống. Các chương trình, nội dung tập trung giới thiệu, hướng dẫn và giải thích rõ các quan điểm, chủ trương về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và các văn bản quy phạm pháp luật mới, văn bản pháp luật hiện hành, các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến đời sống cán bộ, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, pháp luật về các lĩnh vực chuyên ngành, về lao động, việc làm, hội nhập kinh tế quốc tế, về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tệ nạn xã hội, an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở... Phát huy vai trò của các luật gia, 15 cán bộ công đoàn, cán bộ Đoàn TNCSHCM, đội thanh niên tình nguyện để thực hiện chính sách PBGDPL thông qua phong trào các đoàn hội, liên đoàn, tổ chức tình nguyện, các phương tiện thông tin đại chúng, khai thác tài liệu pháp luật. Câu lạc bộ pháp luật, xét xử lưu động phù hợp với từng nhóm đối tượng người dân, đoàn viên, thanh thiếu niên và từng địa bàn cư trú, tính chất công việc, học tập, lao động, ngành nghề, đặc điểm lứa tuổi, tâm lý và nhu cầu của đối tượng, phối hợp với các cơ quan nhà nước và các tổ chức liên quan trong thực hiện CSGDPL cho nhân dân; Hai là, sau khi Nhà nước ban hành pháp luật thì các cơ quan, tổ chức, đơn vị có chức năng liên quan phải tổ chức thực hiện pháp luật, làm tốt vai trò này cũng chính là quá trình củng cố, tăng cường pháp chế XHCN. Thực hiện chính sách PBGDPL cho mọi công dân chấp hành và tuân thủ pháp luật còn là trách nhiệm của cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến địa phương và cơ sở. Do đó, phải “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội” [10, tr. 241]. - Ý nghĩa , tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luât. Thực hiện chính sách là một khâu quan trọng trong chu trình chính sách , là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành nhiệm vụ thực hiện với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất đinh. Vì thế, thực hiện chính sách có nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách vào cuộc sống nên nó có vai trò hết sức quan trọng. Việc thực hiện chính sách PBGDPL không chỉ góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chính sách mà còn khẳng định tính đúng đắn của chính sách, vai trò của chủ thể trò của chủ thể trong việc thực hiện chính sách, góp phần nâng cao niền tin của đối tượng quản lý đối với chủ thể chính sách cũng như niềm tin của nhân dân đối với các cấp ủy Đảng và chính quyền. Chính vì vậy, thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật luôn có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, là một bộ phận của công tác giáo dục 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan